Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Dẫn nhập

11/11/201017:54(Xem: 12535)
Dẫn nhập


DẪNNHẬP

SỰHÌNH THÀNH CỦA A-TỲ-ÐẠT-MA

Batạng: Tu-đa-la-tạng, Tỳ-nại-da tạng, A-tỳ-đạt-ma tạng.Chữ A-tỳ-đạt-ma luận thường để chỉ các luận thư củacác bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Ðại thừa.Abhidharma Trung Hoa dịch âm là A-tỳ-đàm, A-tỳ-đạt-ma, vàdịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Ðối pháp.

A.ÐỊNH NGHĨA

Nguyêntrong kinh A-hàm đức Phật dùng chữ A-tỳ-đạt-ma với dụngý tán mỹ các pháp nghĩa thâm huyền, rộng lớn không gì sánhkịp, dần dần nó biến chuyển qua nhiều nghĩa bởi các luậnsư của các bộ phái. Như luận sư Bà-sa thì gọi A-tỳ-đạt-malà phục pháp, vì nó hàng phục được tất cả tà thuyếtcủa ngoại đạo. Hóa địa bộ thì gọi là chiếu pháp, vìnó có khả năng chiếu soi tất cả tánh tướng các pháp. Thídụ sư thì gọi là thứ pháp, vì Niết-bàn là tối thượng,nó dưới pháp Niết-bàn một bực. Chánh lý sư thì gọi làThông pháp, vì nó có khả năng thấu đạt tất cả khế kinh.Hiếp Tôn Giả thì gọi là Cứu kính tuệ, Quyết đoán tuệv.v...đến ngài Thế Thân thì gọi là Ðối pháp với hai nghĩalà đối hướng và đối quán. Ðối là đối diện hướngtới. Ðối diện hướng tới Niết-bàn gọi là Ðối hướngNiết-bàn và đối diện quán sát pháp Tứ đế gọi là Ðốiquán. Pháp của Phật dạy không ngoài hai thứ là pháp Vô lậuthắng nghĩa (Niết-bàn) và pháp Hữu lậu pháp tướng. Trítuệ quán sát pháp tướng và chứng nhập Niết-bàn thì gọilà Ðối pháp trí hay A-tỳ-đạt-ma.

Ðạt-madịch là Pháp có nghĩa là tự giữ lấy tính cách nó (nhậmtrì tự tánh) và làm mẫu mực phát sinh cho sự nhận biết(quỹ sanh vật giải).

Ðạt-matức Dharma từ tự căn Dhri (giữ lại, mang) tức là cái đượcnắm giữ, hay lý tưởng nếu giới hạn ý nghĩa nó trong tácvụ tâm lý. Trình độ tâm lý sai biệt tùy sự tiếp nhậncủa mỗi cá thể:

1.Ở đức Phật nó là sự toàn giác hay viên mãn giác (Bồ-đề).
2.Lý tưởng diễn tả trong ngôn từ là giáo lý giáo pháp.
3.Lý tưởng đề ra cho đệ tử theo là luật nghi, đức lý,cấm giới.
4.Lý tưởng để chứng ngộ sẽ là nguyên lý, chân lý, bảntính, luật tắc, điều kiện.
5.Lý tưởng thể hiện trong một ý nghĩa tổng quát đó là sựthật thực tại, sự kiện, sự thể, yếu tố, (bị tạo haykhông bị tạo), tâm và vật, ý thể và hiện tượng. Trongtrường hợp phái duy thật của các luận sư A-tỳ-đạt-ma,chữ Ðạt-Ma được dùng nhiều nhất theo nghĩa thứ năm.

A-tỳtức Abhi (tiếp đầu ngữ) có nghĩa là hơn thế, nói về.Như vậy Abhidharma, có nghĩa là pháp tối thắng, hay là "Thắng",hay trần thuật về pháp. Ngài Buddhagosa (Phật Âm, Phật Minh)trong Na-tư-mạn-già-la Y-lạp-hy-ni (sách giải thích Dhiga Nikaya)dẫn bài tụng:" Có pháp tăng thịnh đặc thù, tôn trọng,nói rõ, tối thượng, thế gọi là A-tỳ-đạt-ma". Như vậynó rốt ráo có hai điểm. Về nội dung thì ý nghĩa thù thắng,về phương pháp luận cứu thì tường tận khúc chiết. NgàiPhật Âm còn nói:". Trong kinh, pháp ngũ uẩn chỉ được thuyếtminh một cách đại khái chứ không đi sâu vào chi tiết, còntrong A-tỳ-đạt-ma thì phân biệt kinh, phân biệt luận, phânbiệt vấn đáp, nên pháp ngũ uẩn được thuyết minh mộtcách cặn kẻ đầy đủ".

LuậnÐại Trí Ðộ nói: "A-tỳ-đạt-ma là gì? Ðáp: Là đối vấnmà đáp, hoàn toàn là hình thức luận cứu, nêu ra nhiều mặtđể phân biệt, như nói về 18 giới, thì phân biệt cái nàocó sắc, cái nào không sắc? Cái nào có thể thấy, cái nàokhông thể thấy? Cái nào hưũ lậu, cái nào vô lậu? Cái nàothiện, cái nào bất thiện? Cái nào hữu báo, cái nào vô báo?v.v....như thế gọi là A-tỳ-đạt-ma".

Lạinhư bảy kiết sử là dục nhiễm, sân nhuế, hữu ái, kiêumạn, vô minh, kiến, nghi (Kinh Mật Hoàn Dụ số 115, Trung A-hàm)trong đó cái nào là dục giới hệ (trói buộc ở cõi Dục)?.Cái nào là sắc giới hệ? Cái nào vô sắc giới hệ? Cáinào kiến đế đoạn?. Cái nào tư duy đoạn? Cái nào biếnsử? Cái nào bất biến sử? v.v...

NgàiChân Ðế và ngài Huyền Trang đều dịch Abhidharina là Ðốipháp, có nhiệm vụ tập hợp các pháp nghĩa lại rồi đemra phân loại, định nghĩa, giải thích và phân biệt. Ðốipháp có hai là Ðối quán lý Tứ đế và Ðối hướng quảNiết-bàn. Như vậy không thể hiểu Abhi,A là vô, Bhi là tỷmột cách máy móc được.

B.NGUỒN GỐC CỦA A-TỲ-DẠT-MA

Nóđã bao gồm trong sự thuyết pháp của đức Phật. Ðức Phậtthuyết pháp một cách ung dung tự tại. Lời Phật nói đơngiản minh bạch không có gì bí mật. Phật đã phân biệt vàphân loại một cách rõ ràng. Như vậy nguồn gốc của A-tỳ-đạt-maxuất phát từ Phật.

QUÁTRÌNH PHÁT TRIỂN LUẬN THƯ A-TỲ-ÐẠT-MA

Thờikỳ 1: Luận thư còn giữ hình thức khế kinh. Trong thời kỳ100 năm sau Phật Niết-bàn, chưa chia kinh luận như kinh A-hàmcòn truyền đến ngày nay là do học phong của Giáo hội Tăngđoàn mà được chỉnh lý và A-tỳ-đạt-ma hóa, cho nên trongđó có những kinh mang nhiều sắc thái như luận, như kinh TăngNhất, Tạp A-hàm, kinh Thế Ký trong Trường A-hàm và Phân BiệtBộ trong Trung Bộ, kinh Chúng Tập trong Trường Bộ.

Thờikỳ 2: Luận thư giải thích nghĩa kinh. Lấy kinh làm bối cảnhrồi định nghĩa, phân loại, phân biệt, giải thích nhữngđiều đã nói trong kinh chứ chưa phát huy vấn đề gì đặcsắc độc lập, như Vô Ngại Ðạo Luận của Phật Âm, Ma-ha-ni-luật-sa,Cưu-lạp-ni-luật-sa trong Tiểu Bộ hay như Hán dịch Pháp UẩnTúc Luận, Tập Dị Môn Túc Luận.

Thờikỳ 3: Luận thư tiến tới độc lập. Thời kỳ này Luậnthư không còn bàn giải nghĩa kinh mà lấy tất cả đề mụccủa các kinh tập hợp lại rồi phân loại một cách tườngtận và theo mọi tiêu chuẩn để phân biệt tính chất cácđề mục ấy, nội dung dần dần bao hàm các vấn đề sựthật độc lập hẳn với kinh luật. Ðó là thời kỳ xuấthiện bảy bộ luận của Phật giáo Nam phương và Ðại Tỳ-bà-saluận của Hữu bộ, Thành Thật luận của Kinh bộ.

Thờikỳ 4: Là thời kỳ Luận thư cương yếu. Các luận thư A-tỳ-đạt-maphát huy giáo nghĩa của các bộ phái khi đã phát triển thìmắc phải cái nạn quá nhiều, khó học hỏi nổi, nên đòihỏi phải có các luận thư toát yếu. Bộ luận thư toát yếura đời đầu tiên là bộ A-tỳ-đàm Tâm Luận của Pháp Thắng(Ðạt-ma-thi-la), đến Tạp A-tỳ-đàm Tâm Luận của Pháp Cứu,học trò Pháp Thắng, rồi đến Câu-xá luận của ngài ThếThân, Thanh Tịnh Ðạo luận của ngài Phật Âm, luận A-tỳ-đạt-maNghĩa Tập của ngài A-nậu-lâu-đà. Hai bộ sau này thuộc Thượngtọa bộ Tích Lan.

Tómlại, phương pháp xử lý vấn đề của các A-tỳ-đạt-malà trước hết nó hoàn toàn phụ thuộc vào kinh, chỉ có kinhlà có quyền chứng tuyệt đối. Rồi dần dần từ việc giảithích từng mỗi câu kinh tiến lên thuyết minh toàn thể tưtưởng được gói ghém trong các câu kinh, trong sự tiến bộđó nó đã nảy sinh ra thái độ phê phán tư tưởng trong kinh,cho đến khi không còn bị kinh chi phối, thậm chí không tôntrọng kinh bằng luận. Luận Ðại Tỳ-bà-sa cuốn 5 nói: "Nếucứ khư khư chấp chặt từng câu kinh mà không đạt quan chânlý của nó thì người ấy là "Trước văn Sa-môn". Ðó làthái độ của Hữu bộ lấy A-tỳ-đạt-ma làm trung tâm. Vàtheo ngài Chân Ðế thì Kê dẫn bộ còn cho rằng: "Kinh luậtchẳng qua chỉ là phương tiện, còn đệ nhất nghĩa đế chínhthật nằm trong A-tỳ-đạt-ma". Như vậy A-tỳ-đạt-ma đãcó chỗ đặc sắc không giống khế kinh. Chẳng hạn, ở khếkinh chú trọng giá trị tu chứng thực tiễn theo ch? trương"chuyển mê khai ngộ" cho nên những điều gì không thiết thựcgiúp cho việc chuyển mê khai ngộ thì đức Phật bỏ qua khôngnói đến. Trong những Pháp môn Ngài dạy để chuyển mê khaingộ, Ngài chỉ dạy những điều vừa đủ hiểu để tu hành,nhưng đến A-tỳ-đạt-ma thì chuyển sang chú trọng nghiêncứu vấn đề sự thật. Thay vì xử lý các vấn đề tu dưỡngtrước, thì A-tỳ-đạt-ma lại lo thuyết minh một cách tinhtế về sự thật liên quan đến nhân sanh vũ trụ trước rồisau mới đề cập vấn đề tu dưỡng. Chủ ý các luận sưA-tỳ-đạt-ma tuy không coi thường vấn đề tu dưỡng nhưngmuốn xác lập lý tưởng tu dưỡng thì trước phải xác địnhsự thật.

Sauhết, nhìn vào phạm vi phân chia các vấn đề cứu xét sựbất đồng giữa mới và cũ. Lúc đầu A-tỳ-đạt-ma chỉluận cứu những đề mục đặc thù như thiền định, trítuệ... Nhưng trong quá trình tiến bộ liên tục nó đã lấyviệc thuyết minh các đề mục đó một cách hệ thống làmnhiệm vụ và để tránh khó khăn nó lại chia các vấn đềđó ra từng bộ môn (chư môn phân biệt). Do đó mới có nhiềuluận thư, và sau cùng để tiện việc học hỏi lại có cácluận thư cương yếu ra đời.

C.CÁC LUẬN THƯ CỦA THƯỢNG TỌA BỘ

1.Pháp Tụ Luận (Dhamma Sanghani)
2.Phân Biệt Luận (Vibhanga)
3.Giới Thuyết Luận (Dhatu Katha)
4.Nhân Thi Thiết Luận (Pudgala Pannati)
5.Song Ðối Luận (Yamaka)
6.Pháp Trí Luận (Patthana)
7.Thuyết Sự Luận (Kathavasthu)

Ngoàibảy luận thư cơ bản này còn có các luận thư được sángtác tiếp theo:

- ThanhTịnh Ðạo Luận (visudhimagga) của ngài Phật Âm thế kỷ 5TL, có giá trị như một bộ bách khoa toàn thư Phật giáo,tính chất tương đương Câu-xá Luận đối với Hữu bộ.Ðây là sách tiêu chuẩn của tân Thượng tọa bộ.
-Trường Tập Kinh Chú Sớ (Sumangala Vilasini) sách giải thíchTrường Tập Kinh (Trường Bộ Kinh).
-Attha Salina, sách chú thích bộ Luận Pháp Tụ.
-Ngũ Thư Thuật Nghĩa (Panca-Pakarana Atthokattha): Năm sách Chúsớ Ðối pháp tạng.

Saungài Phật Âm có nhiều tác phẩm ra đời, trong đó có giátrị nhất là bộ A-tỳ-đạt-ma Nghĩa Tập Luận (AbhidharmatthaSangaha; H.T Minh Châu dịch Thắng Pháp Tập Yếu) này do ngàiA-nậu-lâu-đà (Anuruddha) viết thế kỷ 8 T.L. Ðây là bộ sáchngắn gọn toát yếu giáo nghĩa Phật giáo, làm sách chỉ namcủa Phật giáo Nam phương, với những giải thích xác đángrõ ràng giáo nghĩa của Thượng tọa bộ nên nhiều nơi đãdùng nó thay cho Thanh Tịnh Ðạo Luận.

D.CÁC LUẬN THƯ CỦA HỮU BỘ

1.Pháp Uẩn Túc Luận (Dharma Skandha): 12 cuốn, do Ðại-Mục-kiền-liên(Mahamogalyayana), có thuyết nói do Xá-lợi-phất viết lúc Phậttại thế.
2.Tập Dị Môn Túc Luận (Sangti paryaya pada) do Xá-lợi-phất viếtlúc Phật tại thế. (20 cuốn)
3.Thi Thiết Túc Luận (Prajnapti): Do Ca-chiên-diên (Kaiyaya) viếtlúc Phật tại thế, chưa dịch ra Hán văn.
4.Thức Thân Túc Luận (Vijnanakaya): 16 cuốn do Ðề-bà-thiết-ma(Devasarman) viết sau Phật Niết-bàn 100 năm . 5. Phẩm LoạiTúc Luận (Ptrakarama): 18 cuốn do Thế Hữu viết sau Phật Niết-bàn300 năm, cũng dịch là Chúng Sự Phần A-tỳ-đàm Luận (1).
6.Giới Thân Túc Luận (Dhatukaya): 3 cuốn do Thế Hữu viết sauPhật Niết-bàn 300 năm [*]
7.Phát Trí Luận (Janna Prasthana, A-tỳ-đàm Bát-kiền-độ Luận):20 cuốn do Ca-chiên-diên tử (Katyayaniputra - Ca-na-diễn-ni tử)viết sau Phật Niết-bàn 300 năm.

[*]Có trước Đại Tỳ Bà Sa . Có giá trị nhất trong các luậnkhác thời đó . Sau đệ tử thấy nhiều mới gom lại thànhGiới Thân Túc Luận.

Bảybộ luận này, bộ Phát Trí gọi là Thân Luận, còn sáu bộkia gọi là Túc Luận, vì nó là chỗ dựa cho luận Phát Tríđược thành, và vì nghĩa lý chứa đựng trong nó ít ỏi khôngbằng nghĩa lý trong Phát Trí Luận rộng hơn. Trong đó ba bộviết ra lúc đức Phật còn tại thế, bốn bộ viết ra saukhi Phật Niết-bàn. Ngoài bảy bộ luận cơ bản này, Hữubộ còn có các luận thư để quảng diễn nghĩa lý các bộtrên như:

- LuậnÐại Tỳ-bà-sa (Mahavibhasa) 200 cuốn, là kết quả của Ðạihội Kiết tập lần thứ tư vào giữa thế kỷ 2 T.L tại Ca-thấp-di-la(Kasmir, Kế Tân) do các ngài Thế Hữu, Diệu Âm, Giác Thiên,Pháp Cứu, Hiếp Tôn Giả chủ trì với sự ủng hộ tận lựccủa vua Ca-nị-sắc-ca (Kaniska). Bộ này quảng diễn giáo nghĩacủa luận Phát Trí.

- A-tỳ-đàmTâm Luận (Abhidharmahridaya) do Pháp Thắng (Ðạt-ma-thi-la) tạovào thế kỷ 6 sau Phật Niết-bàn (đầu thế kỷ 3 T.L), toátyếu Ðại Tỳ-bà-sa Luận.

- TạpA-tỳ-đàm Tâm Luận (Samyutara Abhidhar-mahridaya) do đệ tử củangài Pháp Thắng là Pháp Cứu (Tăng-già-bạt-ma) tạo vào thếkỷ 7 sau Phật diệt độ (đầu thế kỷ 4 T.L) nhằm làm rõnghĩa trong A-tỳ-đàm Tâm Luận, vì cho A-tỳ-đàm Tâm Luậnquá giản lược.

- Câuxá Luận (Abhidharma Kosa) do Thế Thân (Vasubhandhu) tạo vào 900năm sau Phật diệt độ (đầu thế kỷ 5 T.L), 30 cuốn.

- ThuậnChánh Lý Luận: 80 cuốn, do Chúng Hiền đồng thời Thế Thântạo, nhằm bác lại Câu-xá.

- HiểnTông Luận: 40 cuốn do Chúng Hiền tạo, nhằm nêu bật tôngnghĩa của Hữu bô.

- KinhLượng Bộ - Có Thành Thật Luận 20 cuốn.

Đ.CÁC LUẬN THƯ DO AI NÓI?

Theongài Phật Âm trong Nam phương Phật giáo thì cho rằng, sau khithành đạo, đức Phật ngồi tư duy dưới cội Bồ-đề, vàvề sau trong các buổi thuyết pháp cho thân mẫu trên cung trờèao-lợi, chính đức Phật đã nói sáu bộ luận đầu trongbảy luận thư thuộc Thượng tọa bộ. Sáu luận thư này đãđược hình thành tại Ðại hội Kiết tập lần thứ ba, cònbộ Luận Sự thứ bảy do Mục-kiền-liên tử Ðế-tu làm rakhoảng 200 năm sau Phật Niết-bàn, nhưng cũng do lời Phậtchú ký mà làm, nên về quan hệ vẫn được xem như do chínhPhật nói. Trái lại, về phía Bắc phương Phật giáo thì chorằng các luận thư A-tì-đàm không phải do Phật nói mà làdo các đệ tử Phật nói trong các thời gian khác nhau, hoặctrong lúc Phật tại thế, hoặc sau khi Phật Niết-bàn. Quanđiểm của Bắc phương sát với sự thật hơn.

-ooOoo-

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/01/2012(Xem: 7588)
Vô tận trong lòng bàn tay, Sự dị biệt giữa tôn giáo và khoa học được đánh dấu khởi đầu từ luận đề của Galilée và từ đó đã khiến nhiều người cho là hai thế giới này không thể nào gặp nhau được. Einstein khi đối chiếu Phật Giáo với các tôn giáo khác đã cho là: nếu có một tôn giáo có thể đáp ứng được những nhu cầu đòi hỏi của khoa học, thì chính đó là Phật giáo. Einstein muốn nói tới tính cách thuần lý và thực tiển của Phật Giáo, khi ông so sánh thấy các tôn giáo khác chỉ dựa trên kinh điển và giáo điều. Đúng như điều Einstein cảm nhận, Ph
15/01/2012(Xem: 8790)
Sự thể hiện đích thực về đờisống của người Phật tử không phải là ngôn ngữ, kiến thức mà là hành động. Tọathiền là quan trọng; giữ tâm điềm tĩnh, lắng dịu và nghiêm túc trong quá trìnhhành thiền là cần thiết, nhưng đấy không phải là nhiệm vụ khó khăn nhất. Nhiệm vụ khó khăn nhất ấy là đem tâm nghiêm túc ấy vào trong đời sống thường nhật... Phật giáo nhận thấy rằng tất cả mọi người và mọi chúng sanh đều phụ thuộc lẫn nhau. Mặc dù thân và tâm của mọi người khác nhau nhưng mọi người vẫn tương quan với nhau.
15/01/2012(Xem: 6771)
Phật đã bỏ loài người…(1) Điệp khúc ấy lâu lâu lại thấy đâu đó trên những đoạn đường đi qua. Nó đếnvà đi như bao chuyện khác trong đời. Chuyện phiếm trong đời quá nhiều, đâu đángbận tâm. Cho đến cái ngày, nó được thổi vào trong thơ của một ai đó như một bài“Thiền ca”… Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
07/01/2012(Xem: 6450)
Chúng ta hãy đừng lừa dối chính mình, điều này tưởng chừng như không khó khăn nhưng thật sự đó là điều khó nhất trong tất cả các trạng thái mà chúng ta có thể đạt được. Bằng cách "Không lừa dối chính mình", nghĩa là tôi muốn nói chúng ta hãy ngưng vẽ một bức tranh của thế giới ngày nay bằng những sai lầm với các màu sắc khoái lạc, vì tiện nghi và an toàn cho riêng mình. Chúng ta, toàn thế giới, phải đương đầu với sự sai lầm này, thật là tệ. Chúng ta phải thật sự lưu tâm đến hoàn cảnh của chúng ta đang sống. Chúng ta cần phải truy nguyên tận căn để của tất cả các mối nghi ngờ và hiểu lầm của mình, và chúng ta có thể bắt đầu như thế nào để loại trừ nó một cách tốt nhất. Và chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng, nếu chúng ta không thực hiện điều này, chúng ta phải đối đầu với các trở ngại đó.
07/01/2012(Xem: 8140)
Sángnay nắng vàng rực rỡ. Những tia nắng trong suốt xuyên qua các cành cây kẻ lánơi tinh xá Kỳ Viên. Trên các lối mòn, những con đường chung quanh khu vườn đượctươi hẳn lên, tỏa mùi thơm thoang thoảng, hương vị những bước SakyAmuniBuddha248chân thiền hành củaĐức Thế Tôn. ..Dù có ánh nắng vàng rực rỡ hay không, sắc diện của Đức Thế Tôn vẫn như vầng trăng rằm. Đôi mắt dịu hiền từ bi tỏa rộng...
30/12/2011(Xem: 6056)
Trên đời này có hai thứ cao quý nhất đó là bảy thứ: vàng, bạc, ngọc lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não còn được gọi là thất bảo và phật pháp tăng. Các thứ cao quý ấy được xuất phát từ thế gian. Các loại ngọc và vàng bạc được có trong lòng đất với thời gian cả ngàn năm, tỷ năm do môi trường của đất tạo nên. Các thứ ngọc gọi là đá quý, còn vàng bạc gọi là kim loại quý.
14/12/2011(Xem: 8249)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
10/11/2011(Xem: 3317)
Đạo Phật không ca ngợi sự nghèo khổ, cũng như không phê phán sự giàu có. Bởi vì, giàu nghèo chỉ là phương tiện, chứ không phải là cứu cánh. Cứu cánh là sự an lạc thật sự của thân tâm, chỉ có thể đạt tới được bằng đạo đức và trí tuệ...
25/10/2011(Xem: 6833)
Thái độ của Phật giáo liên quan đến sự hòa điệu phi thường này như thế nào? Phật giáo có chấp nhận ý niệm có một Đấng Sáng Tạo toàn tri hay là một nguyên lý sáng tạo có khả năng điều chỉnh sự tiến triển của vũ trụ một cách tuyệt vời? Hay Phật giáo cho rằng sự hòa điệu chính xác và tuyệt vời của vũ trụ chẳng qua chỉ là một tình cờ may mắn? Vấn đề có hay không một Đấng Sáng Tạo?
10/08/2011(Xem: 3703)
Thuyết nhân quả của nhà Phật, nói đủ là nhân-duyên và quả là một triết lý mang tính khoa học, qui luật tự nhiên của vũ trụ, không mang tính chất hình thức của sự thưởng phạt từ một đấng quyền năng nào. Hiểu vậy, trong cuộc sống, chúng ta vui vẻ đón nhận những khổ đau bất thường xảy đến với mình như một kết quả do chính mình tạo nhân từ trước. Từ đó suy nghiệm ra, lý nhân quả chi phối cả vũ trụ nhân sinh. Nếu tin sâu nhân quả, chúng ta sẽ được thăng hoa trên đời sống tâm linh, trở nên hiền thiện đạo đức. Ngược lại, nếu không tin nhân quả, cuộc sống chúng ta trở nên liều lĩnh và càn bừa, bất chấp hậu quả.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567