Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

10. Rome, 7 tháng tư 1966

14/07/201100:46(Xem: 3364)
10. Rome, 7 tháng tư 1966

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ SỢ HÃI [ON FEAR]
Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2009 –
HarperSanFrancisco, A Division of HarperCollinsPublishers

PHẦN I

Rome, 7 tháng tư 1966

Nếu bạn đang sống trong một ngôi làng nhỏ, vậy thì nó có giá trị nhiều về điều gì người hàng xóm của bạn nhận xét bạn. Có sợ hãi của không thể thành tựu, không thể đạt được điều gì bạn muốn, không thành công. Bạn biết vô số loại sợ hãi.

Chỉ kháng cự sợ hãi không là một kết thúc sợ hãi. Theo từ ngữ, theo trí năng, bạn có lẽ thừa khôn ngoan để lý lẽ về sợ hãi rồi dựng lên một bức tường chống lại nó, tuy nhiên đằng sau bức tường đó có sự giày vò liên tục này của sợ hãi. Nếu bạn không được tự do khỏi sợ hãi, bạn không thể suy nghĩ, cảm thấy, hay sống một cách đúng đắn. Bạn đang sống trong tối tăm. Những tôn giáo đang nuôi dưỡng sợ hãi đó qua địa ngục và mọi công việc đó. Có sợ hãi về Chính thể và sự chuyên chế của nó. Bạn phải nghĩ về quần chúng, những người độc tài, những người mà biết điều gì là tốt đẹp cho bạn, Người Anh Cao cả và Người Cha Lành. Liệu có thể thực sự được tự do khỏi sợ hãi? Nếu bạn có thể bàn luận nó, bạn có thể học hỏi về nó. Nếu bạn nói, ‘Tôi không thể loại bỏ nó; tôi phải làm gì?’, không có vấn đề. Người nào đó sẽ bảo cho bạn phải làm gì, nhưng bạn sẽ luôn luôn bị lệ thuộc vào người đó, và bạn sẽ chun vào một lãnh vực sợ hãi khác.

Người hỏi: Tỉnh thức được nguy hiểm của chúng ta và thế là sợ hãi có lẽ giới thiệu một vấn đề nào đó.

Krishnamurti: Không, nó là một phản ứng lành mạnh; ngược lại bạn sẽ bị giết chết. Khi bạn đến một vách núi đứng, và bạn chỉ cần không sợ hãi hay không chú ý, bạn đang gặp nguy hiểm vô cùng, nhưng sợ hãi đó, sợ hãi thân thể, cũng tạo ra một sợ hãi tâm lý. Nó là một vấn đề rất phức tạp; nó không chỉ là một vấn đề để nói, ‘Tôi đã sợ hãi về cái này hay cái kia, và hãy để tôi xóa sạch nó’. Với mục đích hiểu rõ nó, trước hết bạn phải rất rõ ràng về những từ ngữ; bạn phải nhận ra rằng từ ngữ không là sự kiện của sợ hãi, nhưng từ ngữ gây ra sợ hãi; một cách không ý thức được toàn cấu trúc của sợ hãi là thuộc từ ngữ. Từ ngữ văn hóa mang một phản ứng sâu sắc từ ký ức – văn hóa Ý, văn hóa Châu âu, văn hóa Ấn độ, văn hóa Nhật bản, văn hóa Trung quốc. Tìm hiểu điều này rất lý thú. Tầng ý thức bên trong được cấu thành từ những kỷ niệm, từ những trải nghiệm, những truyền thống, tuyên truyền, những từ ngữ. Bạn có một trải nghiệm, và bạn phản ứng. Phản ứng đó được diễn giải thành những từ ngữ: ‘Tôi hạnh phúc’, ‘Tôi bất hạnh’, ‘Anh ấy gây tổn thương tôi’, và những từ ngữ đó vẫn còn đọng lại. Chúng đánh thức và củng cố trải nghiệm hàng ngày.

Vậy là bạn đã sỉ nhục tôi; nó đã để lại một dấu vết, và dấu vết đó được củng cố, được lắng sâu bởi từ ngữ, bởi ký ức được kết hợp với cảm giác đó, mà thực sự là một từ ngữ, một truyền thống. Hiểu rõ điều này rất quan trọng. Trong những quốc gia nào đó ở Châu á, ở Ấn độ, trong những nhóm người nào đó, truyền thống quan trọng cực kỳ, vững chắc hơn ở đây nhiều, bởi vì chúng đã tồn tại lâu hơn; chúng là một quốc gia cổ lỗ, bám rễ sâu hơn, cùng một truyền thống của hơn mười ngàn năm. Từ ngữ gợi lên những kỷ niệm và những liên tưởng, mà tất cả đều là bộ phận của tầng ý thức bên trong, và nó cũng gây ra sợ hãi.

Ví dụ từ ngữ ung thư. Bạn nghe từ ngữ đó và tức khắc tất cả những ý tưởng và những suy nghĩ về ung thư đổ xô đến – đau khổ, lo âu, sự chịu đựng đau đớn, và câu hỏi, ‘Tôi có bị ung thư không?’ Từ ngữ quan trọng lạ kỳ đối với chúng ta. Từ ngữ, câu văn, khi được sắp xếp trở thành một ý tưởng – được đặt nền tảng trên một công thức, và nó giam cầm chúng ta.

Từ ngữ không là sự kiện; từ ngữ microphone không là cái microphone thực sự. Nhưng một từ ngữ mang sợ hãi hay vui thú thành hiện thực qua sự liên tưởng và hồi tưởng. Chúng ta là những nô lệ cho những từ ngữ và muốn tìm hiểu bất kỳ điều gì trọn vẹn, muốn quan sát, chúng ta phải được tự do khỏi từ ngữ. Nếu tôi là một người Ấn độ giáo, một người Bà la môn giáo, một người Thiên chúa giáo, một người Tin lành giáo, một người Anh giáo, một người Scotland giáo, muốn quan sát chúng ta phải được tự do khỏi từ ngữ đó, cùng tất cả những liên tưởng, và điều đó khó khăn cực kỳ. Khó khăn tan biến khi chúng ta đang tìm hiểu, đang thăm dò đầy đam mê.

Tầng ý thức bên trong là ký ức được lưu trữ; tầng ý thức bên trong, qua một từ ngữ, trở thành sinh động. Qua một mùi hương, hay qua trông thấy một bông hoa, bạn liên tưởng ngay tức khắc. Cái nhà kho, khu lưu trữ, là tầng ý thức bên trong, và chúng ta lại quan tâm quá đỗi về nó. Nó thực sự chẳng là gì cả. Nó cũng nhỏ nhặt và hời hợt như cái trí tầng ý thức bên ngoài. Cả hai có thể lành mạnh, và cả hai có thể không lành mạnh.

Từ ngữ mang vào sợ hãi, và từ ngữ không là sự kiện. Sợ hãi là gì? Tôi sợ hãi cái gì? Làm ơn, chúng ta đang bàn luận. Hãy sử dụng sợ hãi riêng của bạn. Nó có lẽ là sợ hãi về người vợ của bạn, về mất công việc của bạn hay sự nổi tiếng của bạn.

Sợ hãi là gì? Chúng ta hãy tạm sử dụng một vấn đề chết. Nó là một vấn đề rất phức tạp. Tôi sợ hãi chết. Sợ hãi này nảy sinh như thế nào? Chắc chắn nó nảy sinh qua tư tưởng. Tôi đã thấy người ta chết. Có lẽ tôi cũng chết, một cách đau đớn hay lặng lẽ, và suy nghĩ đã gây ra sợ hãi này.

Người hỏi: Một trong những sợ hãi mạnh nhất là sợ hãi cái không biết được.

Krishnamurti: Nó là cái không biết được. Tôi dùng điều đó như một ví dụ. Thay thế sợ hãi riêng của bạn – sợ hãi người chồng của bạn, người vợ của bạn, người hàng xóm của bạn, sức khỏe yếu kém, không thể thành tựu, không thương yêu, không có đủ thương yêu, không có thông minh.
Người hỏi: Chắc chắn trong vài trường hợp điều đó hợp lý. Ví dụ, nếu một người đàn ông sợ hãi người vợ của ông.

Krishnamurti: Đúng rồi; anh ấy lập gia đình và sợ hãi người vợ của anh ấy.

Người hỏi: Hay anh ấy sợ hãi người chủ của anh ấy, hay sợ hãi có lẽ mất công việc của anh ấy.

Krishnamurti: Chờ đã. Tại sao anh ấy phải sợ hãi? Chúng ta đang bàn luận sợ hãi, không phải công việc, người chủ, người vợ. Sợ hãi luôn luôn tồn tại trong liên hệ với cái gì đó; nó không tồn tại một cách trừu tượng. Tôi sợ hãi người chủ của tôi, người vợ của tôi, người hàng xóm của tôi, chết. Nó liên hệ với cái gì đó. Tôi dùng chết như một ví dụ. Tôi sợ hãi nó. Tại sao? Điều gì gây ra sợ hãi này? Chắc chắn nó là tư tưởng. Nhìn bên ngoài tôi đã thấy chết, người ta chết. Liên tưởng đến điều đó, kết hợp đến điều đó, là sự kiện rằng tôi, chính tôi, sẽ chết vào một trong những ngày sắp tới. Tư tưởng suy nghĩ về nó; có một suy nghĩ về nó. Chết là cái gì đó không tránh khỏi, và cái gì đó được đẩy ra càng xa càng tốt. Tôi không thể đẩy nó ra xa nếu không có tư tưởng. Tôi có một khoảng cách, rất nhiều năm được hạn định cho tôi. Khi đến lúc tôi phải đi tôi sẽ đi; nhưng trong lúc này tôi đẩy nó ra xa. Tư tưởng, qua sự liên tưởng, qua sự kết hợp, qua ký ức, qua điều kiện tôn giáo và xã hội, qua quy định kinh tế, lý lẽ nó, chấp nhận nó, hay sáng chế một đời sau. Liệu tôi có thể tiếp xúc trực tiếp cùng một sự kiện? Tôi sợ hãi người vợ của tôi. Điều đó sẽ đơn giản hơn nhiều. Cô ấy thống trị tôi. Tôi có thể đưa ra một tá lý do cho sợ hãi cô ấy của tôi. Tôi thấy sợ hãi nảy sinh như thế nào. Làm thế nào tôi sẽ được tự do khỏi nó? Tôi có thể yêu cầu cô ấy, tôi có thể đi ra ngoài, nhưng điều đó không giải quyết vấn đề. Làm thế nào tôi sẽ được tự do khỏi sợ hãi đó? Hãy quan sát nó; tôi sợ hãi người vợ của tôi. Cô ấy có một hình ảnh về tôi và tôi có một hình ảnh về cô ấy. Không có sự liên hệ thực sự, ngoại trừ có lẽ phần thân thể. Trái lại nó chỉ là một liên hệ giữa những hình ảnh. Tôi không đang yếm thế, nhưng đây là một sự kiện, phải không? Có lẽ những người trong các bạn đã lập gia đình biết rõ ràng hơn tôi.

Người hỏi: Cô ấy sẽ có hình ảnh về bạn yếu đuối, và bạn sẽ có một hình ảnh về cô ấy ương ngạnh?

Krishnamurti:Ương ngạnh và mạnh mẽ. Bạn có hàng tá lý do, thưa bạn, nhưng không có liên hệ gì cả. Có liên hệ có nghĩa là được hiệp thông. Làm thế nào một hình ảnh có thể có liên quan đến một hình ảnh khác? Một hình ảnh là một ý tưởng, một kỷ niệm, một hồi tưởng, một nhớ lại. Nếu tôi thực sự muốn được tự do khỏi sợ hãi, tôi phải xóa sạch hình ảnh về cô ấy của tôi, và cô ấy phải xóa sạch hình ảnh về tôi của cô ấy. Tôi có lẽ xóa sạch hình ảnh đó, hay cô ấy có lẽ xóa sạch hình ảnh đó, nhưng hành động một phía không tạo ra sự tự do khỏi liên hệ mà đánh thức sợ hãi. Tôi xóa sạch hình ảnh về bạn của tôi, hoàn toàn. Tôi nhìn ngắm nó, và sau đó tôi hiểu rõ sự liên hệ là gì. Tôi xóa sạch hoàn toàn hình ảnh. Vậy là tôi tiếp xúc trực tiếp cùng bạn, không phải với hình ảnh của bạn. Nhưng bạn có lẽ đã không xóa sạch hình ảnh của bạn, bởi vì nó cho bạn vui thú.

Người hỏi: Đó là sự khó khăn, tôi đã không xóa sạch hình ảnh của tôi.

Krishnamurti:Vậy là bạn tiếp tục, và tôi nói, ‘Được rồi; tôi không có hình ảnh về bạn’.Tôi không sợ hãi bạn. Sợ hãi kết thúc chỉ khi nào có tiếp xúc trực tiếp. Nếu tôi không có tẩu thoát nào cả, tôi có thể quan sát sự kiện. Tôi có thể nhìn ngắm sự kiện rằng tôi sắp sửa chết, trong mười năm hay trong hai mươi năm nữa. Tôi phải hiểu rõ chết, tiếp xúc trực tiếp cùng nó phần vật chất, mới mẻ, bởi vì tôi vẫn còn sống. Tôi có nhiều năng lượng; tôi vẫn còn sống, khỏe mạnh. Thuộc thân thể, tôi không thể chết; nhưng thuộc tâm lý, tôi có thể chết.

Điều này đòi hỏi sự quan sát cẩn mật, thâm nhập, vận dụng. Chết có nghĩa rằng bạn phải chết hàng ngày, không phải đợi hai mươi năm sau. Bạn chết đi hàng ngày mọi thứ bạn biết, ngoại trừ phần công nghệ. Bạn chết đi hình ảnh về người vợ của bạn; bạn chết đi hàng ngày những vui thú bạn có, những đau khổ, những kỷ niệm, những trải nghiệm. Ngược lại, bạn không thể tiếp xúc trực tiếp cùng chúng. Nếu bạn chết đi tất cả chúng, sợ hãi kết thúc và có một mới mẻ lại.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/02/2022(Xem: 37686)
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà (loạt bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong mùa dịch cúm Covid-19)
17/11/2021(Xem: 26783)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 23035)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
13/11/2021(Xem: 14362)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/11/2021(Xem: 16078)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 15857)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 18579)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 18607)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
24/06/2021(Xem: 5251)
Lòng Từ bi là một giá trị phổ quát. Tranh đấu cho công bằng xã hội – nghĩa là bảo đảm quyền lợi và cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người – thường xuất phát từ sự phẫn nộ, thúc đẩy con người chống lại những bất công có hệ thống. Tôi tin rằng đấu tranh cho công bằng xã hội sẽ có hiệu quả tốt nhất nếu được kích hoạt bởi lòng từ bi. Nếu động lực đấu tranh cho công bằng xã hội của chúng ta là do lòng từ bi đích thực, chúng ta sẽ được tiếp thêm năng lượng để hoạt động tích cực hơn nhằm bảo đảm cho tất cả mọi người có được một phẩm chất đời sống xứng đáng. Tôi tin rằng nữ giới có thể đóng một vai trò đặc biệt trong việc đấu tranh cho công bằng xã hội bằng cách tu tập lòng từ bi và trí tuệ.
07/05/2021(Xem: 22379)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]