Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

10. Rome, 7 tháng tư 1966

14/07/201100:46(Xem: 2686)
10. Rome, 7 tháng tư 1966

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ SỢ HÃI [ON FEAR]
Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2009 –
HarperSanFrancisco, A Division of HarperCollinsPublishers

PHẦN I

Rome, 7 tháng tư 1966

Nếu bạn đang sống trong một ngôi làng nhỏ, vậy thì nó có giá trị nhiều về điều gì người hàng xóm của bạn nhận xét bạn. Có sợ hãi của không thể thành tựu, không thể đạt được điều gì bạn muốn, không thành công. Bạn biết vô số loại sợ hãi.

Chỉ kháng cự sợ hãi không là một kết thúc sợ hãi. Theo từ ngữ, theo trí năng, bạn có lẽ thừa khôn ngoan để lý lẽ về sợ hãi rồi dựng lên một bức tường chống lại nó, tuy nhiên đằng sau bức tường đó có sự giày vò liên tục này của sợ hãi. Nếu bạn không được tự do khỏi sợ hãi, bạn không thể suy nghĩ, cảm thấy, hay sống một cách đúng đắn. Bạn đang sống trong tối tăm. Những tôn giáo đang nuôi dưỡng sợ hãi đó qua địa ngục và mọi công việc đó. Có sợ hãi về Chính thể và sự chuyên chế của nó. Bạn phải nghĩ về quần chúng, những người độc tài, những người mà biết điều gì là tốt đẹp cho bạn, Người Anh Cao cả và Người Cha Lành. Liệu có thể thực sự được tự do khỏi sợ hãi? Nếu bạn có thể bàn luận nó, bạn có thể học hỏi về nó. Nếu bạn nói, ‘Tôi không thể loại bỏ nó; tôi phải làm gì?’, không có vấn đề. Người nào đó sẽ bảo cho bạn phải làm gì, nhưng bạn sẽ luôn luôn bị lệ thuộc vào người đó, và bạn sẽ chun vào một lãnh vực sợ hãi khác.

Người hỏi: Tỉnh thức được nguy hiểm của chúng ta và thế là sợ hãi có lẽ giới thiệu một vấn đề nào đó.

Krishnamurti: Không, nó là một phản ứng lành mạnh; ngược lại bạn sẽ bị giết chết. Khi bạn đến một vách núi đứng, và bạn chỉ cần không sợ hãi hay không chú ý, bạn đang gặp nguy hiểm vô cùng, nhưng sợ hãi đó, sợ hãi thân thể, cũng tạo ra một sợ hãi tâm lý. Nó là một vấn đề rất phức tạp; nó không chỉ là một vấn đề để nói, ‘Tôi đã sợ hãi về cái này hay cái kia, và hãy để tôi xóa sạch nó’. Với mục đích hiểu rõ nó, trước hết bạn phải rất rõ ràng về những từ ngữ; bạn phải nhận ra rằng từ ngữ không là sự kiện của sợ hãi, nhưng từ ngữ gây ra sợ hãi; một cách không ý thức được toàn cấu trúc của sợ hãi là thuộc từ ngữ. Từ ngữ văn hóa mang một phản ứng sâu sắc từ ký ức – văn hóa Ý, văn hóa Châu âu, văn hóa Ấn độ, văn hóa Nhật bản, văn hóa Trung quốc. Tìm hiểu điều này rất lý thú. Tầng ý thức bên trong được cấu thành từ những kỷ niệm, từ những trải nghiệm, những truyền thống, tuyên truyền, những từ ngữ. Bạn có một trải nghiệm, và bạn phản ứng. Phản ứng đó được diễn giải thành những từ ngữ: ‘Tôi hạnh phúc’, ‘Tôi bất hạnh’, ‘Anh ấy gây tổn thương tôi’, và những từ ngữ đó vẫn còn đọng lại. Chúng đánh thức và củng cố trải nghiệm hàng ngày.

Vậy là bạn đã sỉ nhục tôi; nó đã để lại một dấu vết, và dấu vết đó được củng cố, được lắng sâu bởi từ ngữ, bởi ký ức được kết hợp với cảm giác đó, mà thực sự là một từ ngữ, một truyền thống. Hiểu rõ điều này rất quan trọng. Trong những quốc gia nào đó ở Châu á, ở Ấn độ, trong những nhóm người nào đó, truyền thống quan trọng cực kỳ, vững chắc hơn ở đây nhiều, bởi vì chúng đã tồn tại lâu hơn; chúng là một quốc gia cổ lỗ, bám rễ sâu hơn, cùng một truyền thống của hơn mười ngàn năm. Từ ngữ gợi lên những kỷ niệm và những liên tưởng, mà tất cả đều là bộ phận của tầng ý thức bên trong, và nó cũng gây ra sợ hãi.

Ví dụ từ ngữ ung thư. Bạn nghe từ ngữ đó và tức khắc tất cả những ý tưởng và những suy nghĩ về ung thư đổ xô đến – đau khổ, lo âu, sự chịu đựng đau đớn, và câu hỏi, ‘Tôi có bị ung thư không?’ Từ ngữ quan trọng lạ kỳ đối với chúng ta. Từ ngữ, câu văn, khi được sắp xếp trở thành một ý tưởng – được đặt nền tảng trên một công thức, và nó giam cầm chúng ta.

Từ ngữ không là sự kiện; từ ngữ microphone không là cái microphone thực sự. Nhưng một từ ngữ mang sợ hãi hay vui thú thành hiện thực qua sự liên tưởng và hồi tưởng. Chúng ta là những nô lệ cho những từ ngữ và muốn tìm hiểu bất kỳ điều gì trọn vẹn, muốn quan sát, chúng ta phải được tự do khỏi từ ngữ. Nếu tôi là một người Ấn độ giáo, một người Bà la môn giáo, một người Thiên chúa giáo, một người Tin lành giáo, một người Anh giáo, một người Scotland giáo, muốn quan sát chúng ta phải được tự do khỏi từ ngữ đó, cùng tất cả những liên tưởng, và điều đó khó khăn cực kỳ. Khó khăn tan biến khi chúng ta đang tìm hiểu, đang thăm dò đầy đam mê.

Tầng ý thức bên trong là ký ức được lưu trữ; tầng ý thức bên trong, qua một từ ngữ, trở thành sinh động. Qua một mùi hương, hay qua trông thấy một bông hoa, bạn liên tưởng ngay tức khắc. Cái nhà kho, khu lưu trữ, là tầng ý thức bên trong, và chúng ta lại quan tâm quá đỗi về nó. Nó thực sự chẳng là gì cả. Nó cũng nhỏ nhặt và hời hợt như cái trí tầng ý thức bên ngoài. Cả hai có thể lành mạnh, và cả hai có thể không lành mạnh.

Từ ngữ mang vào sợ hãi, và từ ngữ không là sự kiện. Sợ hãi là gì? Tôi sợ hãi cái gì? Làm ơn, chúng ta đang bàn luận. Hãy sử dụng sợ hãi riêng của bạn. Nó có lẽ là sợ hãi về người vợ của bạn, về mất công việc của bạn hay sự nổi tiếng của bạn.

Sợ hãi là gì? Chúng ta hãy tạm sử dụng một vấn đề chết. Nó là một vấn đề rất phức tạp. Tôi sợ hãi chết. Sợ hãi này nảy sinh như thế nào? Chắc chắn nó nảy sinh qua tư tưởng. Tôi đã thấy người ta chết. Có lẽ tôi cũng chết, một cách đau đớn hay lặng lẽ, và suy nghĩ đã gây ra sợ hãi này.

Người hỏi: Một trong những sợ hãi mạnh nhất là sợ hãi cái không biết được.

Krishnamurti: Nó là cái không biết được. Tôi dùng điều đó như một ví dụ. Thay thế sợ hãi riêng của bạn – sợ hãi người chồng của bạn, người vợ của bạn, người hàng xóm của bạn, sức khỏe yếu kém, không thể thành tựu, không thương yêu, không có đủ thương yêu, không có thông minh.
Người hỏi: Chắc chắn trong vài trường hợp điều đó hợp lý. Ví dụ, nếu một người đàn ông sợ hãi người vợ của ông.

Krishnamurti: Đúng rồi; anh ấy lập gia đình và sợ hãi người vợ của anh ấy.

Người hỏi: Hay anh ấy sợ hãi người chủ của anh ấy, hay sợ hãi có lẽ mất công việc của anh ấy.

Krishnamurti: Chờ đã. Tại sao anh ấy phải sợ hãi? Chúng ta đang bàn luận sợ hãi, không phải công việc, người chủ, người vợ. Sợ hãi luôn luôn tồn tại trong liên hệ với cái gì đó; nó không tồn tại một cách trừu tượng. Tôi sợ hãi người chủ của tôi, người vợ của tôi, người hàng xóm của tôi, chết. Nó liên hệ với cái gì đó. Tôi dùng chết như một ví dụ. Tôi sợ hãi nó. Tại sao? Điều gì gây ra sợ hãi này? Chắc chắn nó là tư tưởng. Nhìn bên ngoài tôi đã thấy chết, người ta chết. Liên tưởng đến điều đó, kết hợp đến điều đó, là sự kiện rằng tôi, chính tôi, sẽ chết vào một trong những ngày sắp tới. Tư tưởng suy nghĩ về nó; có một suy nghĩ về nó. Chết là cái gì đó không tránh khỏi, và cái gì đó được đẩy ra càng xa càng tốt. Tôi không thể đẩy nó ra xa nếu không có tư tưởng. Tôi có một khoảng cách, rất nhiều năm được hạn định cho tôi. Khi đến lúc tôi phải đi tôi sẽ đi; nhưng trong lúc này tôi đẩy nó ra xa. Tư tưởng, qua sự liên tưởng, qua sự kết hợp, qua ký ức, qua điều kiện tôn giáo và xã hội, qua quy định kinh tế, lý lẽ nó, chấp nhận nó, hay sáng chế một đời sau. Liệu tôi có thể tiếp xúc trực tiếp cùng một sự kiện? Tôi sợ hãi người vợ của tôi. Điều đó sẽ đơn giản hơn nhiều. Cô ấy thống trị tôi. Tôi có thể đưa ra một tá lý do cho sợ hãi cô ấy của tôi. Tôi thấy sợ hãi nảy sinh như thế nào. Làm thế nào tôi sẽ được tự do khỏi nó? Tôi có thể yêu cầu cô ấy, tôi có thể đi ra ngoài, nhưng điều đó không giải quyết vấn đề. Làm thế nào tôi sẽ được tự do khỏi sợ hãi đó? Hãy quan sát nó; tôi sợ hãi người vợ của tôi. Cô ấy có một hình ảnh về tôi và tôi có một hình ảnh về cô ấy. Không có sự liên hệ thực sự, ngoại trừ có lẽ phần thân thể. Trái lại nó chỉ là một liên hệ giữa những hình ảnh. Tôi không đang yếm thế, nhưng đây là một sự kiện, phải không? Có lẽ những người trong các bạn đã lập gia đình biết rõ ràng hơn tôi.

Người hỏi: Cô ấy sẽ có hình ảnh về bạn yếu đuối, và bạn sẽ có một hình ảnh về cô ấy ương ngạnh?

Krishnamurti:Ương ngạnh và mạnh mẽ. Bạn có hàng tá lý do, thưa bạn, nhưng không có liên hệ gì cả. Có liên hệ có nghĩa là được hiệp thông. Làm thế nào một hình ảnh có thể có liên quan đến một hình ảnh khác? Một hình ảnh là một ý tưởng, một kỷ niệm, một hồi tưởng, một nhớ lại. Nếu tôi thực sự muốn được tự do khỏi sợ hãi, tôi phải xóa sạch hình ảnh về cô ấy của tôi, và cô ấy phải xóa sạch hình ảnh về tôi của cô ấy. Tôi có lẽ xóa sạch hình ảnh đó, hay cô ấy có lẽ xóa sạch hình ảnh đó, nhưng hành động một phía không tạo ra sự tự do khỏi liên hệ mà đánh thức sợ hãi. Tôi xóa sạch hình ảnh về bạn của tôi, hoàn toàn. Tôi nhìn ngắm nó, và sau đó tôi hiểu rõ sự liên hệ là gì. Tôi xóa sạch hoàn toàn hình ảnh. Vậy là tôi tiếp xúc trực tiếp cùng bạn, không phải với hình ảnh của bạn. Nhưng bạn có lẽ đã không xóa sạch hình ảnh của bạn, bởi vì nó cho bạn vui thú.

Người hỏi: Đó là sự khó khăn, tôi đã không xóa sạch hình ảnh của tôi.

Krishnamurti:Vậy là bạn tiếp tục, và tôi nói, ‘Được rồi; tôi không có hình ảnh về bạn’.Tôi không sợ hãi bạn. Sợ hãi kết thúc chỉ khi nào có tiếp xúc trực tiếp. Nếu tôi không có tẩu thoát nào cả, tôi có thể quan sát sự kiện. Tôi có thể nhìn ngắm sự kiện rằng tôi sắp sửa chết, trong mười năm hay trong hai mươi năm nữa. Tôi phải hiểu rõ chết, tiếp xúc trực tiếp cùng nó phần vật chất, mới mẻ, bởi vì tôi vẫn còn sống. Tôi có nhiều năng lượng; tôi vẫn còn sống, khỏe mạnh. Thuộc thân thể, tôi không thể chết; nhưng thuộc tâm lý, tôi có thể chết.

Điều này đòi hỏi sự quan sát cẩn mật, thâm nhập, vận dụng. Chết có nghĩa rằng bạn phải chết hàng ngày, không phải đợi hai mươi năm sau. Bạn chết đi hàng ngày mọi thứ bạn biết, ngoại trừ phần công nghệ. Bạn chết đi hình ảnh về người vợ của bạn; bạn chết đi hàng ngày những vui thú bạn có, những đau khổ, những kỷ niệm, những trải nghiệm. Ngược lại, bạn không thể tiếp xúc trực tiếp cùng chúng. Nếu bạn chết đi tất cả chúng, sợ hãi kết thúc và có một mới mẻ lại.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/02/2024(Xem: 1065)
Bát Chánh Đạo là con đường thánh có tám chi nhánh: Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Đây là con đường trung đạo, là lộ trình kỳ diệu giúp cho bất kể ai hân hoan, tín thọ, pháp thọ trong việc ứng dụng, thời có thể chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Bát Chánh Đạo là Chơn Pháp vi diệu, là con đường đưa đến khổ diệt, vượt thời gian, thiết thực trong hiện tại, được chư Phật quá khứ, Đức Phật hiện tại và chư Phật tương lai chứng ngộ, cung kính, tán thán và thuyết giảng cho bốn chúng đệ tử, cho loài người, loài trời để họ khai ngộ, đến để mà thấy, và tự mình giác hiểu.
07/02/2024(Xem: 1951)
Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.
20/01/2024(Xem: 951)
Thông thường người ta vào học Phật ít nhiều cũng do có động lực gì thúc đẩy hoặc bởi thân quyến qua đời, hoặc làm ăn thất bại, hoặc hôn nhân dở dang v.v... nhưng cũng không ít người nhân nghe giảng pháp hay gặp một quyển sách khế hợp căn cơ liền phát tâm tu hành hay tìm hiểu học Phật pháp. Phần lớn đệ tử xuất gia hoặc tại gia của Hòa Thượng cũng vì cảm mộ pháp giải của Ngài mà quy y Phật. Quyển vấn đáp này góp nhặt từ những buổi giảng thuyết trong các chuyến hoằng pháp của Hòa Thượng, hy vọng cũng không ngoài mục đích trên, là dẫn dắt người có duyên vào đạo hầu tự sửa đổi lỗi lầm mà giảm trừ tội nghiệp.
20/01/2024(Xem: 1042)
Năm xưa khi Phật thuyết kinh, hoàn toàn dùng khẩu ngữ vì bấy giờ nhân loại chưa có chữ viết (xứ Ấn). Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử Phật mới kết tập laị những gì Phật dạy để lưu truyền cho đời sau. Đạo Phật dần dần truyền sang các xứ khác, truyền đến đâu thì kinh điển cũng được phiên dịch sang ngôn ngữ của xứ ấy. Lúc ban đầu kinh Phật được ghi chép bằng tiếng Phạn ( Sancrit, Pali ) sau đó thì dịch sang tiếng: Sinhale, Pakistan, Afghanistan, tiếng Tàu, Thái, Nhật, Hàn, Việt… và sau nữa là tiếng Pháp, Anh, Tây Ban Nha…
20/12/2023(Xem: 1579)
Tiến sĩ Bạch Xuân Phẻ (Bạch X. Khỏe) định cư ở Hoa Kỳ từ năm 1991, hiện đang giảng dạy Hóa học và Hóa học danh dự cho Trường trung học Mira Loma tại thủ phủ Sacramento, CA. Ông quy y với Thiền sư Trừng Quang Thích Nhất Hạnh, có Pháp danh là Tâm Thường Định. Ông đã và đang giảng dạy về Lãnh đạo chánh niệm và phương thức mang chánh niệm vào học đường ở bang California từ năm 2014. Tiến sỹ Bạch cũng giảng dạy cho chương trình huấn luyện giáo viên. Ngoài ra, ông còn tham gia nhiều công việc xã hội trong cộng đồng. Tháng Ba 2023, TS Bạch Xuân Phẻ được Hiệp hội Giáo viên California (California Teachers Association) vinh danh vì những đóng góp giáo dục thực hành chánh niệm của ông. TS Bạch Xuân Phẻ cũng được trao Giải thưởng Nhân quyền người Mỹ gốc Á Thái Bình Dương năm 2023 của bang California (Human Right Awards).
19/12/2023(Xem: 4361)
Cách đây chừng 30 năm, Tổ Đình Viên Giác tại Hannover Đức Quốc chúng tôi có nhận được bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daizokyou) bằng Hán Văn gồm 100 tập do cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh từ Đài Loan giới thiệu để được tặng. Bộ Đại Tạng Kinh giá trị này do Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội xuất bản và gửi tặng đến các nơi có duyên. Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội dưới sự chứng minh và lãnh đạo tinh thần của cố Hòa Thượng Thích Tịnh Không đã làm được không biết bao nhiêu công đức truyền tải giáo lý Phật Đà qua việc xuất bản kinh điển và sách vở về Phật Giáo, với hình thức ấn tống bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như: Hoa Ngữ, Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Đức Ngữ, Việt Ngữ. Nhờ đó tôi có cơ hội để tham cứu Kinh điển rất thuận tiện.
13/12/2023(Xem: 10465)
Hành Thiền, một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo dục hướng thượng (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
12/12/2023(Xem: 4987)
Chánh Pháp và Hạnh Phúc (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
19/05/2023(Xem: 4644)
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ XIV, nhà lãnh đạo tinh thần của Phật giáo Tây Tạng đã kêu gọi đạo Phật ở thế kỷ 21, với sự nhấn mạnh không phải vào nghi lễ, cầu nguyện và lòng sùng mộ, đúng nghĩa hơn là nghiên cứu, tu học đặc biệt là các tác phẩm của 17 vị Luận sư vĩ đại thuộc Nalanda trường Đại học đầu tiên của Phật giáo. Để phù hợp với phương tiện thiện xảo của Đức Phật, nghiên cứu cần phải thích nghi với hoàn cảnh của thế kỷ 21, và phù hợp với các phương pháp truyền thống của Thời đại kỹ thuật số. Nhằm duy trì hiệu quả trong giáo dục Phật giáo, thì phải thích ứng với những nhu cầu thời đại, như nó đã luôn thực hành trong quá khứ. Đặc biệt là để tiếp tục truyền thống vĩ đại của giáo dục Phật giáo Nalanda, cần phải đáp ứng với các phương pháp giáo dục hiện đại, để cung cấp cho các thế hệ trẻ khả năng tiếp cận. Tôi xin dẫn chứng một số bối cảnh lịch sử để chứng minh rằng việc thích nghi với thời đại là phù hợp với truyền thống đạo Phật.
17/05/2023(Xem: 4730)
Hiện nay có một hiện tượng đáng ngại là một số tu sĩ thuyết pháp có một số tín đồ nghe theo, hoặc là trụ trì, trở nên vô cùng ngã mạn có những hành động, cử chỉ, lời nói khinh mạn tín đồ và tự cho mình đã chứng đắc có khi còn hơn cả Phật. Câu hỏi đặt ra là: Là trụ trì, hoặc thuyết pháp có cả triệu tín đồ đi theo, phát hành cả trăm băng đĩa, như thế đã là Phật chưa?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567