Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

14. Bombay, 22 tháng hai 1961

14/07/201100:46(Xem: 3342)
14. Bombay, 22 tháng hai 1961

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ SỢ HÃI [ON FEAR]
Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2009 –
HarperSanFrancisco, A Division of HarperCollinsPublishers

PHẦN I

Bombay, 22 tháng hai 1961

Bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu tổng thể của sợ hãi, mà sâu thẳm bên trong nó có sự lo âu, một ý thức của sợ hãi, và sự hy vọng mà được sinh ra từ sợ hãi và tuyệt vọng – chắc chắn một cái trí như thế là một cái trí không lành mạnh. Một cái trí như thế có lẽ đi đến đền chùa, những nhà thờ. Nó có lẽ quay cuồng trong mọi loại lý thuyết, nó có lẽ cầu nguyện, nó có lẽ rất uyên bác, phía bên ngoài nó có lẽ có mọi loại đánh bóng của hiểu biết rộng rãi, vâng lời, có phong cách lịch sự và lễ phép, cư xử ngay thẳng phía bên ngoài; nhưng một cái trí như thế mà có tất cả những việc này và gốc rễ của nó trong sợ hãi – giống như hầu hết những cái trí của chúng ta đều có – chắc chắn không thể thấy mọi sự việc sự vật một cách đúng đắn. Sợ hãi có nuôi dưỡng những hình thức khác nhau của những bệnh tật tinh thần. Không ai sợ hãi Thượng đế; nhưng người ta sợ hãi quan điểm của công chúng, sợ hãi không đạt được, không thành tựu, sợ hãi không có cơ hội; và qua tất cả điều đó đều có ý thức lạ lùng của tội lỗi này – người ta đã làm một việc mà đáng lẽ người ta không nên làm; ý thức tội lỗi trong chính hành động của đang làm; người ta lành mạnh và những người khác hư hỏng hay không lành mạnh; người ta có đủ lương thực và những người khác thiếu ăn. Cái trí càng đang tìm hiểu, đang thâm nhập, đang dò tìm nhiều bao nhiêu, ý thức của tội lỗi, lo âu càng nhiều bấy nhiêu. Và nếu toàn qui trình này không được hiểu rõ, nếu toàn tổng thể của sợ hãi này không được hiểu rõ, nó có dẫn đến những hoạt động kỳ dị, những hoạt động của những vị thánh, những hoạt động của những người chính trị – những hoạt động mà tất cả đều có thể giải thích được, nếu bạn quan sát, nếu bạn nhận biết được bản chất mâu thuẫn này trong sợ hãi, cả tầng ý thức bên ngoài lẫn tầng ý thức bên trong. Bạn biết sợ hãi – sợ hãi chết, sợ hãi không được thương yêu hay sợ hãi thương yêu, sợ hãi mất mát, sợ hãi có được. Bạn giải quyết nó như thế nào?

Sợ hãi là sự thôi thúc để tìm kiếm một bậc thầy, một đạo sư; sợ hãi là khoác vào lớp vỏ đáng kính này, mà mọi người kính nể rất nhiều – được kính trọng. Tôi không đang nói về bất kỳ điều gì mà không là sự kiện. Vì vậy bạn có thể thấy nó trong sống hàng ngày của bạn. Bản chất tỏa khắp mọi nơi lạ lùng này của sợ hãi – bạn giải quyết nó như thế nào đây? Bạn chỉ phát triển phẩm chất của sự can đảm để gặp gỡ sự đòi hỏi của sợ hãi? Bạn hiểu rõ chứ? Bạn khẳng định phải can đảm khi đối diện những biến cố trong cuộc sống, hay chỉ lý lẽ cho qua sợ hãi, hay tìm ra những giải thích mà sẽ trao sự thỏa mãn cho cái trí bị trói buộc trong sợ hãi? Bạn giải quyết nó như thế nào? Bật máy thâu thanh, đọc một quyển sách, đến một ngôi đền, bám vào một hình thức tín điều hay niềm tin nào đó? Chúng ta sẽ bàn luận phương cách giải quyết sợ hãi. Nếu bạn nhận biết được, thái độ tiếp cận của bạn đến sự tối tăm này là gì? Chắc chắn chúng ta có thể hiểu rất rõ ràng rằng một cái trí sợ hãi rơi vào trạng thái đờ đẫn; nó không thể vận hành đúng cách, nó không thể suy nghĩ hợp lý. Qua sợ hãi, tôi không có ý nói sợ hãi chỉ tại tầng ý thức bên ngoài, mà còn cả trong những ngõ ngách sâu thẳm của cái trí và tâm hồn riêng của người ta. Làm thế nào bạn khám phá nó, và khi bạn khám phá nó bạn làm gì? Tôi không đang đưa ra một câu hỏi gây ấn tượng; đừng nói, ‘Ông ta sẽ trả lời nó’. Tôi sẽ trả lời nó, nhưng bạn sẽ phải tìm ra. Khoảnh khắc không có sợ hãi, không có tham vọng, nhưng có một hành động, mà dành cho tình yêu của sự việc chứ không phải dành cho sự công nhận của sự việc bạn đang làm. Vậy là, làm thế nào bạn giải quyết nó? Phản ứng của bạn là gì?

Chắc chắn, phản ứng hàng ngày đối với sợ hãi là gạt nó sang một bên và chạy trốn nó, che đậy nó qua ý chí, khẳng định, kháng cự, tẩu thoát. Đó là điều gì chúng ta làm, thưa các bạn. Tôi không đang nói bất kỳ điều gì lạ lùng. Và thế là sợ hãi liên tục đuổi bắt bạn giống như một cái bóng, bạn không được tự do khỏi nó. Tôi đang nói về tổng thể của sợ hãi, không chỉ một trạng thái đặc biệt của sợ hãi – chết, không phải điều gì người hàng xóm của bạn sẽ nói; sợ hãi về người chồng hay người con đang hấp hối của một người; sợ hãi về người vợ bỏ mình. Bạn biết sợ hãi là gì? Mỗi người đều có hình thức sợ hãi đặc biệt riêng của anh ấy – không phải một nhưng vô số sợ hãi. Chắc chắn, một cái trí mà có bất kỳ hình thức đặc biệt nào của sợ hãi không thể có chất lượng của tình yêu, thông cảm, nhạy cảm. Sợ hãi là năng lượng hủy diệt trong con người. Nó làm đờ đẫn cái trí, nó gây biến dạng tư tưởng, nó dẫn đến mọi loại lý thuyết tinh vi và khôn ngoan lạ lùng, những mê tín, những giáo điều, và những niềm tin vô lý. Nếu bạn thấy rằng sợ hãi là hủy diệt, vậy thì làm thế nào bạn tiến tới để lau sạch sẽ cái trí?
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/02/2022(Xem: 37460)
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà (loạt bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong mùa dịch cúm Covid-19)
17/11/2021(Xem: 26528)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 22696)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
13/11/2021(Xem: 14198)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/11/2021(Xem: 15879)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 15735)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 18407)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 18336)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
24/06/2021(Xem: 5189)
Lòng Từ bi là một giá trị phổ quát. Tranh đấu cho công bằng xã hội – nghĩa là bảo đảm quyền lợi và cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người – thường xuất phát từ sự phẫn nộ, thúc đẩy con người chống lại những bất công có hệ thống. Tôi tin rằng đấu tranh cho công bằng xã hội sẽ có hiệu quả tốt nhất nếu được kích hoạt bởi lòng từ bi. Nếu động lực đấu tranh cho công bằng xã hội của chúng ta là do lòng từ bi đích thực, chúng ta sẽ được tiếp thêm năng lượng để hoạt động tích cực hơn nhằm bảo đảm cho tất cả mọi người có được một phẩm chất đời sống xứng đáng. Tôi tin rằng nữ giới có thể đóng một vai trò đặc biệt trong việc đấu tranh cho công bằng xã hội bằng cách tu tập lòng từ bi và trí tuệ.
07/05/2021(Xem: 22146)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]