Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

181. Túy Thiền sư đề chữ Trung Hiền Tử

31/10/201819:38(Xem: 6599)
181. Túy Thiền sư đề chữ Trung Hiền Tử

te dien hoa thuong


Tế Công Hoạt Phật
(Tế Điên Hòa Thượng)
Đồ Khùng dịch
(bút hiệu của HT Thích Minh Cảnh)

***

Chương 181:
Túy Thiền sư đề chữ Trung Hiền Tử

Giả đạo cô mổ bụng trộm bào thai




Đậu Vĩnh Hàng và Châu Khôn nghe báo, tức giận hầm hầm, lật đật nhảy lên ngựa quyết chạy lên núi xem người ấy là ai. Nào ngờ vừa xuống đến chân núi, hai người vội xuống ngựa làm lễ. Té ra người ở dưới chân núi là Tế Điên Hòa thượng. Hai người bước tới thi lễ, nói:

- Té ra là Thánh tăng, lão nhân gia từ đâu đến đây?

- Ta từ thành Lâm An muốn đi huyện Giang Âm.

Đậu Vĩnh Hằng nói:

- Sư phụ, mời lão nhân gia lên núi một chút.

- Ta không lên núi đâu. Hai ngươi làm đại vương ở núi này hả?

- Bọn tôi không còn đất sống, đành tạm ẩn thân trên núi này vậy.

- Đậu Vĩnh Hàng, hãy kề tai lại đây, ta dặn như vầy …như vầy…

Đậu Vĩnh Hàng gật đầu lia lịa, nói:

- Sư phụ, để con đưa sư phụ một ít tiền lộ phí.

- Ta không cần, có tiền hóa duyên rồi, ta phải đi đây!

Tế Điên nói rồi bỏ đi. Hôm đó, Tế Điên đến huyện Giang Âm, thấy có một thôn trang, ngoài cổng thôn có rất nhiều người tụ tập. Tế Điên vừa đi đến gần, trong đó có người nói:

- Có Hòa thượng đến rồi, chúng tôi xin lãnh giáo Hòa Thượng một việc. Mời đại sư phụ tới đây!

- Các vị có việc gì thế?

- Tòa thôn trang chúng tôi có bảy tám chục nóc gia, ba bốn lớp người mà không ai biết chữ, cả đến chữ đinh cũng không ai biết đọc. Mọi người nói: Chuyện này thật là lạ, có lẽ người trong cả toàn thôn chúng ta phạm lỗi gì đây chắc? Mời một thầy phong thủy đến xem, ông ta bảo rằng đó là do lỗi chúng tôi không thờ văn võ thánh nhân. Nếu thờ văn võ thánh nhân sẽ có được văn phong đấy. Thôn trang chúng tôi cùng nhau bàn bạc nên sửa sang một cái miếu, thờ Quan phu tử và Khổng thánh nhân. Chúng tôi rất lấy làm khó xử: Có người muốn gọi miếu Quan Công sao lại có thờ Khổng thánh nhân; còn nếu gọi là miếu Thánh nhân sao lại thờ Quan phu tử? Cũng vì lẽ đó mà không biết đặt tên thế nào cho phải. Hòa thượng, ông cho dùm cái tên đi, đại khái chắc ông là người tài giỏi.

- Để tôi đặt cho! Đặt tên là "Trung Hiền Tử" nhé!

Mọi người đều nói:

- Hay quá! Hòa thượng cao minh thiệt! Ông biết viết chữ không? Nhờ ông viết lên tấm bảng này dùm có được không?

- Được chớ!

Lập tức đem viết đến. Tế Điên cầm viết viết ngaỵ Viết xong bảng "Trung Hiền Tử", mọi người đều tấm tắc:

- Sư phụ, sẵn dịp viết cho một bức liễn luôn đi!

- Cũng được!

Nói rồi cầm viết quơ một loáng là xong ngay.

Vế trên:

Khổng phu tử, Quan phu tử, hai vị phu tử.

Vế dưới:

Làm xuân thu, xem xuân thu, một bộ xuân thu.

Mọi người xúm lại xem: "Thư pháp rất đẹp, chắc là văn lý lại càng hay". Ai nấy đều khen không tiếc lời, rồi họ đề nghị:

- Đại sư phó, nhân tiện viết một đôi câu đối ngoài cổng cho đủ bộ.

Tế Điên cầm viết viết ngay câu đối ở cổng là:

"Trời mưa tuy rộng, không thấm được cỏ vô căn.

Phật pháp cao xa, khó độ hạng người bất thiện"

Tế Điên viết xong, mọi người xúm lại hỏi:

- Vị đại sư phó này viết chữ đẹp như vậy mà sao quá nghèo khổ tả tơi như thế?

- Thôi, các vị đừng nhắc tới làm chi! Tôi đang tức con vợ tôi đây.

- Sao mà giận cô ấy dữ vậy?

- Ta cưới con vợ về chưa được mười ngày, con vợ ta nó cuốn gói theo người khác mất ta tìm nó hơn nửa năm để bắt nó về nhà đây.

- Vậy là không gặp cô ấy rồi.

- Ta gặp chớ! Nó về với ta được hơn một tháng, nó lại trốn theo hòa thượng lão đạo mất. Nó nói nó thích hòa thượng; con vợ ta lại đi theo đạo sĩ. Ta giận quá đi tìm nó khắp nơi. Lần này tìm được ta quyết không tha nó đâu.

- Vợ Ông đã bỏ ông rồi, ông còn tìm nó làm chỉ Ông bây giờ đã xuất gia rồi, hãy ở lại "Trung Hiền Tử" của chúng tôi đi. Chúng tôi sẽ cấp cho ông mấy chục mẫu ruộng hương quả để ông chi dùng. Ông ở lại miếu, dạy cho mấy đứa học trò rồi tu hành, có được hay không?

- Không được đâu. Ta phải đi tìm nó mới được.

Nói tới đây, Tế Điên ngước đầu nhìn lên nói:

- Thiệt tức cười chưa? Mới nhắc mà con vợ ta nó tới kìa!

Mọi người ngước mắt nhìn ra thì thấy từ đằng kia, một vị đạo cô đang đi lại. Vị này mặt trắng phù dung phơn phớt như hoa đào, trong tay cầm một cái bao nhỏ. Tế Điên chạy tới níu cô ta lại, nói:

- A, cái đồ chết bầm, mi chạy theo lão đạo, bây giờ làm đạo cô hả? Ta cưới mi về không được mấy ngày. Ta đi kiếm bao nhiêu ngày nay, bây giờ mới gặp đây!

Đạo cô nói:

- Ơ, các vị mau lại khuyên can giùm. Tôi vốn xuất gia từ nhỏ, đâu có dính dáng với người đàn ông nào. Ông Hòa thượng này điên rồi, nói tầm bậy tầm bạ không!

Mọi người lật đật chạy lại khuyên giải, nói:

- Chà, có chuyện gì vậy?

Tế Điên nói:

- Nó là vợ của tôi, chạy theo lão đạo sĩ, bây giờ làm đạo cô đó.

Đạo cô nói:

- Các vị có nghe thổ âm của Hòa thượng nói không? Ông ta nói giọng như thế đó, còn tôi nói giọng như thế này hay sao? Ông ta điên rồi mà!

Mọi người chạy lại nói:

- Đâu có được! Tế Điên nói.

Mọi người xúm lại gỡ tay Tế Điên ra để cho đạo cô đi. Tế Điên nói:

- Mấy người bắt tôi thả vợ tôi ra, mấy người phải đền con vợ khác cho tôi đã!

Ai nấy đều cho là Hòa thượng điên, mới nói:

- Để chúng tôi cho Hòa thượng mấy xâu tiền.

Họ hùn lại hai xâu tiền cho Tế Điên rồi nói:

- Đại sư phó hãy đi ăn điểm tâm cái gì đi.

Tế Điên cầm hai xâu tiền và nói:

- Để ta đi kiếm nó.

Nói rồi xách hai xâu tiền đi về phía trước. Đến một ngã tư trong thành Giang Âm, thấy ở phía Bắc đường có một bảng coi bói, ông thầy bói đang ngồi ngủ gật. Ông thầy bói này mạng vận không khá, từ sáng sớm tới giờ không có ai tới mở cửa hàng cả. Ông ta xếp quẻ bói ra mà không có ai đụng đến, đang trông muốn mòn con mắt mà không có ai ghé vào, ông ta đang ngủ gà ngủ gật thì nghe có người nói:

- Cho một cái đi!

Ông tưởng người ta đến coi quẻ, lật đật mở mắt ra nhìn kĩ lại thì không phải, người ta hỏi mua một trái hồng. Ông thầy bói tức giận nhắm mắt lại định ngủ tiếp. Mới vừa nhắm mắt thì Tế Điên bước lại gần, nói:

- Ối chào, coi quẻ đi. Coi quẻ bao nhiêu tiền?

Thầy bói ngước mặt lên, nói:

- Quẻ của tôi coi rất đúng. Mỗi quẻ là 12 tiền. Bớt cho ông hai tiền, còn trả mười tiền thôi.

- Tiền quẻ thì cũng không phải ít. Ông coi cho ta một quẻ đi. Coi trúng ta mời ông một bữa cơm, còn coi không trúng ta thưa ông lên quan đấy nhé!

- Tôi coi cho ông trúng tôi cũng không cần ông mời cơm tôi, còn coi ông không trúng tôi cũng không theo ông lên quan đâu.

- Được, ông coi cho ta đi.

- Ông rút một cây thẻ đi!

- Không cần rút ta cũng biết cây Tý mà!

- Vậy đâu có được! Mười hai thẻ này là Tý Sửu Dần Mẹo Thìn Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi. Ông nói Tý không không được, phải rút ra tôi mới đoán được.

- Ta rút ra cũng là Tý thôi.

- Thế thì không được!

- Thì ông xem đây.

Tế Điên nói rồi lấy tay rút thẻ. Thầy bói xem quả là quẻ Tý, bèn nói:

- Miệng của Hòa thượng này linh thiệt!

Thầy bói cầm hộp quẻ lên định lắc. Tế Điên nói:

- Ông không cần lắc, nó là quẻ đơn mà!

- Không lắc đâu có được, quẻ phải phân biệt đơn chiếc trùng giao chớ!

Thầy bói không tin, cầm hộp lắc một hồi văng ra quả nhiên là quẻ đơn. Tế Điên nói:

- Ông lắc ra sáu quẻ đơn cho coi.

- Sao lại toàn sáu quẻ đơn cả được.

- Ông không tin cứ lắc thử, chỉ nhọc công thôi!

Thầy bói lắc liên tiếp năm lần đều là quẻ đơn cả, tức giận không thèm lắc nữa. Bày lên sáu quẻ đơn, nói: 

- Đây là quẻ lục xung, ly mà hợp. Hòa thượng, ông muốn cầu việc chi.

- Vợ ta nó bỏ đi mất, ta muốn đi tìm mà không biết có tìm được không?

- Theo quẻ ứng thì tìm được.

Tế Điên thảy hai điếu tiền tiền lên bàn, nói:

- Nếu tìm được con vợ, ta cho ông hai điếu tiền này, còn tìm không được con vợ, ta đòi ông bón điếu tiền đấy nhé! Ta tố cáo ông lên quan mới được.

Thầy bói sợ hết hồn nói:

- Ông đừng có cáo báo tôi, tôi cũng không lấy hai điếu này của ông đâu.

Tế Điên nói tới đó, ngước đầu lên nhìn thấy vị đạo cô đằng kia đi lại, bèn nói:

- Thầy bói linh thiệt! Con vợ ta nó tới kìa. Hai điếu tiền này ta cho ông hết đó!.

Tế Điên bước tới, níu đạo cô lại, nói:

- Cô đừng có đi nữa! Cô là vợ ta mà không chung ở với ta, lại cứ đi theo lão đạo sĩ, như vậy đâu có được!

Đạo cô nói:

- Cái ông Hòa thượng điên điên khùng khùng này, nói bậy nói bạ hoài. Tôi với ông hồi nào tới giờ đâu có quen mà sao ông cứ làm khổ tôi hoài vậy?

- Hai ta phải lên quan mới được!

- Lên quan thì lên quan.

Nói tới đó thì từ đầu kia có hai vị Ban đầu đi lại, nói:

- Này Hòa thượng, hai vị muốn kéo nhau lên quan hả?

- Vâng, ta muốn thưa lên quan đây.

Hai vị Ban đầu rút dây sắt ra trói ngay đạo cô lại. Đạo cô nói:

- Hai vị Ban đầu, các ông làm không đúng rồi đấy, tôi cùng với Hòa thượng kéo nhau lên quan, tại sao chỉ trói tôi mà không trói Hòa thượng?

- Lão gia chúng tôi ở đây có quy củ là nếu có đạo cô xích mích với Hòa thượng rủ nhau lên quan thì phải trói đạo cô lại chớ không trói Hòa thượng.

Đạo cô nghe nói như vậy mới không cãi nữa. Sự thật trong có một đoạn sự tình. Nhân vì tại địa phương huyện Giang Âm có xảy ra hai vụ án mạng, nên quan huyện mới phái các sai nhân đi bắt các đạo cô.

Tại huyện Giang Âm có một vị Ban đầu họ Hoàng tên Nhân, ông ta có một người em tên là Hoàng Nghĩa, mở một tiệm bán đồ trang sức. Hai anh em ở nhà riêng. Một hôm Hoàng Nhân phải đi xuống làng biện án, trong nhà chỉ còn một mình vợ là Ngô Thị Ở ba gian Bắc phòng rộng thênh thang. Hoàng Nhân phải đi biện án đến bốn năm ngày mới trở về, trước khi đi, kiếm em mình là Hoàng Nghĩa, nói:

- Anh phải đi xuống làng biện án đến bốn năm ngày mới về được, ngày mai chú đem cho chị hai điếu tiền để chi dùng hàng ngày nhé! Chừng nào về, anh sẽ trả lại cho chú.

- Anh cứ đi đi! Hoàng Nghĩa nói.

Sau khi Hoàng Nhân đi rồi, hôm sau Hoàng Nghĩa đem hai điếu tiền đến giao cho chị dâu. Đến nhà Hoàng Nhân, Hoàng Nghĩa thấy trong nhà chị dâu có một vị đạo cô khoảng hơn 20 tuổi mặt trắng phù dung đang ngồi, bèn nói:

- Này chị, anh tôi không có nhà, chị Ở nhà một mình mời ba cô, sáu bà như vầy có gì tốt đâu?

Ngô Thị nói:

- Chú muốn xen vào chuyện này à? Cô ta đâu phải là đàn ông? Cả đến anh chú có ở nhà cũng không xen vào chuyện của tôi được mà!

Hoàng Nghĩa không tiện nói cặn kẽ, bèn để lại cho chị hai điếu tiền rồi về nhà. Đêm đó, Hoàng Nghĩa nhớ lại: "Chắc là có chuyện gì rồi. Anh ta không có ở nhà, ta phải đi thăm xem". Lập tức đi đến nhà chị dâu gọi cửa. Gọi đến khô cả họng mà không có ai trả lời. hai bên hàng xóm đều đổ xô ra cùng với Hoàng Nghĩa xô cửa ra xem thử. Vào đến trong nhà, Hoàng Nghĩa sợ quá hét lên một tiếng.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/10/2010(Xem: 3785)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
16/10/2010(Xem: 3040)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
16/10/2010(Xem: 2858)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
16/10/2010(Xem: 2709)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
15/10/2010(Xem: 3105)
Một danh tướng về già muốn tặng thanh kiếm báu của mình cho một tướng quân ở xa. Ông giao trọng trách đó cho một gia nhân, cũng là một tay kiếm xuất chúng. Cẩn thận như vậy, ông vẫn không yên lòng, nghĩ rằng kiếm sĩ này chưa chắc đã đủ chín chắn để giữ kiếm không bị cướp dọc đường. Thanh kiếm không những quý về chất thép mà còn quý vì chuôi kiếm có nạm vàng và ngọc vua ban.
13/10/2010(Xem: 2515)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
13/10/2010(Xem: 4089)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
11/10/2010(Xem: 3120)
Không ngờ tôi lại có được duyên lành đi chung với Thầy Trụ Trì Chùa Tâm Giác một đoạn đường khá xa. Tôi vẫn thường hay đến chùa, vãn hay gặp Thầy nhưng lúc nào Thầy cũng „Phật sự đa đoan“ nên tôi có rất ít thì giờ gần gũi và tiếp xúc với Thầy nhiều. Chuyến đi này thật hữu ích cho tôi vô cùng, tôi đã nghe và thấm nhuần được rất nhiều điều về Giáo lý Phật Đà - một niềm tin mà tôi luôn luôn tôn thờ và say mê khi vừa mới lớn cho đến tận bây giờ và cũng nhờ Thầy mà đoạn đường đi về 260 km không còn xa vời vợi nữa.
07/10/2010(Xem: 3250)
Hiện nay, truyền thuyết Lương Sơn Bá-Chúc Anh Đài được lưu truyền dưới nhiều hình thức nghệ thuật khác như kể chuyện, ca dao, truyền kỳ, kịch, khúc nghệ, âm nhạc, v.v
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]