Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chuyện Thiền

15/10/201001:57(Xem: 3082)
Chuyện Thiền
labode_3

CHUYỆN THIỀN
Cao Huy Thuần


Một danh tướng về già muốn tặng thanh kiếm báu của mình cho một tướng quân ở xa. Ông giao trọng trách đó cho một gia nhân, cũng là một tay kiếm xuất chúng. Cẩn thận như vậy, ông vẫn không yên lòng, nghĩ rằng kiếm sĩ này chưa chắc đã đủ chín chắn để giữ kiếm không bị cướp dọc đường. Thanh kiếm không những quý về chất thép mà còn quý vì chuôi kiếm có nạm vàng và ngọc vua ban.

Chẳng hiểu do đâu, các tay kiếm khách trong thiên hạ đều biết kiếm báu đang di chuyển. Ai cũng thèm. Rời nhà chẳng bao lâu, người gia nhân kiếm sĩ đã để ý thấy ba tay hảo hán đang theo dõi mình không rời gót.

Hôm ấy, anh vào quán rượu nghỉ chân, cả ba vào theo. Anh kéo ghế, họ chọn bàn bên cạnh, cách nhau một hành lang. Gươm đeo bên hông, họ sang sảng gọi tửu bảo. Ba người ngồi trong tư thế bao vây, một người ngồi đối diện, một người chênh chếch đằng sau, một người bên hông. Một chọi ba. Anh kiếm sĩ nao nao.

Anh quan sát người thứ nhất trước mặt. Rượu mang đến, y chìa tiền hào phóng cho tửu bảo, nâng cốc mời hai người kia, nốc cạn một hơi, tự rót cho mình một cốc khác. Mắt y sắc như dao, lưỡng quyền cao, một vết sẹo nằm dọc bên má. Y rút gươm đặt lên bàn, sửa lại thắt lưng, mở rộng cổ áo, đưa mắt liếc xung quanh. Tay này có vẻ đầu đảng.

Tự nhiên anh kiếm sĩ nghĩ đến một chuyện thiền. Chuyện thế này: Một ngày kia, vùng ấy có động đất, nhà cửa đổ sập, ngôi chùa vững thế mà cũng sập một gian. Khi tai biến qua rồi, thầy trụ trì họp tăng chúng lại để dạy bảo.

Thầy nói: “Các chú đã thấy thầy bình tĩnh như thế nào rồi đó, đó là thái độ của người thiền sư trước mọi sự việc. Chẳng có gì, kể cả bão tố, kể cả động đất, có thể làm động lòng một người đã chứng đạt; người đó ở trong hoàn cảnh nào cũng tự nhiên nhi nhiên, ung dung, tự tại. Các chú thấy Thầy có đổi sắc mặt đâu, cứ thản nhiên dẫn các chú trú ẩn trong nhà kho, nhà này chắc mà lại thấp, có sập cũng chẳng gây thương tích gì.

Thầy lại còn không quên bảo các chú khiêng chum tương vào kho, vật bất ly thân, có thực mới vực được đạo, bởi vậy tối nay thầy trò chúng ta không lo chuyện ăn. Chùa sập ngay gian nhà họp, giá như Thầy không tỉnh táo, cứ để các chú ở đấy, không chưng bây giờ ta phải mò gạch mà tìm xương nhau.

Nhưng dù sao, dù sao, ừ dù sao, Thầy cũng là người như các chú, đâu phải gỗ đá vô tri, nên Thầy phải thú nhận có lúc cũng động lòng, chút xíu thôi, như gió thoảng. Ấy là lúc mà Thầy bưng chén nước lên uống, suốt đời Thầy chưa bao giờ uống nước lạnh, chỉ uống nước trà thôi, nhưng lúc ấy khô cổ quá, tự nhiên uống cạn cả chén nước lạnh.”

Có tiếng cười nhỏ nhỏ trong tăng chúng, Thầy hỏi: “Các chú cười gì?” Một chú tiểu vô tư: “Bạch thầy, không phải chén nước lạnh đâu ạ, Thầy uống cạn cả một chén xì dầu!”

Anh kiếm sĩ hiểu tại sao câu chuyện thiền ấy lại bay vào đầu mình. Một chọi ba, anh nao nao. Như gió thoảng, một chút xíu thôi, nhưng có cái gì lay lay trong đầu. Anh cầm ly rượu, nắm chắc trong tay, lòng tự nhủ lòng: đây là ly rượu, là ly rượu, không phải nước lạnh, đây không phải xì dầu. Đây là ta, kia là nó; đây là thanh kiếm của ta, kia là lưỡi gươm của nó. Đây là quán rượu, không phải là ngôi chùa, không có động đất, chỉ có ta động lòng.

Anh đưa mắt nhìn tên thứ hai, chêch chếch phía sau, chân gác lên đùi. Thấy anh liếc mắt, y rút gươm đặt cạnh ly rượu làm rượu sóng sánh. Y xoay xoay ly rượu trong tay, không uống, rồi cầm chiếc đũa gõ vào mạn ly dánh nhịp, như đang hát một điệu gì đấy trong đầu. Trông tay này dáng điệu thảnh thơi, thong dong như một cánh diều hâu đang lượn một vòng trên trời trước khi đáp vù xuống đất gắp con gà con.

Anh kiếm sĩ rờn rợn chút xíu sau gáy. Đầu anh chờn vờn một chuyên thiền khác. Chuyện thế này: Một kiếm sinh tầm sư học đạo, nghe nói có ông sư tài nghệ tột vời, tìm đến nơi xin vào ở trong chùa mong thầy truyền nghề cho. Một năm, hai năm, rồi ba năm trôi qua anh ta vẫn nấu bếp trong chùa, chẳng thấy thầy nói năng một tiếng, thầy ăn cứ ăn, trò nấu cứ nấu. Anh ta buồn quá, toan thối lui thì bỗng một hôm...

Bỗng một hôm, anh ta đang lui cui xào nấu, thầy bất thần đâu từ sau lưng giáng cho một đòn gươm gỗ xuống vai, đau điếng. Hôm sau, anh ta đang loai hoay nhặt sau, thầy bất thần từ phía sau giáng cho một đòn nữa. Từ đó, bất kể mặt trời mặt trăng, sáng trưa chiều tối, đang lùa miếng cơm hay đang tưới rau, anh ta luôn luôn ở trong tư thế phòng vì thầy xuất hiện bất cứ lúc nào, gươm gỗ như đâu từ trên trời giáng xuống. Lúc đầu thầy đánh trúng, càng về sau càng trượt, sau cùng thì trượt tuốt. Anh nấu bếp trở thành vô địch thiên hạ.

Phía sau là chỗ hiểm nhất phải lo. Tiểu nhân không bao giờ dám hại người quân tử ở phía trước, chỉ giỏi đánh rình, đánh mò, đánh úp, đánh lén, đánh tập hậu, đánh sau đuôi. Anh kiếm sĩ lại cầm ly rượu, nhìn đủ năm ngón tay nắm chặt vành ly, tưởng tượng mình đang nấu bếp, đang lặt rau, hù, gươm gỗ vừa giáng xuống, hụt, vai trái vừa bị đòn, ha ha, thầy vừa đánh trượt, hi hi, trượt cú nữa... Này, tay kia, mày đang chực đánh lén tao chứ gì, coi chừng, gươm mày sẽ không hơn gì gươm gỗ, chưa kịp giáng xuống hồn mày đã bay lên mây!

Còn lại tên thứ ba, ngồi bên hông. Tên này không đáng lo, vì gươm của y vẫn còn để nguyên trong vỏ, hững hờ bên hông. Trông y như gà xụ cánh, mặt cúi xuống ly rượu không uống, mắt lim dim buồn ngủ.

Nghĩ cho cùng, chưa chắc chúng đã dám tấn công. Mà có tấn công, chắc chắn ta sẽ không uống xì dầu, không sưng vai. Ta đường đường một đấng võ sĩ đạo, một samourai thời vàng son. Một samourai quý tộc trong câu chuyện thiền mà ai cũng biết, chắc chắn ba tên kia cũng biết như ai.

Chuyện rằng: Ngày kia, một võ sĩ đạo quý tộc bước chân vào một quán ăn bình dân dọc đường. Dù là quý tộc, khi đói thì cũng phải ăn thôi. Quán nghèo, ruồi đậu trên bàn. Quý tộc ăn thong thả, khoan thai, cốt cách. Cửa sực mở, ba tên lục lâm bước vào, cười nói ầm ĩ, dương dương tự đắc, gươm đeo lủng lẳng bên hông. Tên thứ nhất chợt thấy thanh gươm quý của võ sĩ đạo trên bàn. Hắn đưa mắt ra hiệu cho hai tên kia đến cướp, cả ba toan rút gươm xông tới thì vừa lúc ấy, võ sĩ đạo đưa đôi đũa lên tai, tắc tắc tắc, gắp ba con ruồi đang bay, kêu tửu bảo thay đũa khác. Ba tên lục lâm lè lưỡi tuôn chạy ra khỏi quán.

Anh kiếm sĩ nghĩ thầm: ta chính là tay samourai ấy đây, ba tên lục lâm là ba tên kiếm khách đang ngồi quanh ta, nào chúng bay, hãy xem đây này! Anh vớt hạt đậu trong chén búng lên trời, vươn đũa gắp hạt đậu đang rơi. Anh gắp được hạt đậu, nhưng chưa kịp buông tay xuống thì, nhanh như chớp, tên cướp ngồi lim dim mắt bên hông rút gươm tặng anh một nhát sâu hoắm trên vai.

Lúc ấy ông danh tướng ở xa đang tỉa hoa trong vườn. Bỗng thấy một con chim trong bụi vụt bay ra, kêu lên một tiếng, khiến ông giật mình, ngón tay chạm lưỡi dao, chảy máu. Ông vất dao, biết mình vừa mất kiếm. Khi tiễn đưa anh kiếm sĩ, ông chỉ căn dặn một câu, như có linh tính: “Trời trống mây thì trăng mới sáng”. Ngay cả câu căn dặn đó cũng phải trống đi trong đầu khi sắp rút kiếm, huống hồ mấy chuyện thiền thông thái kia!

Nguồn: Tản văn "Thấy Phật", NXB Tri thức & Phương Nam Books , 2009
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/10/2010(Xem: 3760)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
16/10/2010(Xem: 3022)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
16/10/2010(Xem: 2846)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
16/10/2010(Xem: 2694)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
13/10/2010(Xem: 2504)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
13/10/2010(Xem: 4073)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
11/10/2010(Xem: 3095)
Không ngờ tôi lại có được duyên lành đi chung với Thầy Trụ Trì Chùa Tâm Giác một đoạn đường khá xa. Tôi vẫn thường hay đến chùa, vãn hay gặp Thầy nhưng lúc nào Thầy cũng „Phật sự đa đoan“ nên tôi có rất ít thì giờ gần gũi và tiếp xúc với Thầy nhiều. Chuyến đi này thật hữu ích cho tôi vô cùng, tôi đã nghe và thấm nhuần được rất nhiều điều về Giáo lý Phật Đà - một niềm tin mà tôi luôn luôn tôn thờ và say mê khi vừa mới lớn cho đến tận bây giờ và cũng nhờ Thầy mà đoạn đường đi về 260 km không còn xa vời vợi nữa.
07/10/2010(Xem: 3234)
Hiện nay, truyền thuyết Lương Sơn Bá-Chúc Anh Đài được lưu truyền dưới nhiều hình thức nghệ thuật khác như kể chuyện, ca dao, truyền kỳ, kịch, khúc nghệ, âm nhạc, v.v
05/10/2010(Xem: 2842)
Năm Tiết Đào lên tám, một hôm vào mùa thu, Tiết Đào đứng chơi bên cạnh cha, gần một cây ngô đồng. Cây đã già, cành lá sum sê đứng sừng sững trước nhà...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]