Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

162. Tôn Đạo Toàn hét đuổi yêu hòa thượng

31/10/201818:25(Xem: 6949)
162. Tôn Đạo Toàn hét đuổi yêu hòa thượng

te dien hoa thuong


Tế Công Hoạt Phật
(Tế Điên Hòa Thượng)
Đồ Khùng dịch
(bút hiệu của HT Thích Minh Cảnh)

***

Chương 162:
Tôn Đạo Toàn hét đuổi yêu hòa thượng

Châu Đắc Sơn cùng khốn gặp người khi


Vị hòa thượng ở chùa Bạch Ngư gặp quan Tri huyện coi như chẳng ra gì, chẳng những không sợ mà còn cười ha hả nói:

- Quan huyện thái gia, ông đến đây chắc là vì vụ án của Vương Thắng Tiên, chớ gì? Vụ án đó do chính sái gia làm đó. Ông đến đây muốn làm gì ta?

Quan huyện thấy sự tình không ổn ấy, sợ đến xanh cả mặt, vội nói:

- Hòa thượng, ông nhìn lầm rồi, tôi đâu phải là quan huyện, tôi là khách thương đi đường mà!

Hung tăng cười ha hả, nói:

- Ông không cần chối, huyện Tiền Đường ta thường đi qua luôn.

- Hòa thượng, ông không nên nhận lầm người như thế. Tôi xin cáo từ về đây.

Nói rồi đứng dậy định đi ra ngoài. Hòa thượng nói:

- Đâu có thể đi được? Hôm nay ông tự dẫn xác đến chùa ta thì đừng hòng chạy trốn. Việc này kêu là: "Thiên đường có nẻo ông không đến, Địa ngục kín bưng muốn nhảy vào". Đồ đệ đâu? Trói tên tặc quan này lại cho ta!

Lập tức chú tiểu từ bên trong chạy ra trói huỵch cánh chõ huyện quan lại!

Vị hòa thượng ở chùa Bạch Ngư tên là Nguyệt Minh, ông ta có ba người sư đệ tên là Nguyệt Lãng, Nguyệt Không và Nguyệt Tịnh. Nguyệt Không và Nguyệt Tịnh không ở trong chùa, chỉ còn lại Nguyệt Lãng thôi. Hai vị hòa thượng này chính là bọn mê tửu sắc. Trong chùa có làm một hầm vách đôi để giấu mấy người phụ nữ đều là mua về ở xóm yên hoa. Hai vị này đều có yêu thuật tà pháp. Ngày kia họ đến Tây Hồ dạo chơi, gặp ái thiếp của Vương Thắng Tiên là Điền thị đang ngồi kiệu, mười phần xinh đẹp, hai vị hòa thượng này thấy được phát động dâm tâm, Nguyệt Minh nói:

- Này sư đệ, chú xem giai nhân này thật là tuyệt sắc, chúng mình hãy thi triển pháp thuật cướp quách nàng ta đi.

Tức thì đất bằng nổi trận quái phong lôi Điền thị từ trong kiệu ra vác chạy đi. A hoàn vú em thấy vậy sửa soạn la, bị hòa thượng rút giới đao ra giết chết. Đem Điền thị về chùa, hòa thượng nói:

- Nếu nàng không thuận nghe ta, ta sẽ giết chết.

Điền thị vốn xuất thânn từ ca kỹ, có gì mất mà chẳng thuận theo, hiến dâng đủ kiểu cho hai vị hòa thượng. Hai vị hòa thượng cứ tưởng việc này không ai biết, nào ngờ bị Tế Điên chỉ ngay ra. Hôm nay Nguyệt Minh thấy Tri huyện đến, vì ông ta thường thấy quan huyện thăng đường xử án để tự do ai muốn xem thì xem, nên biết mặt quan huyện. Nguyệt Minh nghĩ thầm: "Ông ta đã đến đây rồi, không thể nào thả ông ta về được. Chi bằng trảm thảo trừ căn để khỏi còn mầm sẽ mọc lại; thả cọp về rừng, mài giũa nanh vuốt, quyết định sẽ hại người". 

Nghĩ rồi liền sai chú sa di bắt quan huyện trói lại. Triệu Thăng thấy vậy, nói:

- Hay cho ông hòa thượng, thiệt lớn mật dữ a! Bây đúng là tặc hòa thượng.

Nói xong lật đật bỏ chạy ra ngoài. Hòa thượng nói:

- Đừng để nó chạy, hãy bắt nó lại!

Câu ấy vừa nói xong thì cửa ngách bên ngoài đánh rầm một cái mở toang ra. Từ bên ngoài, Triệu đại, Vương nhị… tám vị Ban đầu nhảy xô vào. Tám vị Ban đầu này cũng lén đi tre xét, vừa mới tới cửa chùa thì nghe bên trong tiếng Triện Thăng la hét. Tám vị này phá cửa chạy vào, tay cầm thước sắt định động thủ. Hòa thượng lấy tay chỉ một cái, dùng định thân pháp trồng cứng họ lại và rút giới đao định kết thúc tánh mạng họ. Ngay lúc đó bên ngoài có tiếng hét vang:

- Hay cho đồ nghiệt chướng lớn mật! Ngay ban ngày mặt giữa trời quang mà dám giết người ở đây chớ! Hãy đợi sơn nhân ta đến rồi biết!

Hòa thượng nhìn thấy người đến chính là Tôn Đạo Toàn, bèn nghĩ thầm: "Sự tình này không xong rồi, chuyện bé xé thành to, trong 36 chước chạy trước là hơn!". Nghĩ rồi lật đật chạy vào trong, nói cho sư đệ là Nguyệt Lãng biết rồi dắt đồ đệ mở cửa sau chuồn mất. Tôn Đạo Toàn mắc lo cứu tám vị Ban đầu không thèm rượt theo. Lại mở trói cho quan huyện rồi đi tra xét các chỗ, tìm thấy từ trong vách đôi năm người phụ nữ, đồng đưa về cả nha môn. Khi tra hỏi năm người này thì một người trong đó là Điền thị, ái thiếp của Vương Thắng Tiên, còn bốn người kia đều là kỹ nữ. Tại đại đường truyền thả họ ngay, đem chùa Bạch Ngư sung vào cửa công, mời một vị tăng khác về trụ trì. Phần Điền thị, khi gặp Vương Thắng Tiên bảo rằng mình không thất tiết; kỳ thật ả ta đã hú hí với hòa thường hai đềm rồi. Âu đó cũng là báo ứng của Vương Thắng Tiên, hắn ta thường hay bá chiếm phụ nữ nhà lành, giờ đây ái thiếp của hắn bị người ta cướp đi! Điền thị là người hắn yêu quí nhất, bây giờ tìm lại được, hắn ta rất vui mừng, bảo quan huyện sau vụ án kiếm bắt các hòa thượng ấy. Về phần quan huyện, manh mối đã tìm ra, không bị quấy rầy nữa. Vụ án coi như đã kết thúc, Tôn Đạo Toàn cáo từ trở về chùa. Mấy ngày sau, Tế Điên cũng trở về chùa vì công trình sửa Vạn Duyên kiều đã kết thúc. Quan huyện nghe nói Tế Công đã về đang ở tại chùa mới sai người mời Tế Điên đến nha môn, đặt tiệc khoản đãi ăn uống vui vẻ. Tri huyện nói:

- Thánh tăng không có việc gì nên ở lại huyện nha chơi ít hôm.

- Ta phải đi đây, còn có việc gấp cần làm. Chúng ta lúc rảnh sẽ nói chuyện sau.

Tế Điên nói xong cáo từ ra khỏi nha môn. Vừa đến cửa Tiền Đường thấy gần cửa có một tiệm đậu hũ, trước cửa đông nghẹt người tạ Trong tiệm cối xay bể nát, thùng nước cũng ngã lăn, đậu tương vung vãi trên đất, đậu hũ cũng văng tung tóe. Trong sân có một người mặc áo vải xanh, lưng cột bao lụa, áo trong màu lam, vớ cũng màu lam, chân vấn xà cạp, đi đôi giày ba kíp đầu nhỏ đuôi lớn. Người này đầu thỏ mắt rắn, lưng rùa vai rắn, đang hươ tay hươ chân miệng nói loạn xạ. Tế Điên án linh quang, nói:

- Chao ôi, A Di Đà Phật, ngươi nói việc này Hòa thượng ta đâu có thể không xen vào? Thật là: Việc này chưa xong lại tiếp theo việc khác!

Nguyên, chưởng quỹ của tiệm đậu hũ ấy học Châu, tên là Châu Đắc Sơn. Hai vợ chồng có đứa con tên là Châu Mậu. Ông ta vốn là người châu Tuần Điển. Nhân vì gặp năm mất mùa, kiếm sống rất khó khăn nên đến cửa Tiền Đường thành Lâm An mở một quán đậu hũ, nuôi một con lừa để kéo cối. Đậu hũ của ông ta cung cấp cho các quán cơm, các tiệm chao và bán lẻ đậu hũ. Việc buôn bán rất phát đạt. Được mấy năm, dành dụm được hơn mười lượng bạc. Ngờ đâu thời vận bất tề, cả nhà ba người đều bệnh cả. Người ta sống nhờ vào sự làm việc của bản thân, một khi không làm việc được nữa thì phải nhờ sự giúp thêm bên ngoài. Bệnh đã nữa năm, thuốc thang dưỡng bệnh chẳng những xài hết số tiền để dành mà còn thâm vốn hiện tại. May nhờ Châu Mậu còn đi đứng được, Châu Đắc Sơn bảo con đi thâu tiền thiếu về để chi dụng. Châu Mậu đi chưa nổi, phải cưỡi lừa ra đi. Nợ những chỗ khác còn có thể đòi được, chỉ có quán rượu trên Vạn Trân lầu thiếu hơn 20 điếu tiền, đến đòi mà lão không trả. Chủ quán rượu này họ Tôn, là người chẳng ra gì ở địa phương, ngoại hiệu là Ma diện hổ Tôn Thái Lai. Quản sự của Vạn Trân lầu là họ Liêu có tên đôi là Đình Qúi có ngoại hiệu là Mậu Hóa cũng không phải là người tốt. Hôm đó Châu Mậu cưỡi lừa đi đòi nợ, Liêu Đình Qúi thấy Châu Mậu cười lừa đi khá mau, rất thích ý bèn nói:

- Này Châu Mậu, để ta cưỡi thử con lừa của chú có được không?

- Được chớ!

Liêu Đình Qúi cưỡi chạy thử, quả nhiên con lừa này chạy rất mau. Liêu Đình Qúi nói:

- Châu Mậu, nhà chú hiện giờ không còn xay đậu hũ nữa, hãy bán con lừa này cho ta đi!


- Tôi không bán.

- Ta trả thêm tiền cho chú.

- Bao nhiêu tôi cũng không bán. Tôi nói cho anh biết: Con lừa khác kéo cối xay hai đấu đậu, con lừa tôi có thể xay được bốn đấu đấy. Mai mốt cha tôi mạnh sẽ làm đậu hũ lại mà!

- Nhà chú làm đậu hũ mà có vốn không?

- Không có, đợi lúc khai trương rồi tính.

- Không hề chi, đến chừng khai trương, nhà chú không có vốn, ta cho mượn.

- Vậng.

Nói xong đến Vạn Trân lầu đòi cũng được tiền, đều chi vào việc ăn uống cả. Tới chừng Châu Đắc Sơn lành bệnh, muốn làm đậu hũ bán lại nhưng không có tiền, đến chỗ nào mượn cũng không được. Châu Mậu bỗng nhớ đến Liêu Đình Qúi đã nói, muốn buôn bán hắn cho mượn vốn. Châu Mậu nói việc đó với chạ Châu Đắc Sơn bảo:

- Con đi mượn đi!

Châu Mậu đi đến Vạn Trân lầu, nói:

- Liêu chưởng quỹ, bây giờ cha tôi khá rồi, muốn bán lại mà không có vốn; trước đây chưởng quỹ có nói nếu chúng tôi không có vốn thì cho mượn; hôm nay cha tôi bảo nhắc lại với chưởng quỹ và mượn 20 điếu tiền.

- Bây giờ không có tiền sẵn, để tôi mượn cho chú, ngày mai chú đến lấy nhé!

Châu Mậu nghe nói, vui vẻ trở về. Hôm sau trở lại, Liêu Đình Qúi nói:

- Chú muốn mượn 20 điếu không được rồi, tôi chỉ cho mượn 10 điếu thôi, mỗi tháng một điếu tiền lời.

Châu Mâu nghe bảo, nhăn mặt nói:

- Tiền lời như vậy cao quá! 

- Chú thấy tiền lời cao thì cứ mượn chỗ khác đi!

Châu Mậu không có cách gì hơn, bèn nói:

- Thôi đành vậy!

- Vậy thì 10 điếu lấy trước 9 điếu.

Châu Mậu cũng đống ý. Nhưng sau khi nhận giấy xem lại thì không phải là giấy lấy tiền mà là giấy hẹn, đến tháng sau mới lấy chín điếu. Châu Mậu hỏi:

- Tại sao tháng sau mới lấy tiền?

- Chú muốn vay nợ người ta, có giấy hẹn so với ngưòi không có vẫn mạnh hơn chớ.

- Chúng tôi không cần giấy hẹn, chỉ cần tiền mặt để mua đậu làm đậu hũ bán thôi.

- Nếu chú muốn lấy tiền mặt thì một điếu chỉ lấy 800 tiền thôi.

Châu Mậu đang cầm tiền, không cách nào hơn đành cầm 7 điếu 200 tiền về nhà. Châu Mậu cầm về nhà đếm lại, mỗi điếu thiếu 200 tiền, số tiền còn lại 5 điếu 800 tiền, lại còn tiền nhỏ nữa. Châu Đắc Sơn thấy món tiền ấy thở dài thậm thượt, đã nghèo còn mắc cái eo. Số tiền này chỉ mua được mấy đấu đậu bán sống qua ngày, chỉ lời được hơn một trăm tiền, mỗi tháng phải nộp một điếu tiền lời, đến ngày có người tới lấy, chậm một bữa cũng không được. Nếu không có nộp thì tiền lời đó sẽ nhập vào tiền gốc. Buôn bán nhỏ, mất phải 10 điếu vay thiếu hụt này, biết bao giờ trả hết? Hôm đó, Liêu Đình Qúi lại lấy tiền, nhằm lúc Châu Đắc Sơn không có. Liêu Đình Qúi không nghe chọ Châu Mậu nói:

- Liêu Đình Quí, anh chờ một hai bữa có sao đâu, thêm được một tiền này đã lời quá vốn mấy phần rồi.

Liêu Đình Qúi nghe thế, tức giận nói:

- Hồi chú tới mượn tiền sao không chịu nói? Tôi đâu có kiếm chú tới để cho mượn đâu mà chú nói như vậy?

Châu Mậu lại tranh cãi với hắn. Đình Qúi mở miệng chửi bới lung tung, ban đầu đấu mm, kế tiếp đấu võ. Châu Đắc Sơn chạy tới kéo ra, Liêu Đình Qúi níu lấy Châu Đắc Sơn đánh túi bụi. Châu Mậu thấy đánh cha mình, tức quá bèn chạy vào lấy búa nhắm lưng Liêu Đình Qúi để một nhát, trúng vai bị thương nhẹ. Liêu Đình Qúi nói:

- Hay cho Châu Mậu, mày dám lấy búa chém tao! Tao về đây, lát nữa sẽ biết!

Nói rồi bỏ về, một lát sau hắn dẫn tới hơn 20 người đều cầm dao thương gậy gộc kéo tới tiệm đậu hũ đè cha con Châu Đắc Sơn xuống đánh.
 Chương Trước DS Chương Báo LỗiChương Sau 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2014(Xem: 4812)
Hai kẻ thù đã lâu đời, hai chàng trai trẻ nhất thuộc hai dòng tộc võ sĩ đạo lâm chiến, đang rình rập nhau trong vùng hẻm núi dưới mé sông trong lúc bà con dòng họ đôi bên đang chém giết lẫn nhau trên phía đồng bằng. Mối hận thù nẩy sinh giữa hai chàng sâu đậm đến độ như muốn lộn mửa, và khi trông thấy nhau, mỗi chàng đều nguyện cầu: “Lạy Trời nếu con phải chết, xin cho con gây ra tử thương cho kẻ oán thù trước khi con lìa đời.”
18/10/2014(Xem: 43921)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4492)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4414)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4328)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6456)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4754)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4172)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 25603)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 24440)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]