Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

41. TiếtHuyện Côn Sơn bỗng gặp chuyện lạ kỳ

16/10/201820:46(Xem: 6645)
41. TiếtHuyện Côn Sơn bỗng gặp chuyện lạ kỳ

te dien hoa thuong


Tế Công Hoạt Phật
(Tế Điên Hòa Thượng)
Đồ Khùng dịch
(bút hiệu của HT Thích Minh Cảnh)

***

Chương 41:
TiếtHuyện Côn Sơn bỗng gặp chuyện lạ kỳ

Triệu Ngọc Trinh thủ tiết bị khi dễ


Triệu Phước, Triệu Lộc đang rao bán một cục đá cột chó, bỗng có hai người từ đầu kia đi lại hỏi:

- Cục đá này anh bán bao nhiêu tiền?

- Phải đúng một vạn lượng bạc mới bán.

Hai người nghe nói, lặng thinh quay gót định đi. Tế Điên nói:

- Xin hai vị khoan đi vội, chúng tôi muốn bán nhiều quá cũng bán không được. Hai vị cứ trả giá đi, chúng tôi thấy vừa giá thì bán. Hai vị muốn trả thấp là trả giá bao nhiêu?

- Có người đem cho chúng tôi một con chó, nó cứ chạy mãi. Tôi muốn lấy sợ dây cột nó vào cục đá cho đừng chạy nữa. Mấy vị ra giá cao quá, tôi lại nói giá quá thấp, xin đừng buồn. Cục đá này bán cho tôi 100 tiền nhé! 

Tế Điên nói:

- 100 tiền cũng được, mấy vị có trả đủ tiền không?

- Cũng được. Để tôi trả đủ tiền cho quí vị.

Nói xong lấy tiền trả đủ rồi thuê một người rảnh việc vác đem đi.

Triệu Phước nói:

- Thưa Hòa thượng, cục bửu bối nầy mà bán có 100 tiền, làm sao rẻ như vậy được?

Tế Điên cười ha hả, nói:

- Cục đá ấy trừ hai đó ra không ai thèm lấy tới đâu, 100 tiền chỉ đủ tiền công vác mà thôi. Hai người chia một nửa, mỗi người lấy 50 tiền, Hòa thượng ta không cần lấy một xu nào cả. Các ngươi muốn đi buôn, ta mới dẫn các ngươi đi tìm bửu bối. Tại vận các ngươi chưa tới, chứ không phải ai cũng gặp được như vậy đâu nghe.

Hai người nghe nói thế cũng không dám nói gì, chỉ buột miệng nói:

- Thôi rồi, công lao bọn mình đi đứt, một vạn cũng không dính túi!

Tế Điên bảo:

- Đi mau, đi mau!

Mọi người đang đi, bỗng nghe phía trước có tiếng la:

- Tránh ra, tránh ra mau! Con mẹ điên đó, gặp ai đánh nấy đó đa!

Tế Điên nghe nói, nghĩ rằng chắc có điều gì uẩn khúc, bèn vỗ linh quang ba cái, miệng lẩm nhẩm:

- Hay a! Việc này ta đâu thể bỏ qua để người này mắc nạn được!

Vừa nói dứt, thì thấy có một người đàn bà từ phía Tây đi lại. Người này tuổi độ hơn 20, tư dung thanh tú, mặc áo dài lam, quần vải xanh, tóc tơ rối nùi, miệng hô:

- Lại đây, bọn bây theo ta về Tây phương chầu Phật Tổ!

Tế Điên thấy thế đã rõ biết hết cũng cất tiếng la:

- A, a! Tránh ra, tránh ra, ta cũng nổi điên đây!

La xong, co giò chạy một mạch tới trước. Triệu Phước, Triệu Lộc cũng lật đật chạy theo.

Đầu đuôi sự việc ấy như thế này: Trong huyện Côn Sơn có một thân sĩ tên là Triệu Hải Minh, tự là Tịnh Ba, nhà rất giàu mà dưới gối chẳng có con trai, chỉ có một mụn con gái tên là Ngọc Trinh. Nàng này quả là thu thủy, làn da bạch ngọc tháp cốt, dung tư yểu điệu, phẩm chất đoan trang, biết tam tùng, rành tứ đức, tường tận thất trinh cửu liệt, học nhiều sách thánh hiền, rộng xem gương liệt nữ. Triệu Hải Minh cưng như trứng mỏng, trong nhà gia sản lớn, lại là thân sĩ, mà đã 18 tuổi cô nương vẫn chưa gá nghĩa với ai. Đó là do tính tình của Hải Minh hơi kỳ quái, lúc trước có người đến làm mai mối cho cô nương bị Hải Minh mắng chửi đuổi ra cửa. Từ đó đám mai dong sợ quá không dám bén mảng tới. Hải Minh có một người em họ tên là Triệu Quốc Minh là một hương thân mà cũng là một nhà giàu có tại địa phương, đã làm quan chức Võ doanh, Lý Thiên Hộ, về sau từ chức ở nhà nuôi mẹ. Ông ấy là một người chánh trực, một hôm đến thăm anh là Triệu Hải Minh. Hai người cùng nhau đàm luận tại thư phòng, Triệu Quốc Minh hỏi:


- Huynh trưởng năm nay bao nhiêu tuổi rồi nhỉ?

- Ta đã 58, hiền đệ quên rồi sao?

- Còn chị năm nay bao nhiêu rồi nhỉ?

- Bà ấy năm nay 60, hơn ta hai tuổi.

Triệu Quốc Minh nghe xong gật đầu, nói:

- Huynh trưởng lại có thể sống tới 58 năm nữa à?

Hiền đệ nói câu đó sai rồi, người ta nói:

Thọ yểu cùng thông là số mạng

Vinh quang phú quí bởi do ta!

Tuổi thọ có ai định chắc được.

- Đã như thế, tôi xin có câu này nói với anh: Cháu nhà này đã 18 tuổi rồi, có mai mối đến cầu thân, anh mắng chửi người ta lại còn đuổi ra khỏi nhà nữa. Việc đó có phải là đợi chừng anh nằm xuống, cháu nó tự đi kiếm chồng à? Từ xưa đến nay trai khôn lấy vợ, gái lớn gả chồng là lệ chung ở đời mà!

Triệu Hải Minh nghe nói, thở dài tiếp:

- Tại hiền đệ không rõ đó thôi! Không phải là ta không muốn gả chồng cho cháu, ngặt vì những người mai mối họ đề cập đến bọn con em chẳng ra gì, xuất thân từ cội nguồn không tốt, bọn họ đều không đúng ý tạ Ý ta muốn tìm cho cháu một tấm chồng giàu nghèo không đáng kể, chỉ cần là người gia giáo, ngũ quan tướng mạo đoan chính, không thích phù hoa là được rồi! Gả nhầm một tên lãng đãng, há chẳng phải làm hại một đời con gái mình sao? Vả lại hôn nhân là việc quan trọng, không nên quá hồ đồ mà thành ân hận.

- Hôm nay tôi đến đây là cũng là vì hôn nhân của cháu đó. Ở ngõ phía Tây nhà tôi có vị Hiếu liêm Lý Văn Phương. Ông ta có một người em ruột là Lý Văn Nguyên, mới nổi tiếng văn học, đi thi có thể trúng Tam nguyên, người ta khen là bậc tài tử. Năm nay cậu ấy mới có 18 tuối, tôi nghĩ người này về sau chắc sẽ đỗ đạt cao.

- Được, ngày mai hiền đệ dẫn Lý Văn Nguyên đến chơi, nhân tiện ta xin một đôi liễn để xem nhân phẩm cậu ta như thế nào?

Triệu Quốc Minh gật đầu đồng ý. Hôm sau cơm sáng xong, Triệu Quốc Minh cùng Lý Văn Nguyên cùng đến, Triệu HảI Minh nhìn thấy quả là người phong thần tiêu sát, khí vũ hiên ngang, ngũ quan thanh tú, phẩm hạnh khác người, Triệu Hải Minh vội mời vào thư phòng tiếp đãi, gia nhân dâng trà, Triệu Hải Minh nói:

- Tôi đã ngưỡng mộ đại danh mà chưa có dịp bái phỏng.

Lý Văn Nguyên nhỏ nhẹ thưa:

- Vãn sinh suốt ngày đọc sách ỏ thư phòng, việc thù tiếp bên ngoài đều do gia huynh định liệu, sự quen biết vãn sinh rất thiếu sót.

Chuyện vãn mấy câu, lại bàn đến thi văn, Lý Văn Nguyên đối đáp rất thông minh, Triệu Hải Minh lấy làm đẹp dạ. Lát sau tiểu đồng mài mực, Triệu Hải Minh xin Lý Văn Nguyên viết cho đôi liễn. Lý Văn Nguyên không từ chối, bèn kê bút viết ngay:

Thư đáo dụng thời phương hận thiểu,

Sự phi kinh quá bất tri nan. 

Dịch:

Sách đến lúc dùng, hiềm chưa đủ,

Việc chẳng mó tay, há dễ tường.

Bút pháp rất thanh tú, Triệu Hải Minh càng quý trọng hơn nữa. Việc xong, nói chuyện trong giây lát, Lý Văn Nguyên xin cáo từ, Triệu Hải Minh đưa tới bên ngoài. Vào tới trong, Triệu Hải Minh dặn Triệu Quốc Minh lo xúc tiến việc hôn nhân. Ba tiếng năm lời giáp mặt, giao kết hôn sự đã xong, bèn đem trà lễ đến vấn danh, hơn nữa tháng sau lại làm trà lễ nghinh hôn, Triệu Hải Minh đưa theo của hồi môn không ít. Sau ngày hôn lễ, vợ chồng Lý Văn Nguyên sống rất hòa thuận. Hơn một năm sau, cũng là lúc Lý Văn Nguyên đi ứng thí. Khi thi xong, Lý Văn Nguyên tin chắc là mình sẽ đậu. Ngờ đâu không cần văn chương cao hơn thiên hạ mà chỉ cần văn chương đúng luật trường thị Sau khi thi tam trường xong, coi lại, tên ngoài bảng hổ, đứng dưới Tôn Sơn! Lý Văn Nguyên buồn quá phát bệnh. Về nhà cứ nói:

- Quan trường không có mắt, văn chương như vậy mà không đậu!

Bịnh mỗi lúc càng nặng thêm, báo hại Ngọc Trinh áo chẳng mở dải, ngày đêm túc trực cận kề. Nào ngờ đại hại khó qua, khác nào:

Trăng tỏ áng che mây vạn lý,

Hoa đẹp dập vùi mưa suốt canh.

Lý Văn Nguyên bị căn bệnh cướp đi giữa sự nghẹn ngào thương tiếc của người vợ trẻ. Triệu Hải Minh nghe báo tin như rơi từ dốc đứng, hai vợ chồng già vội thu xếp đến nhà họ Lý, nhìn thấy thi thể Lý Văn Nguyên, than khóc không ngừng. Vào đến phòng con gái, thấy Triệu Ngọc Trinh đôi mắt ráo hoảnh, Triệu Hải Minh và vợ là Hoàng An thị nói:

- Con ơi, số mệnh con sao khổ thế này, chồng con qua đời sao con không có chút thương tâm nào vậy?

- Thưa cha mẹ, số con quả là hồng nhan bạc mệnh! Hiện con đang có mang đã hơn 6 tháng, giờ đây tuy ruột gan rời rã con cũng không dám khóc, sợ động tới thai nhi mà mang tội bất hiếu. Sau khi sanh ra, nếu là con trai, có thể tiếp nối hương khói cho dòng họ Lý, nếu là con gái thì cũng là chứng tích máu thịt của chồng con.

Nói rồi bật khóc nức nở. Hai vợ chồng Triệu Hải Minh chỉ còn có nước vừa khuyên giải, vừa buồn lòng thương xót thôi. Lý Văn Phương lo rước thầy khai kinh tụng niệm. Qua mấy ngày tang lễ đã xong, Triệu Ngọc Trinh khổ giữ trinh tiết. Ba bốn tháng sau, gần ngày sinh nở, bụng thai động nhiều, bèn cho người mời cha mẹ ruột đến. Lúc lâm bồn có rước mụ đỡ đẻ cẩn thận. Đứa con sanh ra là một bé trai, đặt nhũ danh là: Mạc Lang nhị Theo tục lệ, mỗi khi chồng chết, sương phụ sanh con trai, đều đặt nhủ danh cho đứa bé là Mộ anh nhi, đó là nói trại, gọi đúng phải là Mạc Sanh nhị Triệu thị sau khi sanh con liền dọn ra ở một nhà riêng thủ tiết ba năm. Trẻ hầu không gọi không được tới. Vợ chồng Triệu Hải Minh cũng thường tới lui thăm viếng con gái. Một hôm, Ngọc Trinh nói với cha mẹ:

- Thưa cha mẹ, ngày mai là sinh nhật của đại ca Lý Văn Phương, xin ba má sắm sửa một ít lễ vật chúc mừng, trước là đến chúc thọ, sau nữa là đến nhắc nhở anh ấy quan tâm đến đứa bé côi cút này.

Vợ chồng Triệu Hải Minh gật đầu, nói:

- Để mai chúng ta đến chúc mừng chú ấy.

Ngày kế, Triệu Hải Minh cho người đưa lễ vật: đèn sáp, rượu ngon, đào, bún và một cuộn chúc thọ đến trước, rồi phu nhân ngồi kiệu, viên ngoại cỡi ngựa, bọn tôi hầu theo sau. Trước cổng nhà họ Lý, quang cảnh thật nhộn nhịp, ngựa xe chật ngõ, chẳng có quen nhân dịp cố làm quen. Thực ra Lý Văn Phương là thân sĩ tại địa phương, giàu có lớn lại đỗ Hiếu liêm, cả địa phương ai mà không trọng vọng. Lễ sinh nhật này, cả giám sinh viên, thân hào phú hộ của huyện Côn Sơn đều đến chúc mừng Lý nhân tròn 30 tuổi. Trong nhà đã bày sẵn cỗ bàn để tiếp đãi thân hữu. Vợ chồng Triệu Hải Minh vào bên trong chúc mừng xong, Lý Văn Phương nói:

- Thưa bác, từ ngày em cháu qua đời, lâu nay vì bận nhiều chúng ta chưa rảnh để hàn huyên. Hôm nay sẵn dịp vui vẽ này, đợi tối lại khách khứa về hết, chúng ta sẽ bày tiệc thô sơ để hàn huyên sự thế.

Triệu Hải Minh gật đầu đồng ý. Đến đỏ đèn, khách khứa đã về hết, Lý Văn Phương cho bày một tiệc rượu tại thư phòng cùng Triệu Hải Minh ngồi đối diện lai rai. Chuyện theo ứng rượu càng nồng, phút chốc canh một qua mau. Bỗng từ bên ngoài đi vào một cô gái hầu, trong tay cầm một ngọn đèn tắt ngấm, đứng trước bàn nói:

- Thưa cụ Ông, thưa viên ngoại, không xong rồi! Vừa rồi tôi sợ muốn đứng tim! Hồi nãy cụ bà và bà chủ đang uống rượu bên thư phòng, bảo tụi con đi mời mợ hai (nhị chủ mẫu) lên dự, con vừa lên trước phòng Đông, đối diện với thư phòng trong thì thấy có một bóng đen đứng lù lù ở đó, con sợ hết hồn té chạy đèn đuốc tắt mất!

Lý Văn Phương và Triệu Hải Minh nghe nói, trong lòng lấy làm kỳ lạ, bèn đốt lồng đèn lên, hai người cùng lên cửa Đông viện bảo tớ gái gọi cửa. Cô gái kêu:

- Mợ hai ơi, mở cửa!

Bên trong có tiếng bước chân đi lại rồi cửa mở, một bóng đàn ông trần trục chạy vọt ra…
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2014(Xem: 4814)
Hai kẻ thù đã lâu đời, hai chàng trai trẻ nhất thuộc hai dòng tộc võ sĩ đạo lâm chiến, đang rình rập nhau trong vùng hẻm núi dưới mé sông trong lúc bà con dòng họ đôi bên đang chém giết lẫn nhau trên phía đồng bằng. Mối hận thù nẩy sinh giữa hai chàng sâu đậm đến độ như muốn lộn mửa, và khi trông thấy nhau, mỗi chàng đều nguyện cầu: “Lạy Trời nếu con phải chết, xin cho con gây ra tử thương cho kẻ oán thù trước khi con lìa đời.”
18/10/2014(Xem: 43921)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4493)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4414)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4329)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6456)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4754)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4172)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 25603)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 24440)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]