Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

23. Tìm diệu dược chọc cười bọn gia đinh

15/10/201821:12(Xem: 7581)
23. Tìm diệu dược chọc cười bọn gia đinh

te dien hoa thuong


Tế Công Hoạt Phật
(Tế Điên Hòa Thượng)
Đồ Khùng dịch
(bút hiệu của HT Thích Minh Cảnh)

***

Chương 23:
Tìm diệu dược chọc cười bọn gia đinh

Nói liễn đối tài kinh Tần thừa tướng

Có thơ rằng:

Đỗ Lăng hàn thực cỏ còn xanh
Trường tụng Kim Cang Bát Nhã kinh

Mưa lạnh còn vang hồn sĩ tư?

Chiêm bao mơ đến Phụng Hoàng đình.

Lý Hoài Xuân đến trước Tế Điên nói:

- Thưa sư phụ, đã lâu không gặp, đệ tử có lời chào. Hôm nay Tần công tử mắc chứng bệnh kỳ lạ, đệ tử tiến cử sư phụ trị bệnh cho công tử. Bất luận có việc gì không vừa ý, xin sư phụ nể tình đệ tử mà bỏ qua cho.

Tế Điên nói:

- Được, này ông Lý Hoài Xuân, ông muốn ta trị bệnh cho người mà lại để xiềng xích như vầy sao?

Lý Hoài Xuân nghe thế, nói:

- Được, thưa Tần đại nhân, xin ngài cho người triệt bỏ xiềng xích cho Thánh tăng đi.

Thừa tướng lập tức cho cởi bỏ xiềng xích cho Tế Điên.

Lý Hoài Xuân nói:

- Thưa sư phụ, người có điều gì bận tâm không? Chúng ta đi nhé!

Tế Điên nói:

- Lý Hoài Xuân ơi, sư phụ, sư huynh, sư đệ ta bị xiềng trói ở đây, ta còn lòng dạ nào đi trị bệnh cho được?

Thừa tướng nghe nói lập tức cho thả chúng Tăng trở về chùa. Chúng Tăng đi về rồi, Lý Hoài Xuân nói:

- Sư phụ Ơi, người chắc không còn phải bận tậm điều gì nữa, thôi ta đi nhé!

Tế Điên nói:

- Lý Hoài Xuân ơi, binh vây chùa Linh Ẩn, dỡ phá lầu Đại Bi, ta trị bệnh mà lòng lo nặng trĩu làm sao ta đi được?

Thừa tướng biết ý Hòa thượng muốn triệt binh vây chùa, liền sai thủ hạ đi truyền tướng dụ thâu hồi lệnh dỡ lầu và triệu hồi binh lính vây chùa.

Lý Hoài Xuân nói:

- Bạch Thánh tăng, chắc Ngài không có điều chi bận bịu nữa, thôi chúng ta đi nhé!

Tế Điên nói:

- Ừ, thì đi. Rồi đứng dậy nói:

Làm lành thêm đức phước

Gây dữ gặp tai ương

Bần tăng trừ ma nghiệt

Thế gian mắt khó lường.

Thấy Tế Điên nói cười tự nhiên, Thừa tướng nghĩ: "Ông Hòa thượng này phóng khoáng không câu nệ, chắc là trị lành con tạ Ta nếu không dỡ phá lầu Đại Bi sẽ bị người ta cười chê biết bao! Ông ấy đánh quản gia mình, mình xiềng trói ông ấy lại. Chừng ông ấy trị lành bệnh cho con mình rồi, mình cũng dỡ lầu Đại Bi mới được".

Tế Điên ở phía sau cười ha hả nói:

- Được, được, thiện tai! Thiện tai! Để Hòa thượng ta xướng một bài sơn ca cho đại nhân nghe nhé!

Mũ đen phơ phất

Ngôi nhất phẩm ai tày

Áo tía bào xanh

Vị tột cao chưa thỏa ý

Dò sông biển ngàn trùng

Khó đo lòng nham hiểm

Chim thúy trau lông cánh, để giắt đẹp đầu ai

Lợn trong chuồng béo mập, chỉ ngon sướng miệng người.

Vòi vọi non cao chim kết tô?

Nào quản góc gai có kẻ tìm

Đất bằng rộng rãi thênh thang

Tiêu dao tự tại mấy người rõ thông.

Nghe hát sơn ca xong, Thừa tướng gật đầu thầm nhận là Hòa thượng đã biết rõ cả. Mọi người đồng đi đến thơ phòng của Tần Hằng ở hoa viên phía Tây. Đến nơi, nghe Tần Hằng ở bên trong rên rỉ không thôi.

Tế Điên bước vào phòng nói:

- Ôi chao, cái đầu lớn quá tay vậy, không xong rồi!

Lý Hoài Xuân nghe nói, thất kinh nghĩ thầm: "Thế này thì hỏng mất! Mình thỉnh ổng lại, ổng lại trị không được. Thiệt bậy quá!"

Thừa tướng cũng thất kinh, lật đật hỏi:

- Bệnh này có thể trị được không, Hòa thượng?

Tế Điên nói:

- Có thể trị được chứ. Không hề chi! Đây là loại bệnh sơ sài. Cả đến các loại đầu óc ta đều trị được ráo. Bệnh này có tên gọi là "Đại đầu ung".

Nói rồi, đưa tay vào túi sờ soạng nột lát, rồi nói:

- Cha chả! Không xong! Thuốc của ta rớt đâu mất rồi.

Thừa tướng hỏi: Thuốc gì thế?

Tế Điên đáp: Thuốc trị bệnh đại đầu ung.

Thừa tướng nghe nói, ngạc nhiên hỏi:

- Hòa thượng đến tướng phủ này, làm sao biết con tôi mắc bệnh đại đầu ung mà mang thuốc?

Tế Điên đáp:

- Không phải vậy đâu. Nhân vì có một vị Vương viên ngoại, ông ta cũng có một đứa con mắc bệnh giống như vầy. Hễ mắc nhằm bệnh này thì chắc chắn không phải là người tốt, thế nào cũng có hành hung tác ác chi đây, như là cưỡng chiếm vợ trẻ gái tơ nhà người mới bị như vậy. Con ông Vương viên ngoại bất hảo nên mang chứng đại đầu ung, mời ta đến trị bệnh. Ta mang theo thuốc vừa định đi, kế bị tướng gia phái người bắt Hòa thượng ta trói lại. Lúc ta đến tướng phủ, mò kiếm hãy còn mà, bây giờ rờ lại sao đâu mất.

Thừa tướng dặn:

- Bây đâu! Mau ra mò kiếm thuốc cho Hòa thượng!

Bọn gia nhân hỏi:

- Thưa Hòa thượng, thuốc của Ngài là thuốc hoàn hay thuốc miếng? Xin bảo cho bọn tôi biết mới kiếm được.

Tế Điên đáp:

- Nó là thuốc hoàn, có lẫn hột nho nhỏ như gạo, màu da như da đất, cũng không có bao gói chi.

Bọn gia nhân nói:

- Để bọn tôi tìm cho.

Tế Điên nói:

- Thứ bệnh của công tử đây có thể có biến chuyển. Nếu biến chuyển tới mức sọ đầu lớn quá thì không cách gì trị được.

Thừa tướng hỏi:

- Vậy thì làm sao?

Tế Điên nói:

- Tôi phải ăn no rồi mới trị được, nếu không ăn no thì càng gắng trị, bệnh càng chuyển biến, uổng công thôi!

Thừa tướng nghe nói, sợ con cưng bị bệnh biến đầu to thêm, lật đật thét bảo gia nhân dọn rượu cho mau. Dọn ba bàn tiệc trên sảnh để mời Hòa thượng lên uống rượu rồi trị bệnh cho công tử.

Lý Hòa Xuân cùng Tế Điên lên đại sảnh. Tới nơi thấy tiệc rượi sẵn sàng, Tế Điên chẳng khiêm nhường chi, đến thẳng ghế giữa đầu bàn ngồi xuống. Thừa tướng thấy vậy trong lòng có ý không vui, thầm nghĩ: "Ông Hòa thượng này cũng là người có chút lai lịch đây, như ta nay là Tể tướng đương triều mà ông vẫn chiếm ghế thượng tọa của ta không nể nang gì hết". Thừa tướng không cách nào hơn, đành ngồi và bồi tiếp, mời Lý Hoài Xuân ngồi ở ghế phía Đông vào tiệc.

Rượu quá ba tuần, Tế Điên nói:

- Thưa đại nhân, tiệc rượu này buồn quá, uống không vô.

Thừa tướng hỏi:

- Theo ý Hòa thượng thì phải thế nào, uống rượu mới không buồn tẻ?

Tế Điên nói:

- Chẳng hạn như: Đưa vật đoán, ra tửu lệnh, đối chữ, phê ý chữ, đều có thể giải buồn được.

Thừa tướng hỏi:

- Này Hòa thượng, ông cũng biết chữ sao?

Tế Điên đáp:

- Nói là biết chữ thì không dám, nhưng cũng hơi biên biết một vài.

Thừa tướng hỏi:

- Ông muốn ra tửu lệnh là phạt uống rượu hay ăn thua vật chi?

Tế Điên nói:

- Chẳng cần phạt rượu làm chị Đại nhân cứ ra một câu đối, nếu Hòa thượng ta đối được, ta ăn đại nhân một vạn lượng bạc. Bộ đại nhân tưởng ta là một Hòa thượng nghèo nếu bị thua rồi không có bạc trả sao? Được rồi, nếu ta thua, ta đem lầu Đại Bi ra chung cho đại nhân đó.

Thừa tướng nghe vậy trong bụng khoái tỉ, nói:

- Này Hòa thượng, để ta thử văn lý của ông trước, nếu ông quả có tài học, chúng ta sẽ cùng nhau đánh cuộc nhé. Ta ra hai chữ trước cho ông đối nhé!

Tế Điên nói: Đại nhân cứ ra đi.

Thừa tướng nói: U trai (phòng tối).

Tế Điên đối: Mao lư (nhà tranh).

Thừa tướng gật đầu tiếp: Khai song (mở cửa sổ).

Tế Điên đối ngay: Bế hộ (đóng cửa lớn).

Thừa tướng: Độc thư (đọc sách).

Tế Điên: Tả tự (viết chữ).

Thừa tướng nói: Hòa thượng ơi, ông thua rồi, sáu chữ của ta ráp lại thành một câu như vầy:

U trai khai song độc thư.

(phòng kín (tối) mở cửa đọc sách).

Tế Điên nói: Sáu chữ của ta ráp lại cũng thành một câu vậy. Đây:

Mao lư bế hộ tả tự.

(Nhà tranh đóng cửa lớn viết chữ)

Thực ra, câu nói của Tế Điên lại hàm ý rất thô tục.

Thừa tướng nói: Hòa thượng đừng đùa cợt chứ. Ta sẽ ra cho ông một câu đối theo pháp chiết tự, nếu ông đối được, ta sẽ thua ông một vạn lượng bạc.

Tế Điên đáp: Cũng được.

Thừa tướng ra:

- Tây tốt thị cá túy, mục thùy thị cá thụy, Lý Thái Bạch hoài bảo tửu đàm tại sơn pha thụy. Bất biểu tha thị túy? Bất biểu tha thị thụy?

(Nghĩa: chữ tây + chữ tốt là chữ túy, chữ mục + chữ thùy là chữ thụy. Lý Bạch ôm trong lòng bầu rượu gục bên sườn núi. Không biết đó là ông đang say (túy) hay ông đang ngủ (thụy)?)

Tế điên hớp một hớp rượu, cười khà khà rồi nói:

- Chà, câu đối này hay dữ đa, để Hòa thượng ta đối thử coi:

Nguyệt trường thị cá trướng, nguyệt bán thị cá bạn, Tần phu nhân hoài bảo đại thổ tại mãn viện cuồng. Bất hiểu tha thị trướng, bất hiểu tha thị bạn?

(Nghĩa: Chữ nguyệt + chữ trường là chữ trướng, chữ nguyệt + chữ bán là chữ bạn, Tần phu nhân mang bụng to đi đủng đỉnh khắp nhà. Không biết bà ta sưng bụng (trướng) hay bà ta mập (bạn)?).

Thừa tướng xua tay lia lịa, nói:

- Hòa thượng đừng khôi hài chớ!

Và nghĩ thầm: "Ông Hòa thượng này thật dễ ghét, ta lại ra một câu đối khác để cho ông ta biết Thừa tướng ta là bậc văn chương đầy bụng, thốt lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu". Bèn ra:

Phật tổ giải nhung điều, khổn Hòa thượng, khấu điên tăng.

(Nghĩa: Phật tổ mở dải nhung, trói Hòa thượng, đánh điên tăng).

Tế Điên nói:

- Chao ôi, câu đối của Thừa tướng thiệt hay quá. Hòa thượng ta tài sơ học kém…

Thừa tướng nói:

- Ông đối đi, nếu mà đối được ta thua thêm một vạn lượng bạc nữa, còn đối không được ta sẽ dỡ lầu Đại Bi nhé.

Tế Điên đáp: Được.

Hớp một ly rượu rồi nói:

- Câu đối của ta:

Thiên tử đẩu ngọc tỏa, nã đại thần, cầm Thừa tướng

(Nghĩa: Thiên tử giũ dải ấn, bắt đại thần, giam Thừa tướng).

- Ta lại ăn thêm một vạn lượng bạc nữa nhé!

Thừa tướng nghĩ: "Hòa thượng này là bậc kỳ tài, mình đối chữ không thắng ông ta rồi". Bèn nói:

- Này Hòa thượng, thôi không đối chữ nữa, bây giờ ra tửu lệnh đi.

Tế Điên nói:

- Ra tửu lệnh thì ra tửu lệnh chớ, mà đại nhân đề nghị thì đại nhân ra đi.

Thừa tướng nói:

- Ta muốn nói đến hai người xưa, hai vật kiện, hai người xưa đó thích thứ rượu như nhau, nhằm trên hai sự kiện khác nhau, một người sống một người chết. Ông nói được kể là ăn, còn nói không được kể là thua.

Tế Điên nói: Thì đại nhân nói trước đi.

Thừa tướng nói: Này Hòa thượng, bây giờ ta nói đây, ông nghe cho kỹ đi nhé:

Viễn khán nhứt tòa lâu, cận khán nhứt chích ngâu (ngưu), Lữ Đồng Tân túy ngọa Nhạc Dương lâu, Tôn Tẩn giá quải kỵ ngâu.

(Nghĩa: Nhìn xa một tòa lầu, thấy gần là một con trâu. Lữ Đồng Tân say nằm ở Nhạc Dương lâu, Tôn Tẩn gác tó cưỡi mình trâu).

Tế Điên nói: Ta cũng đọc đây:

Viễn khán nhứt tòa lư, cận khán nhứt vĩ ngư.

(Nghĩa: Nhìn xa một nhà lá, thấy gần một chú cá. Trương Phi đến nhà lá, Kính Đức ngồi câu cá).

Thừa tướng nói:

- Này Hòa thượng, ông thua một vạn lượng bạc rồi đấy nhé! Trương Phi cố lư nghĩa là ba lần chầu nhà tranh, chuyện đó coi như được đi. Chớ còn Kính Đức điếu ngư thì cá làm sao lại có chân được?

Tế Điên nói: Vậy chớ giáp ngư (cá ngựa) không phải có bốn chân là gì?

Thừa tướng tịt luôn, lại thua thêm một vạn lượng bạc. Thừa tướng thầm nghĩ: "Thiệt mình không có cách gì thắng được ông ta được". Bèn bước ra ngoài kêu Tần An bảo:

- Ngươi lấy một hộp bánh tổ đứng bên ngoài chờ ta kêu Hòa thượng đoán. Nếu ông đoán trong hộp không có vật chi thì ngươi để cái bánh tổ vào. Còn như ông ấy đoán trong hộp có vật thì ngươi đem cái hộp không vào.

Tần An gật đầu. Thừa tướng trở vào bên trong, nói:

- Này Hòa thượng, ta lâu nay nghe nói ông là người đoán được mọi việc, khéo biết các việc quá khứ vị lai. Ta đã bảo gia nhân đem cái hộp ra cho ông đoán xem trong hộp có đồ vật gì không. Nếu ông đoán đúng thì theo lệ cũ ta thua ông một vạn lượng bạc nữa, còn như ông đoán sai thì ta cho dỡ lầu Đại Bi của ông đa.

Tế Điên nói:

- Vậy thì chuyến này đại nhân thua gấp rồi.

Thừa tướng nói:

- Ta trái lại không chắc thua gấp đâu mà muốn thử tài ông đó.

Tế Điên nốc một ly rượu, định thần rồi lại nói:

- Chủ ý của đại nhân cao quá, món đồ đem đối cũng thật rắc rối, bây giờ trong hộp không có chi.

Câu thứ ba, Tế Điên cố ý nói dài tiếng ra.

Tần An nghe nói trong hộp không có món chi liền lấy cái bánh để vào. Đi vào được vài bước lại nghe Tế Điên nói:

- Bên trong chỉ để cái bánh.

Tần An nghe nói rất đỗi ngạc nhiên, rốt cuộc lại bị Hòa thượng đoán trúng.

Thừa tướng nghĩ thầm: "Bây giờ cũng khuya rồi, ta cũng không nên tranh đối làm chi, mà lo trị bệnh cho con ta mới phải". Nghĩ rồi bèn nói:

- Hòa thượng ơi, ông uống rượu xong chưa, mời dùng cơm để rồi còn đi trị bệnh nữa chớ.

Tế Điên nói:

- Phần ta ăn uống đã khá no rồi. À, à, còn viên thuốc của ta các ngươi đã tìm thấy chưa?

Bọn gia nhân nói:

- Bọn ta bò trên mặt đất, lấy mũi hít cùng hết mà chẳng thấy nó đâu cả.

Tế Điên thò tay vào túi móc ra một gói, nói:

- Ta hãy còn một ít dược liệu mà chưa đủ, phải thêm vào hai vị nữa mới đủ lượng.

Thừa tướng xem thử, bên ngoài viết chữ tháu quá, coi không ra. Mở ra xem thấy bên trong có chất bột trắng trắng. Lý Hoài Xuân ghé mắt nhìn biết đó là bột mì để ăn, mới hỏi:

- Thưa Hòa thượng, vị thuốc này tên là gì vậy?

Tế Điên đáp: Thuốc này tên là Đa - ma - đa - la - đa - ba - la.

Thừa tướng hỏi: Cần phải thêm vị nào nữa?

Tế Điên đáp: Cần phải có chu sa 1 lượng, bột mì 4 lượng, chậu 1 cái, nước sôi 1 thùng, lại dùng bàn chải 1 cái.

Thừa tướng dặn bọn gia nhân chiếu theo đó lo liệu cho mau. Giây lát, gia nhân thưa rằng tất cả các thức cần dùng đều đầy đủ. Tế Điên mới buông chén đũa xuống, theo Thừa tướng cùng thẳng đến thư trai…
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2014(Xem: 4675)
Hai kẻ thù đã lâu đời, hai chàng trai trẻ nhất thuộc hai dòng tộc võ sĩ đạo lâm chiến, đang rình rập nhau trong vùng hẻm núi dưới mé sông trong lúc bà con dòng họ đôi bên đang chém giết lẫn nhau trên phía đồng bằng. Mối hận thù nẩy sinh giữa hai chàng sâu đậm đến độ như muốn lộn mửa, và khi trông thấy nhau, mỗi chàng đều nguyện cầu: “Lạy Trời nếu con phải chết, xin cho con gây ra tử thương cho kẻ oán thù trước khi con lìa đời.”
18/10/2014(Xem: 43798)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4395)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4343)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4249)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6356)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4640)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4056)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 25018)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 24063)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]