Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

105. Luận thị phi, khuyên phá cân rỗng ruột

19/10/201812:19(Xem: 6740)
105. Luận thị phi, khuyên phá cân rỗng ruột

te dien hoa thuong


Tế Công Hoạt Phật
(Tế Điên Hòa Thượng)
Đồ Khùng dịch
(bút hiệu của HT Thích Minh Cảnh)

***

Chương 105:
Luận thị phi, khuyên phá cân rỗng ruột

Nói quả nhân, khéo độ Triệu Đức Phương

Khi Tế Điên vào tới thư phòng, lão viên ngoại hỏi:

- Đại sư phụ Ở ngôi bảo sát nào?

- Ta ở chùa Linh Ẩn bên Tây Hồ, tên là thượng Đạo hạ Tế, mà người ta thường gọi là Tế Điên đó! Còn lão viên ngoại họ tên là chi?

- Tôi họ Triệu tên là Đức Phương. Vừa rồi nghe gia nhân nói Thánh tăng có diệu dược giục đẻ, xin Thánh tăng từ bi ban chọ Tôi xin hết lòng hậu tạ.

- Ta có viên thuốc này, ông cầm lấy đem vào dùng nước âm dương hòa tan cho uống thì sản phụ sẽ đẻ ngay thôi.

Triệu Đức Phương cầm viên thuốc đưa cho gia nhân và dặn dò đúng như chỉ dẫn. Giây lát, bà vú chạy ra nói:

- Lão viên ngoại có tin mừng rồi! Thuốc uống vào lập tức sanh ngay, mà lại sanh công tử nữa.

Triệu Đức Phương nghe nói rất vui mừng, khen:

- Thánh tăng thật là bậc thần tiên!

Rồi ra lệnh sửa soạn tiệc rượu. Tế Điên nói:

- Có hai vị Ban đầu cùng đi với Hòa thượng tạ Họ đang đứng chờ ngoài cửa. 

Lão viên ngoại nghe nói, lật đật sai gia nhân mời hai vị Sài, Đỗ vào. Tiệc rượu dọn xong, mọi người cùng ngồi vào bàn ăn uống. Triệu Đức Phương nói:

- Tôi có một việc chưa được rõ, xin Thánh tăng chỉ rõ cho.

- Việc gì thế?

- Không dám dấu Thánh tăng, đương sơ tôi chỉ có một thân một mình, xuất thân nghèo khó, tay trắng gây dựng cơ nghiệp. Do có sự dối gạt mà được gia nghiệp như thế này. Năm ngoái, vào ngày sinh nhật lục tuần, tôi kêu ba đứa con trai và ba đứa con dâu đến nói: - Con ơi! Cha lập nên sự nghiệp này chính là nhờ cái cân rỗng ruột. Khi mua vào có thể mua 20 lượng 1 cân, mà khi bán ra chỉ bán 1 cân có 14 lượng. Do trong cán cân có thủy ngân. Trước đây cha mua mấy ngàn cân bông vải, mỗi cân dôi ra 4 lượng, đến nỗi người bán bông vải bị thâm vốn tức mình sanh bịnh thương hàn mà chết. Vụ này cha thấy trong lòng hổ thẹn. Hiện nay con cháu đầy nhà, từ đây cha không làm chuyện thất đức thế nữa. Cái cân ấy bây giờ đã dẹp bỏ, tôi tính cải ác hướng thiện. Dè đâu trời xanh không có mắt, cân rỗng ruột dẹp chưa được một tháng thì đứa con trai lớn chết đi, cô dâu cả cải giá. Chuyện đó chưa xong, đứa con trai kế cũng chết, vợ nó cũng bắt chước chị cả nó. Chưa đầy hai tháng sau, đứa con thứ ba của tôi cũng chết. Vợ nó mang bầu chưa cải giá! Bạch thánh tăng! Ngài nghĩ xem đó có phải là:

"Sửa cầu đắp lộ, đui hai mắt

Cướp của giết người, cháu con đông"

hay không? Tại sao làm thiện mà lại bị ác báo như thế?

Tế Điên cười hà hà nói:

- Ông không cần phải nghĩ quẩn làm chi! Để ta nói cho ông biết: Thằng con lớn của ông nguyên là người khách buôn dược liệu, bị Ông gian lận phá sản mà chết, hắn đầu thai làm con cả của ông để đòi nợ đó; còn thằng con thứ hai đến phá gia sản của ông; thằng con thứ ba sẽ gây đại họa bằng trời, đến chừng tuổi già, nó sẽ bỏ cho ông chết đói! Chỉ vì ông có tâm cải ác hướng thiện nên trời xanh có mắt bắt hai thằng phá gia chi tử đó về. Ông bây giờ kể như người làm lành bậc nhất. Quả phụ thất tiết đâu bằng lão kỷ hoàn lương!

Triệu Đức Phương nghe nói khác nào chiêm bao mới tỉnh, nói;

- Đa tạ Thánh tăng chỉ giáo. Nay tôi được một đứa cháu trai, có thể nhờ cậy được không?

- Đứa cháu này sẽ làm rạng rỡ tông môn, sáng rực gia phong của ông đấy nhé!

- Thế thì hay quá! Xin kính mời Thánh tăng ly rượu.

Ăn uống xong trời đã tối, Tế Điên cùng hai vị Sài, Đỗ nghỉ lại đó. Sáng hôm sau, Tế Điên thức dậy đòi đi cầu, rồi từ nhà Triệu viên ngoại đi đến ngã tư nội thành huyện Thường Sơn. Bên đường phía Bắc có một tòa lầu trước cửa đứng lố nhố 20 người chen chúc. Tế Điên hỏi:

- Các vị làm gì đứng ở đây thế?

Có mấy người đáp:

- Bọn tôi chờ xem bệnh. Hứa tiên sinh ở đây là một danh y, mỗi ngày ông ta chỉ chẩn trị 20 người thôi. Qúa số không nhận xem, phải đến sớm mới được nhận. Bọn tôi đến sớm để chờ lấy số trong khi tiên sinh hãy còn chưa thức.

Tế Điên nói:

- Phải đó, để ta đi kêu ổng dậy.

Nói rồi xăng xắi đi đến cánh cửa kêu lớn:

- Có bệnh coi mạch đây! Chưởng quỹ chưa dậy à?

Bên trong cổng, một vị quản gia đi ra nói:

- Này Hòa thượng, ông đừng nói bậy bạ. Coi bệnh làm gì có chưởng quỹ?

- Vậy có phổ ky hả?

- Cũng không có phổ ky, ở đây chỉ có tiên sinh thôi.

- Vậy kêu tiên sinh dậy đi. Ta muốn xem bệnh.

Nói tới đó thì từ bên trong vị tiên sinh bước ra. Tế Điên nhìn thấy vị tiên sinh này đầu đội khăn văn sinh màu thúy lam, mình mặc áo văn sinh cùng màu, lưng cột dây tơ, chân mang giày đế cao. Vị tiên sinh này vốn là thầy thuốc ở địa phương tên là Hứa Cảnh Thôi. Sáng nay vừa mới thức dậy, nghe bên ngoài có tiếng kêu khám bệnh, hỏi chưởng quỹ ồn ào, bèn bước ra xem. Hứa Cảnh Thôi bước ra thấy có một ông Hòa thượng kiếc đứng sẵn, bèn hỏi:

- Hòa thượng cần việc chi?

- Ta muốn khám bệnh.

Hứa tiên sinh nghe nói nghĩ thầm: "Cứ khám bệnh cho ông ta là xong". Bèn đưa Tế Điên vào phòng, Tế Điên nói:

- Cả người ta đau ngứa, cặp đùi cứng ngắc khó chịu hết sức.

Hứa tiên sinh nói:

- Đưa tôi chẩn mạch thử xem.

Tế Điên bèn đưa giò ra. Hứa tiên sinh bảo:

- Đưa tay ra kia mà!

- Ta tưởng là coi mạch trên giò chớ!

Nói rồi đưa tay ra bắt mạch. Tiên sinh nói:

- Tôi chẩn mạch ở cạnh bàn tay kia.

- Chớ không phải chẩn mạch ở lòng bàn tay sao?

Hứa tiên sinh chẩn mạch hồi lâu, nói:

- Hòa thượng ơi, ông không có bệnh gì hết mà!

- Có bện h chớ!

- Tôi xem mạch của ông sáu bộ bình hòa thì đâu có bệnh gì.

- Ta có bệnh chớ! Chẳng những ta có bệnh mà ông cũng có bệnh nữa! Bịnh của ông đây nếu ta không trị thì không hết được đâu.

- Tôi có bệnh gì đâu?

- Âm thai, quỷ thai lớn tổ bố trong bụng ông đó.

- Hòa thượng đừng nói bậy nói bạ chớ.

- Nói bậy hả? Ta với ông kéo nhau lên quan xem thử.

Nói rồi Tế Điên nắm dây lưng của Hứa tiên sinh lôi tuột ra ngoài. Ai nấy cản lại, hỏi:

- Chuyện gì mà kéo lên quan thế?

Tế Điên đáp:

- Mấy người đừng có xía vô.

Nói rồi kéo đi, ai cản cũng không được. Tế Điên kéo thẳng một mạch đến huyện Thường Sơn. Khi đến cổng huyện, Tế Điên hô to:

- Âm thiên đại lão gia! Tình thiên đại lão gia ơi! Oan uổng cho tôi lắm mà.

Các quan nhơn đang muốn cản lại, quan huyện nhìn ra thấy Tế Điên bèn dặn bảo đưa Tôn Khang thị ra ngoài rồi đứng dậy, nói:

- Xin mời Thánh tăng ngồi.

Quan huyện cũng có quen biết với Hứa Cảnh Thôi vì ông ta có đến nha môn khám bệnh. Quan huyện hỏi:

- Bạch Thánh tăng! Ngài cùng Hứa tiên sinh đến đây có việc chi?

Tế Điên đáp:

- Lão gia có hỏi đến ta xin thưa: Ngày hôm qua đang ở nhà Triệu Đức Phương, ta bị bệnh. Triệu viên ngoại thấy ta bị bệnh bèn bảo mời danh y Hứa Cảnh Thôi đến khám bệnh cho tạ Nhưng mà ông ấy đòi tiền xe quá đắt, bước ra cửa phải 6 điếu, đi đến đầu làng phải 12 điếu, đi qua 5 dặm đường phải 24 điếu. Ta bảo: Đắt quá! Thôi, để ta tự đi vậy. Sáng sớm hôm sau, Triệu viên ngoại đưa cho ta 50 lượng bạc, từ Triệu gia trang ta đi hơn 20 dặm đường mới đến nhà Hứa tiên sinh để chẩn mạch. Ông ấy hỏi ta: Có tiền không? Ta đáp: Có tiền đây. Rồi móc 50 lượng ra để trên bàn. Ông ấy gom tiền đút vào túi áo rồi bảo ta: Nộp tiền cho ông ấy là hết bệnh ngay, khỏi phải uống thuốc. Ông ấy bảo ta về đi, ta đòi tiền lại, ông ấy không chịu trả, nhơn đó mà ta níu ông ấy đến quan đây.

Quan huyện nghe nói cho là lạ lùng hết sức, bèn hỏi:

- Hứa Cảnh Thôi! tại sao ông dám gạt tiền Thánh tăng như vậy?

Hứa Cảnh Thôi đáp:

Bẩm lão gia! Y sinh nào dám vô lễ như vậy. Tôi nguyên việc nhà quá bận rộn nên dậy hơi trễ. Vừa mới thức dậy nghe bên ngoài có người kêu lớn, tôi bước ra xem thì gặp vị Hòa thượng này. Ông ấy kêu tôi khám bệnh. Tôi khám thấy ông không có bệnh gì cả, nhưng ông lại nói tôi có bệnh, có một cục âm thai, quỷ thai tổ bố ở trong bụng. Nói rồi ông ta kéo tôi lên quan. Chớ tôi có gạt tiền bạc gì của ông đâu!

Tế Điên nói:

- Ngươi đừng có nói trớ! Vậy chớ cái gì giấu trong lòng ngươi đó? Nếu lão gia không tin thì bảo hắn mở dây lưng giũ giũ thử xem!

Quan huyện hỏi;

- Này Hứa Cảnh Thôi! Trong lưng ngươi có tiền không?

- Bẩm lão gia, không có!

- Nếu không có thì ngươi cởi thắt lưng giũ thử xem!

Hứa Cảnh Thôi mở cởi dây tơ ra, giũ mạnh, quả nhiên rơi ra trên đất một cuộn giấy. Hứa Cảnh Thôi định lượm lấy, nào ngờ Tế Điên nhanh tay lượm trước đưa cho quan huyện nói:

- Lão gia xem thử.

Quan huyện cầm cuộn giấy mở ra xem, thấy tuồng chữ viết tháo, đề là:

Lôi Minh, Trần Lượng kẻ ác tâm

Cấu kết quản giao chúng lục lâm

Việc trước phá lao cùng cướp ngục.

Cứu thoát Uẩn Phương, chúng dự phần.

Quan huyện xem rồi hỏi:

- Này Hứa Cảnh Thôi! Đây là tờ giấy gì, ở đâu ngươi có thế?

- Bẩm lão gia, tôi lượm.

- Mới sáng sớm mà ngươi lượm ở đâu vậy?

- Bẩm lão, gia tôi lượm ở trong viện.

- Lượm sao mà khéo thế!

Tế Điên nói:

- Xin lão gia cho kêu Tôn Khang thị lên.

Lập tức quan Tri huyện cho người đòi Tôn Khang thị đến công đường, Khang thị hỏi

- Hứa hiền đệ! Chú cũng đến đây à?

Hứa Cảnh Thôi hỏi:

- Tẩu tẩu! Sao chị lại ở đây?

Quan huyện hỏi:

- Này Tôn Khang thị! Ngươi có quen biết với Hứa tiên sinh này ư?

Tôn Khang thị đáp:

- Bẩm lão gia! Khi còn sống, chồng tôi mở tiệm bán thuốc, có kết làm anh em với chú đây. Khi chồng tôi bịnh nặng, chú đây chữa trị chọ Đến lúc chồng tôi qua đời có chú ấy giúp đỡ lo việc chôn cất. Sau khi mai táng xong, tôi mới nói với chú ấy: - Nhà tôi góa bụa nhiều tiếng thị phi, nếu có việc gì cần tôi sẽ cho người đến mời. Còn nếu không, chú khỏi phải đến nữa. Từ ấy chú ấy không đến nhà tôi nữa. Nhưng trước sau vẫn là chỗ quen biết.

Tế Điên lại nói:

- Hãy đưa Tôn Nhị Hổ lên hầu đi.

Khi Tôn Nhị Hổ lên công đường, hỏi Hứa Cảnh Thôi:

- Hứa đại thúc cũng đến đây à?

Quan huyện hỏi:

- Này Tôn Nhị Hổ! Ông ta kết làm anh em với anh của ngươi, tại sao ngươi kêu ông ta là đại thúc?

Tôn Nhị Hổ thưa:

- Bẩm lão gia, đúng đấy! Trước đây tôi cùng Hứa tiên sinh luận là anh em, nhưng vì tôi hay đến mượn tiền ông ấy, mượn 10 điếu cho 10 điếu, mượn 8 ngàn cho 8 ngàn, tôi không dám coi là anh em nữa nên gọi là đại thúc.

Tế Điên nói:

- Cho đưa họ ra ngoài hết đi.

Quan huyện lập tức cho đưa mọi người ra khỏi công đường. Tế Điên nói:

- Chỉ đưa một mình Tôn Nhị Hổ lên thôi.

Sau khi Tôn Nhị Hổ vào lại công đường, Tế Điên nói với Tôn Nhị Hổ:

- Này Tôn Nhị Hổ! Vừa rồi Hứa Cảnh Thôi đã nói hết rồi. Phần ngươi có chịu cung khai chăng? Lão gia sẽ cho người kẹp ngươi để khảo tra đó.

Quan Tri huyện nghĩ thầm: "Thế thì hay quá! Hòa thượng đã phân xử cho mình đây!". Nghĩ rồi lập tức cho người bày kềm kẹp ra để khảo tra Tôn Nhị Hổ. Tôn Nhị Hổ lật đật thưa:

- Lão gia không cần phải động hình. Hứa Cảnh Thôi đã nói hết, tôi cũng không dấu làm chi.

Quan huyện hỏi:

- Ngươi cứ tình thật khai ngay, ta sẽ châm chước.

Tôn Nhị Hổ từ đầu tới đuôi thuật qua một lượt. Quan huyện nghe nói mới vỡ lẽ.
 Chương Trước DS Chương Báo LỗiChương Sau 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2014(Xem: 4815)
Hai kẻ thù đã lâu đời, hai chàng trai trẻ nhất thuộc hai dòng tộc võ sĩ đạo lâm chiến, đang rình rập nhau trong vùng hẻm núi dưới mé sông trong lúc bà con dòng họ đôi bên đang chém giết lẫn nhau trên phía đồng bằng. Mối hận thù nẩy sinh giữa hai chàng sâu đậm đến độ như muốn lộn mửa, và khi trông thấy nhau, mỗi chàng đều nguyện cầu: “Lạy Trời nếu con phải chết, xin cho con gây ra tử thương cho kẻ oán thù trước khi con lìa đời.”
18/10/2014(Xem: 43923)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4493)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4414)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4329)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6456)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4754)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4172)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 25605)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 24440)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]