Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

160. Lương Hưng Lang ngàn lượng xem ẩn thi

31/10/201818:22(Xem: 6898)
160. Lương Hưng Lang ngàn lượng xem ẩn thi

te dien hoa thuong


Tế Công Hoạt Phật
(Tế Điên Hòa Thượng)
Đồ Khùng dịch
(bút hiệu của HT Thích Minh Cảnh)

***

Chương 160:
Lương Hưng Lang ngàn lượng xem ẩn thi

Tế Thiền sư Phật pháp chỉ hiếu tử



Lương Hưng Lang khi đến Vạn Duyên kiều nhìn trên khối đá thấy viết: "Không phải họ Cao vốn họ Lương", bèn nghĩ thầm: "Mình ra đi bao lâu nay mà không phăng được manh mối nào, cũng không biết Lương Vương trang ở đâu! Chắc là thần tiên mách bảo cho đây. Chỉ cần tìm được mẹ ta, tốn mấy ngàn lượng cũng chẳng hề gì". Vì thế mới lấy ra 4 lượng vàng tính thành 200 lượng bạc để được xem khối đá thứ hai. Vương viên ngoại bảo gia nhân trên đá viết là: "Khéo léo giả trang kiếm huyên đường". Lương Hương Lang xem rồi rõ ràng là nói về mình, bèn hỏi:

- Khối đá thứ ba có chữ không?

- Muốn xem khối thứ ba phải bỏ ra 300 lượng bạc.

- Tôi muốn xem khối thứ ba.

Nói rồi liền lấy ra 6 lượng vàng tính thành 300 lượng bạc giao cho Vương viên ngoại. Vương Thái Hòa nghĩ thầm: "Thiệt lạ! Vậy mà cũng có người bỏ tiền ra xem". Rồi bảo gia nhân khiêng ra khối đá thứ bạ Lương Hưng Lang nhìn thấy trên khối đá thứ ba viết là: "Hưng Lang muốn gặp bà mẹ đẻ". Lương Hưng Lang nhìn thấy như vậy lại càng đúng với mình hơn nữa, bèn nói:

- Ngươi đem nốt khối đá kia cho ta xem.

Gia nhân nói:

- Muốn đem khối đá thứ tư phải bỏ ra 500 lượng bạc.

- Ngươi có gạt người ta không đó?

- Không gạt đâu! Công tử thích xem thì xem, còn không thích thì thôi.

Lương Hưng Lang nghĩ thầm: "Mình bỏ ra 500 lượng rồi, lại phải bỏ ra 500 lượng nữa, chỉ cần biết được mẹ ta thất lạc ở đâu là được. Đừng nói chi 1.000 lượng, dù 2.000 lượng mình đâu có tiếc". Nghĩ rồi lại lấy 10 nén vàng ra. Vương Thái Hòa bảo gia nhân khiêng khối đá thứ tư ra xem. Trên khối đá viết: "Đi đến Lâm An hỏi Pháp Vương". Lương Hưng Lang xem thấy câu này, "a" lên một tiếng, cơ hồ đứng không vững. Tự mình suy nghĩ: "Không xong rồi, đây chắc có người biết tâm trạng ta từ nhà ra đi mới bố trí gạt ta lấy 1.000 lượng bạc đây". Nhưng rồi lại nghĩ: "Nhũ danh của ta không ai biết, đây thật là khiến người khó lường!". Nghĩ rồi bèn hỏi:

- Các vị Ở đây có ai biết Lâm An Pháp Vương là thế nào không? Có phải là địa danh hay tên người?

Ai nấy đều lắc đầu nói:

- Không biết. 

Nghe nói như thế, Lương Hưng Lang càng cảm thấy lòng như dao cắt. Lúc ấy từ đâu đi tới một vị lão trượng, mọi người đồng nói:

- Công tử muốn hỏi ông già này đi. Ông ta được gọi là Phúc thần thánh nhân đấy, việc gì ông ta cũng biết cả.

Lương Hưng Lang lật đật bước tới thi lễ, nói:

- Thưa cụ, xin cho hỏi thăm, cụ có biết Lâm An Pháp Vương là ở đâu không?

- Công tử muốn hỏi Lâm An thì từ đây về phía Đông nam 20 dặm có một tòa Hưng Long trấn. Hãy đến đó hỏi thăm, ở đây không ai biết đâu.

Lương Hưng Lang nghe nói liền kêu thư đồng gánh cầm kiếm, rương sách đi ngay về hướng Đông nam. Đi ước 20 dặm, thấy trước mắt có tòa thị trấn, dưới gốc cây ngoài cửa thôn có hai cụ già đang đánh cờ. Một ông mặt trắng râu dài, một ông tướng mạo rất thanh kỳ cổ quái. Lương Hưng Lang bước tới hỏi:

- Xin hai vị lão nhân gia cho tôi hỏi thăm, có tên là Lâm An Pháp Vương hai vị có biết không?

Một ông già nghe nói, đáp:

- Lâm An thì ta biết. Trước khi nhà Kim và Tống chưa đánh nhau, Hưng Long trấn này tên là Lâm An trấn; về sau nhà Tống thiên hạ thái bình mới đổi là Hưng Long trấn. Còn tên Pháp Vương thì ta không biết.

Ông già kia mới nói:

- Này hiền đệ, chú không biết là phải. Ta lớn hơn chú mấy tuổi nên có biết. Hồi ta 12,13 tuổi thì chú còn bé xíu làm sao nhớ được? Chùa ni cô Như Ý am ở đầu thôn này ta nhớ ngày trước gọi là Pháp Vương am, sau này đổi tên là Như Ý am. Muốn hỏi tên Pháp Vương, tôn giá cứ đến đó mà hỏi.

Cám ơn hai cụ già, Lương Hưng Lang lật đật dắt thư đồng đi về hướng cửa thôn. Phía Bắc đường có một cái miếu với bảng đề là Như Ý am. Nghe tiếng gõ cửa, từ bên trong một ni cô nhỏ ra mở cửa, hỏi:

- Thí chủ muốn tìm ai?

- Chúng tôi muốn đến dâng hương.

- Nơi chúng tôi là chùa ni.

- Dù chùa miếu nào tôi cũng chỉ xin dâng hương thôi! 

Vị ni cô nhỏ bèn dẫn vào đại điện. Lương Hưng Lang đốt hương dâng lên xong mới nói:

- Thưa tiểu sư phó, xin dẫn tôi đi dạo quanh trong miếu có được không?

- Được chớ!

Vị ni cô nhỏ đồng ý và dẫn Lương Hưng Lang đi thăm các phòng trong viện. Miếu này ba tầng điện, hai bên có nhà chái rất là rộng rãi. Đi tới đi lui qua đến nhà chái phía Đông. Viện này có ba gian phòng Bắc, hai bên có phối phòng, ngoài cửa phòng Bắc treo một tấm bảng với ba chữ: Băng Tâm đường. Lương Hưng Lang nhìn thấy tấm bảng, biết ở viện này có người sương phụ thủ tiết. Còn đương đứng ngơ ngẩn thì thấy từ trên Bắc Phòng đi ra một bà cụ hơn 60 tuổi, tóc bạc như sương, mặc y phục bình thường. Lương Hưng Lang nhìn bà cụ này, không tự chủ được, trong lòng, buồn bã không cầm được nước mắt. Bà cụ già kia nhìn thấy người trước mặt đôi mắt mộng đỏ, lệ chảy chứa chan, do sự giao cảm của tình mẹ cũng thấy xốn xang nhưng không dám nhìn, mới hỏi:

- Tôn tánh của tiên sinh là gì?

- Tôi họ Lương, nhũ danh là Hưng Lang.

Bà cụ nghe rồi lòng như dao cắt, nói:

- Con ơi, mẹ tưởng rằng đời này mẹ con ta không được gặp nhau nữa, nào ngờ bây giờ mẹ được gặp lại con.

Lương Hưng Lang kêu lên một tiếng "Mẹ Ơi!", càng thảm thiết hơn.

Bà cụ, mẹ của Lương Hưng Lang, tại sao lại lạc vào miếu này? Phàm làm việc gì cũng có định số! Từ khi hai mẹ con thất lạc nhau, bà cụ không tìm được con, mới nghĩ thầm: "Ta còn sống làm chi nữa?" Nghĩ rồi định tự vận. May gặp một người hảo tâm huyên giải:

- Bà đừng chết, thảng như con bà còn sống, tương lai cũng có thể mẹ con gặp lại. Bà cũng nên tìm một cái ni am nào đó ở đỡ, rồi lần lần tìm hỏi tin tức của con bà.

Bà cụ nghe nói cũng phải, bèn xin vào ở am Pháp Vương. Miếu này cách Lương Vương trang ba dặm. Vị lão ni ở miếu này là người trung hậu, thấy hoàn cảnh của bà cụ Lương như thế mới nói:

- Bà nên ở đây với tôi, bao giờ có tin tức của con bà rồi hãy đi. Còn nếu không tin tức thì cứ ở lại miếu này tu hành cùng tôi.

Thế rồi bà cụ Lương ở lại miếu ấy sống cuộc đời khắc khổ, sớm hôm tụng niệm qua ngày. Về sau, những thôn trang phụ cận đều biết ở trong miếu có bà cụ Lương thủ tiết, mọi người mới đưa đến một tấm bảng ba chữ "Băng Tâm đường" để kính tặng. Bà cụ Lương suốt ngày ăn chay niệm Phật cầu nguyện thần linh hiển ứng cho mẹ con gặp mặt. Hôm nay quả nhiên Lương Hưng Lang đã đến. Hai mẹ con gặp mặt ôm nhau khóc ròng. Hưng Lang nói:

- Mẹ Ơi, mẹ đừng khóc nữa! Con bây giờ đã cưới vợ Ở huyện Cam Tuyền, cha mẹ nuôi đã nuôi con khôn lớn, bây giờ hai cụ đã qua đời, con mới tìm mẹ đây. Mong ơn thần nhơn chỉ bảo mới được gặo lại mẹ. Mẹ sanh con ra cực khổ mà con chưa có thể sớm thăm tối viếng lần nào, để mẹ phải cực khổ như thế này! Hôm nay con xin rước mẹ về để mẹ hưởng phước thanh nhàn tự tại với con.

Bà cụ nghe xong mới nói: 

- Con ơi! Mẹ con ta hôm nay gặp nhau cũng là nhờ thần linh giúp đỡ, vì mẹ suốt ngày đốt hương cầu nguyện, chỉ mong cho mẹ con ta được gặp mặt. Bây giờ mẹ đã gặp con là mãn nguyện lắm rồi, con cũng không cần phải rước mẹ đi. Mẹ đã xuất gia thờ phụng Phật Tổ, không còn muốn trở lại thế tục nữa.

Lương Hưng Lang nghe nói, cố sức năn nỉ để rước bà cụ về. Nhưng bà cụ giữ ý không đổi. Lương Hưng Lang không còn cách nào hơn, bèn đem cả gia quyến về Hưng Long trấn, và cất cho bà cụ một ngôi chùa để tu hành tịnh dưỡng, phần Lương Hưng Lang cũng được luôn luôn đến trong chùa thăm hỏi. Ngày kia, Lương Hưng Lang nghĩ: "Để mình đến thử Vạn Duyên kiều xem thử mấy khối đá do ai viết. Ta phải hỏi ra lẽ mới được". Nghĩ rồi bèn dắt theo hai đứa thư đồng đến Vạn Duyên kiều. Vạn Duyên kiều sắp làm xong. Lương Hưng Lang hỏi thăm mới biết mấy chữ đó là do Tế Công Thiền Sư viết, Lương Hưng Lang muốn gặp mặt Phật sống Tế Điên. Ngay lúc ấy, Vương Thái Hòa cùng Tế Điên đến Vạn Duyên kiều để giám sát, có người chỉ dẫn:

- Vị Hòa thượng kiếc kia chính là Tế Điên trưởng lão trong chùa Linh Ẩn đấy!

Lương Hưng Lang vội bước tới hành lễ và nói:

- Thánh tăng ở trên, đệ tử xin ra mắt! Trước đây mong nhờ Thánh tăng chỉ bảo cho mới tìm được mẹ, đệ tử thật cảm ơn vô cùng!

- Ngươi đứng dậy đi, không cần phải hành lễ! Mẹ con ngươi đã gặp mặt rồi, ngươi phải hết lòng báo hiếu nhé! Thôi, ngươi hãy trở về đi.

Lương Hưng Lang còn muốn dâng tạ lễ vật cho Thánh tăng trưởng lão, nhưng Tế Điên nói:

- Không cần đâu! Hòa thượng ta thường nói: Một là không chứa của, hai là không chứa oán, ngủ cũng an giấc, đi cũng tự do.

Lương Hưng Lang không cách gì hơn đành cáo từ trở về. Vương Thái Hòa đương cùng Tế Điên giám sát công trình, bỗng thấy từ đằng kia, một trận gió trốt thổi lại. Tế Điên nói:

- Tới rồi, tới rồi!

Vương Thái Hòa nhìn xem, thấy theo trận gió trốt là một vị lão đạo sĩ tóc bỏ xõa, mình cao tám thước, mặt mũi vàng ệch, ba chòm râu đen nhánh phất phơ, mặc đạo bào bằng đoạn màu lam. Vương Thái Hòa nhìn rồi ngạc nhiên thấy lão đạo sĩ chạy nhanh tới trước cúi chào Tế Điên. Lão đạo sĩ mới đến không phải người nào khác, chính là Hoàng diện chân nhân Tôn Đạo Toàn. Tế Điên hỏi:

- Ngộ Chơn, con đến đây có việc gì thế?

- Từ khi chia tay ở núi Thiên Thai, con trở về miếu, sắp xếp mọi việc xong, đến chùa Linh Ẩn tìm lão nhân gia, nghe nói lão nhân gia đã đến sửa Vạn Duyên kiều, con bèn ở lại trong chùa chờ đợi; nào ngờ tại thành Lâm An lại xảy ra một tai họa tày trời. Quan Tri huyện Tiền Đường phái con đến thỉnh lão nhân gia trở về.

Tế Điên án linh quang đã biết trước rõ ràng, vẫn hỏi:

- Ở Lâm An xảy ra việc gì thế?

- Nhân vì quan tân nhiệm của huyên Tiền Đường là Triệu Văn Huy; ông ta vốn xuất thân từ lưỡng bảng, từ khi đáo nhiệm đến nay, hành sự rất thanh liêm, yêu dân như con đẻ. Nào ngờ trên mặt đất lại xuất hiện một nghịch án, em của Tần Thừa tướng là Hoa hoa thái tuế Vương Thắng Tiên vốn là một tên ác bá, không chừa một việc xấu nào. Hắn ta ỷ anh mình là quan Tể tướng đương triều không ai dám động đến hắn, nên Vương Thắng Tiên trong nhà có đến 30 người hầu thiếp như phu nhân. Có một người hầu thiếp được sủng ái là em gái Điền Quốc Bổn. Cô này nguyên là ca kỹ xuất thân, giỏi về đàn hát. Hôm ấy, Vương Thắng Tiên muốn đến hồ Tâm Đình ở Tây Hồ để thưởng nhạc uống rượu, mới kêu Điền thị dẫn a hoàn, vú em đi trước. Ba cỗ kiệu đang đi trên Tô Đê ở Tây Hồ, bỗng nhiên gặp một luồng gió trốt vây lấy kiệu xoắn đi mấy vòng, đến nỗi người kiêng kiệu mở mắt không ra, đến khi gió trốt qua đi, nhìn lại thì không thấy tung tích Điền thị đâu nữa! Những a hoàn, vú em trong kiệu nhỏ mỗi người bị một dao chết tốt. Mọi người sợ đến nỗi mắt mở trừng trừng, miệng há hốc.
 Chương Trước DS Chương Báo LỗiChương Sau 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2014(Xem: 4812)
Hai kẻ thù đã lâu đời, hai chàng trai trẻ nhất thuộc hai dòng tộc võ sĩ đạo lâm chiến, đang rình rập nhau trong vùng hẻm núi dưới mé sông trong lúc bà con dòng họ đôi bên đang chém giết lẫn nhau trên phía đồng bằng. Mối hận thù nẩy sinh giữa hai chàng sâu đậm đến độ như muốn lộn mửa, và khi trông thấy nhau, mỗi chàng đều nguyện cầu: “Lạy Trời nếu con phải chết, xin cho con gây ra tử thương cho kẻ oán thù trước khi con lìa đời.”
18/10/2014(Xem: 43921)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4492)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4414)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4328)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6456)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4754)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4172)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 25602)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 24440)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]