Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

159. Được vàng báu, tướng cũng theo phước đổi

31/10/201818:21(Xem: 7165)
159. Được vàng báu, tướng cũng theo phước đổi

te dien hoa thuong


Tế Công Hoạt Phật
(Tế Điên Hòa Thượng)
Đồ Khùng dịch
(bút hiệu của HT Thích Minh Cảnh)

***

Chương 159:
Được vàng báu, tướng cũng theo phước đổi

Tìm mẹ cha lặn lội khắp chân trời


Khi Vương Thái Hòa lấy xẻng đào xuống hai thước nghe "cộp" một tiếng, nhìn lại là một phiến đá. Nạy phiến đá lên xem là một hố vàng bạc nguyên bảo. Vàng nguyên bảo đều là vàng móng ngựa 100 lượng vô một cọc, bạc nguyên bảo đều là bạc đại nguyên bảo 200 lượng một cọc.

Vương Thái Hòa lấy ra trước một cọc rồi lấp lại y như củ, cũng không dám tri hô lên. Hôm sau đến nhà nhạc phụ nói mình muốn sửa nhà. Hàn viên ngoại hỏi:

- Con có tiền không?

- Không có bao nhiêu, làm tạm ở đỡ.

Nói rồi mua hai tủ đựng bạc, tìm thợ mộc đến xem. Nền đất không phải nhỏ nên phải cất nhà ba tầng trước, hễ động công đến đâu dời vàng bạc đi đến đó. Sau khi lợp nhà xong, đếm vàng nguyên bảo được 600 cọc, mỗi cọc có thể đổi được 50.000 lượng bạc, bạc nguyên bảo là 400 cọc, cộng chung là 1.000 cọc. Từ đó phát lên giàu sang, tính ra gia sản có hơn 300 muôn lượng bạc. Tại địa phương, Vương Thái Hòa mở nhà đổi bạc, tiệm bán tơ lụa, mua sắm ruộng đất nhà cửa. Ai nấy đều biết Vương Thái Hòa phát tài trở về nhưng không biết phát tài bằng cách nào. Vương Thái Hòa tự nghĩ: "Hồi đó tại phủ Tòng Giang, lão đạo sĩ xem bói cho ta bảo rằng ta phải chết đói. Hiện giờ ta có gia tư to lớn như vầy làm sao chết đói được? Lão đạo sĩ chắc lầm lẫn chung thân đại sự của ta rồi". Từ đó Vương Thái Hòa không tin phục hòa thượng và đạo sĩ nữa, cho rằng tăng đạo đều nói lời yêu ma mê hoặc mọi người. Vương Thái Hòa mỗi năm đến mùa Đông thí cháo, mùa Hè thí trà, cho áo quần bông mấy người nghèo khổ, những người già cả tàn tật đều được giúp đỡ, nhưng không chịu trai tăng thí đạo. Hôm nay tại sao kiếm Hòa thượng mời về cúng một muôn lượng bạc sửa cầu? Đó là vì ông ta nhìn thấy mấy chữ trên vách đắp, Tế Điên viết lên đó hai bài thơ tuyệt cú.

Bài đầu là:

Thuở trước Tòng Giang hỏi cát hung

Hàm Linh xem tướng bảo bần cùng

Trái lại hôm nay quá sang trọng

Đều bởi Tô Hưng, Mã Ngọc Dung.

Bài thơ thứ hai:

Ba hôm tỉnh giấc giữa canh tàn

Một vầng lửa đỏ chạy sang Nam

Nạy lên phiến đá nhìn cho kỹ

Bốn sáu bạc vàng lượng đủ ngàn.

Vương Thái Hòa xem rồi ngẫm nghĩ: "Lạ thiệt, chuyện của mình không ai biết, ông Hòa thượng này là thần tiên chắc!". Vì thế mới kêu gia nhân lật đật đuổi theo. Quản gia chạy theo đến đầu thôn thì thấy Hòa thượng đang đi phía trước, bèn nói:

- Mời đại sư phó trở lại. Viên ngoại chúng tôi chịu thí xả một muôn lượng bạc.

Tế Điên mới quay gót trở lại. Vương Thái Hòa gặp mắt, nói:

- Xin mời Thánh tăng vào bên trong ngồi.

Tế Điên vào đến thư phòng, gia nhân dâng trà lên Vương Thái Hòa hỏi:

- Bạch Thánh tăng, việc của tôi làm sao Thánh tăng biết được?

- Ngươi làm sao giấu được tả Ngươi đừng nên hủy báng tăng đạo nhé! Ngươi nên biết có hai câu như thế này: "Tâm không tốt mạng cùng khổ nốt, đến chừng tâm tốt mạng cũng tốt, giàu sang cho đến rốt. Mạng tốt tâm không tốt, giữa đường bị yểu chiết". Nếu người ta làm việc âm chất có thể gặp hung hóa cát, gặp nạn thành an. Lúc kia lão đạo sĩ xem tướng cho ngươi, ngươi có đàng xà vào miệng chủ về chết đói. Nhờ người làm hai việc âm chất nên nét đằng xà biến thành nét thọ đái đấy!

Vương Thái Hòa bây giờ như nằm mơ mới tỉnh. Tế Điên nói:

- Nếu ngươi không tin, ta có cái này để cho người thấy. Ngươi đem một muôn lượng bạc làm việc công đức sửa cầu Vạn Duyên cho chùa Hải Triều, ngày mai tốt ngày khởi công đi. Ngươi bảo người mang bốn khối đá lại đây, ta viết lên đó bốn câu thơ, mỗi khối viết một câu đem gác lên thành cầu, phái hai gia nhân canh chừng. Khối thứ nhất để mọi người xem tự do, nhưng ai muốn xem khối thứ hai phải bỏ ra 200 lượng bạc, muốn xem khối thứ ba phải bỏ 300 lượng bạc, muốn xem khối đá thứ tư phải bỏ 500 lượng bạc. Một ngàn lượng bạc này giúp ngươi tiền rượu xây cầu, nhưng đừng nói ta viết mà nói thần tiên viết nhé!

Vương Thái Hòa nghĩ thầm: "Ai mà chịu bỏ ra 200 lượng bạc để xem một cục đá chớ? Ta dầu có tiền cũng không xài hoang như vậy". Tế Điên nói:

- Ngươi không tin à? Để rồi coi có người đòi xem không cho biết!

Vương Thái Hòa lập tức cho người đến chùa Hải Triều, sửa soạn chuẩn bị làm công quán, lại kêu gia nhân đem bốn khối đá đến cho Tế Điên viết rồi đem bốn khối đá ấy để trên thành cầu, kêu gia nhân canh chừng. Vương Thái Hòa cũng ở chung với Tế Điên tại chùa Hải Triều, không việc gì thì đánh cờ. Cầu Vạn Duyên tiến hành việc tu sửa. Hai gia nhân canh chừng bốn khối đá, nói:

- Thưa các vị đến xem đá, khối đá thứ nhất được xem tự do, muốn xem khối đá thứ hai phải bỏ ra 200 lượng bạc.

Trên đường phố náo động hẳn lên. Mọi người xúm lại xem. Trên khối đá viết câu thơ bảy chữ: "Không phải họ Cao vốn họ Lương". Ai nấy đều cho hai người này ra thai đố. Ai lại chịu bỏ 200 lượng để xem một cục đá? Mọi người bàn tán lăng xăng. Qua mười mấy ngày không ai hỏi tới. Người ta thấy khối đá thứ nhất cười rồi bỏ đi. Một hôm, Vương Thái Hòa nói:

- Bạch Thánh tăng, lão nhân gia nói có người muốn xem cục đá sao không thấy?

- Người đừng nóng, không quá năm ngày nữa sẽ có người đòi xem mà!

Quả nhiên đến ngày thứ tư, có một vị văn sinh công tử đội khăn văn sinh màu thúy lam, mình mặc áo choàng văn sinh cùng màu, lưng thắt dây tơ, vớ trắng vân hài, gương mặt trắng trẻo, tuấn vũ hơn người, mang theo hai đứa thư đồng gánh theo rương sách và cầm kiếm. Vị văn sinh công tử ấy đến gần xem và hỏi:

- Cục đá này ai viết vậy?

Gia nhân đáp:

- Là thần tiên viết đấy.

- Vị thần tiên ấy ở đâu?

- Công tử không cần biết vị thần tiên ấy ở đâu. Muốn xem khối đá thứ hai thì bỏ ra 200 lượng bạc. Khối thứ nhất cho coi không.

- Tôi chịu bỏ ra 200 lượng bạc, chú giở khối thứ hai cho tôi xem.

Gia nhân lật đật chạy vào chùa Hải Triều báo với Viên ngoại rằng có người muốn xem khối đá. Vương Thái Hòa nghĩ thầm: "Thiệt là có những hạng người này sao? Chịu bỏ ra 200 lượng bạc để coi một cục đá?". Chính mình không tin, bèn bước ra xem thì thấy một vị phục sức theo lối văn sinh công tử. Vương Thái Hòa hỏi:

- Tôn giá muốn xem đá phải không?

- Đúng thế!

- Xem khối đá thứ hai phải bỏ ra 200 lượng bạc.

- Tôi chịu bỏ 200 lượng bạc.

Nói rồi mở rương sách lấy ra 4 lượng vàng tính ra là 200 lượng bạc, giao cho Vương Thái Hòa, Vương Thái Hòa sai gia nhân giở khối đá thứ hai ra. Các gia nhân đều không muốn giở. Vương Thái Hòa nói:

- Tụi bây đứa nào đến rinh, ta thưởng cho 2 lượng bạc.

Các gia nhân nghe nói như vậy, người này muốn rinh, người kia muốn rinh, ai nấy đều muốn đến rinh. Không đầy một khắc, khối đá được rinh ra. Vị văn sinh công tử ấy thấy khối đá thứ hai lại càng ngạc nhiên hơn.

Tại sao vị công tử này chịu bỏ ra 200 lượng bạc để xem khối đá thứ hai? Trong đó có một đoại sự tình. Trên khối đá thứ nhất viết: "Không phải họ Cao vốn họ Lương". Đúng ngay thân thế của công tử này. Cậu ta chính không phải họ Cao mà vốn họ Lương, là người của Lương Vương trang ở huyện Thạch Kháng. Khi cậu ta 5 tuổi nhắm lúc hai quân Kim, Tống đánh nhau, đại đội Hàn Ly Bất trở lại Giang Nam, mẹ con dắt nhau đi lánh nạn, gặp phải đội giặc, mẹ con lạc nhau, con không tìm được mẹ, đứng khóc ở bên đường. Từ đằng kia có một người đi lại, đầu đội mũ lệch, khoác hờ chiếc áo choàng, nói:

- Em nhỏ ơi, tại sao em khóc thế?

Đứa bé dù mới năm tuổi nhưng rất lanh lợi, nói rất rõ ràng.

- Tôi là người Lương Vương trang, tên là Hưng Lang. Mẹ tôi đưa tôi đi trốn không may gặp giặc nên mẹ con thất lạc, tôi tìm không gặp.

- Hãy đi với ta tìm mẹ. Ta là cậu của con đây.

Lương Hưng Lang tuy nhỏ nhưng không chịu lép, nói:

- Ông không phải là cậu tôi, chỉ là anh tôi thôi, anh mang tôi đi tìm mẹ đi!

- Thôi đi với ta.

Nói rồi kéo Hưng Lang đến huyện Cam Tuyền, ở lại tiệm Cao Gia Toàn. Nơi đây bình yên không giặc giã, gặp vị Cao chưởng quỹ, nhà hào phú đến trăm vạn mà không con, vợ chồng mở quán cơm cốt giúp đỡ các bạn nghèo. Chưởng quỹ hỏi: 

- Đứa nhỏ mang theo là gì của chú?

Anh chàng bắt cóc con nít ấy nói:

- Tôi họ Lang, kêu là Lang Tán, nó là cháu tôi. Cha mẹ nó giặc bắt đi. Đứa nhỏ này rơi vào tay tôi, tôi định đem bán nó đi đó.

- Để ta xem nào.

Nói rồi kêu Hưng Lang vào phòng chưởng quỹ, cho ăn uống rồi hỏi:

- Người ấy có phải là cậu của cháu không?

- Không phải, tôi không quen biết người đó. Mẹ tôi dẫn tôi đi trốn, kế gặp giặc mẹ tôi mất tiêu. Ông ấy nói là cậu tôi, tôi nói ông chỉ là anh tôi thôi. Ông ấy nói để dắt tôi đi tìm mẹ.

- Cao chưởng quỹ hỏi rõ ràng xong mới hỏi người bắt cóc:

- Chú muốn bán bao nhiêu?

- Bán 50 lượng bạc.

- 50 lượng bạc tôi đồng ý. Chú viết cho tôi tờ giấy đi!

- Tôi không biết chữ.

- Chú không biết chữ, để bảo thư ký viết thaỵ Trong tiệm của chúng tôi có qui củ, viết như vậy 50 lượng phải bớt phân nửa, còn 25 lượng. Buôn bán trong tiệm phải nộp một phần ba tiền 50 là 15 lượng, bảo thư ký viết giấy tiền công là 10 lượng, cắt đứt hết hai bên không tìm nhau. Bây giờ chú đi đi, không có tiền đưa cho chú. Nếu không chịu, ta sẽ đưa chú lên nha môn, chiếu theo việc bắt cóc con người ta mà tính với chú.

Lương Tán nghe nói ngạc nhiên. Mọi người bàn đi tán lại, định cho hắn ít điếu làm lộ phí cho hắn đi. Cao chưởng quỹ tên là Cao Bá Vạn, người nhà xưng là viên ngoại, giữ Lương Hưng Lang ở lại, mướn vú già nuôi nấng, xin một cho mười, đổi tên là Cao Đắc Kế. Lớn lên rước thầy dạy học. Đến 16 tuổi cưới vợ cho, vợ chồng Dương viên ngoại chỉ có một đứa con gái. Qua 5,6 năm, hai vợ chồng Dương viên ngoại nối nhau qua đời, hai phần gia tài đều về một mình Lương Hưng Lang hưởng trọn. Ngày kia, Lương Hưng Lang nói với vợ:

- Ta vốn là người ở Lương Vương trang, hiện giờ cha mẹ đã qua đời, ta muốn đi tìm hỏi cha mẹ ruột thất lạc nơi nào. Nếu như đã chết, ta đưa hài cốt trở về, nếu như còn sống ta rước về phụng dưỡng. Ta đi lần này đem theo vàng nhiều bạc ít, ngầm giắt châu báu giả dạng làm thư sinh du học, không định là mấy năm trở về, mọi việc trong nhà toàn giao phó cho nương tử.

Dương thị nói:

- Đó là một phần hiếu đạo của quan nhân, tôi cũng không dám ngăn cản. Xin quan nhân cứ đi đi!

Lương Hưng Lang bèn mang theo hai đứa thư đồng, gặp núi viếng núi, gặp chùa lễ chùa, cầu thần Phật bảo hộ cho mẹ con được gặp. Hôm nay đến Vạn Duyên kiều, nhìn thấy chữ viết trên khối đá, được La Hán gia chỉ dẫn đường mê cho hiếu tử. 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/01/2018(Xem: 4434)
40 Năm Ở Mỹ, sách của TT Thích Từ Lực
11/01/2018(Xem: 5089)
Vào những năm đầu của thập niên 2000, khi cây bút đang còn sung sức, tôi viết rất nhiều bài về danh lam thắng cảnh trên quê hương Nha Trang của mình để giới thiệu trên các báo và tạp chí khắp đất nước. Trong số đó, hiển nhiên là có bài viết về ngôi chùa đã lưu nhiều hình ảnh, dấu ấn kỷ niệm vào ký ức tuổi thơ của tôi với tên gọi thân quen mộc mạc: “Chùa Núi Sinh Trung”.
08/01/2018(Xem: 11203)
Hồi còn tại thế xưa kia Trên đường giáo hóa Phật đi qua làng Ngài đi cùng ông A Nan Khai tâm gieo ánh đạo vàng giúp dân. Đang đi ngài bỗng dừng chân Bước quanh lối khác có phần xa thêm Ông A Nan rất ngạc nhiên Vội lên tiếng hỏi. Phật liền giảng ra: "Này A Nan phía trước ta Có quân giặc cướp thật là hiểm nguy Sau ta ba kẻ đang đi Gặp quân giặc đó khó bề thoát qua!"
08/01/2018(Xem: 9383)
Ở bên Ấn Độ thuở xưa Nơi thành Xá Vệ, buổi trưa một ngày Gia đình kia thật duyên may Phật thương hóa độ, dừng ngay tại nhà, Tiếc thay chồng vợ tỏ ra Tham lam, độc ác, xấu xa, hung tàn. Hóa thành một vị đạo nhân Phật đi khất thực dừng chân trước thềm Ôm bình bát, đứng trang nghiêm, Anh chồng đi vắng, vợ liền nhảy ra Tay xua đuổi, miệng hét la
07/01/2018(Xem: 7761)
Sau mỗi lần có dịp viếng thăm các chứng tích như tượng đài, lăng mộ, viện bảo tàng, nhà lưu niệm, ..., của những nhân vật mà cuộc đời phần nào liên quan đến đời sống vật chất hay tinh thần, sự thịnh suy ,... của một nhóm người, một dân tộc, một vùng, một quốc gia,..., tôi ra về lòng những bâng khuâng với hai câu : Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ ? trong bài thơ Ông Đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên.
21/12/2017(Xem: 3780)
Anh sinh ra và lớn lên ở miền gió cát khô nóng Phan Rang. Là một Phật tử thuần thành, lại được phước báu khi có đến hai người con trai xuất gia, nên nhân duyên đưa đẩy đã trở thành đạo hữu của tôi qua nhiều lần hội ngộ lạ lùng ở các thiền viện thuộc dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Kết tình đạo hữu với nhau đã gần mười năm rồi, mỗi lần gặp mặt, tôi và anh đều tay bắt mặt mừng, trò chuyện thân mật, nhưng người huyên thiên lúc đàm đạo là anh, còn tôi thì cứ chỉ biết gật gù, mỉm cười, họa hoằn lắm mới buông một đôi câu phụ họa. Anh quý mến tôi ở điểm đó.
15/12/2017(Xem: 6341)
Hương Lúa Chùa Quê" Bản Tình Ca Quê Hương của nhị vị Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và Thích Như Điển. Sau khi đọc tác phẩm “Hương Lúa Chùa Quê” chúng con không dám mong ước giới thiệu sự nghiệp văn học, văn hóa cả đạo lẫn đời của nhị vị Hòa Thượng. Vì công trình tạo dựng sự nghiệp của các bậc xuất sĩ không nằm trong “nguồn văn chương sáng tác”. Vì xuyên qua mấy chục năm hành đạo và giúp đời, nhị vị đã xây dựng nhiều cơ sở Phật giáo đồ sộ trên nhiều quốc độ khác nhau như: chùa Pháp Bảo tại nước Úc; chùa Viên Giác và Tu viện Viên Đức tại nước Đức. Nhị vị cũng đã mang ánh Đạo vàng đến khắp muôn nơi, soi sáng cho bước chân “người cùng tử” được trở về dưới mái nhà xưa, để thấy lại “bóng hình chân nguyên”; dẫn đường cho những người chưa thể “tự mình thắp đuốc lên mà đi” được tìm lại “bản lai diện mục”. Đó mới gọi là “sự nghiệp” của bậc xuât sĩ. Điều nầy đã có lịch sử ghi nhận từ mạch nguồn công đức biểu hiện và lưu truyền.
15/12/2017(Xem: 87243)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
29/11/2017(Xem: 6637)
Trong loạt bài Kể Chuyện Đường Xa lần này, người viết đặt thêm tên cho mục này Vòng Quanh Thế Giới, để có cùng tên với loạt phóng sự sẽ đưa lên tvtsonline.com.au với nhạc hiệu mở đầu của bài “Vòng quanh thế giới” người viết sáng tác gần bốn thập niên trước đây. Từ năm 1990, chúng tôi đã bắt đầu viết bút ký với chuyến đi Bangkok (Thái Lan) và loạt bài cuối cùng là chuyến du lịch Âu Châu vào năm 2015.
27/11/2017(Xem: 4866)
Nếu chấp nhận thuyết nhân duyên của Đạo Phật thì có thể dễ dàng, giải thích cho mọi tình huống và mọi sự việc xảy ra trong cuộc đời nầy. Nhân duyên hay duyên sanh cũng tương tự với nhau. Đó là: „Cái nầy có cho nên cái kia có; cái nầy sanh cho nên cái kia sanh. Cái nầy diệt, cho nên cái kia cũng diệt theo“. Không ai trong chúng ta có thể biết trước được việc gì sẽ xảy đến cho mình về sau nầy cả; dầu cho chúng ta có cố gắng làm mọi việc tốt đẹp trong hiện tại; nhưng dư báo trong quá khứ, ai biết được thiện, ác còn lại bao nhiêu mà lường được. Chỉ khi nào nắp quan tài đậy lại trong kiếp nầy, thì lúc ấy ta mới biết được cái quả trong hiện tại là cái nhân như thế nào mà trong quá khứ của chúng ta đã gây ra và chính cái quả của ngày hôm nay sẽ là cái nhân cho ngày sau nữa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]