Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

114. Trịnh Huyền Tu quán rượu gặp Hòa thượng

20/10/201814:54(Xem: 6718)
114. Trịnh Huyền Tu quán rượu gặp Hòa thượng

te dien hoa thuong


Tế Công Hoạt Phật
(Tế Điên Hòa Thượng)
Đồ Khùng dịch
(bút hiệu của HT Thích Minh Cảnh)

***

Chương 114:
Trịnh Huyền Tu quán rượu gặp Hòa thượng

Thẩm Diệu Lượng nghe ca biết Thánh tăng


Tế Điên bước vào tửu lầu tìm một chiếc bàn ngồi xuống. Phổ ky dọn chén đũa ra, lão đạo sĩ hỏi:

- Này phổ ky! Ở đây có bán đồ chay không? Tôi ăn chay.

- Thưa có!

Tế Điên nói: - Ta ăn mặn hè!

- Mặn chay có hết mà! Phổ ky nói:

- Chú đem cho đạo gia một miếng tầu hũ rán trước đi! Tế Điên nói - Ta kính lão đạo đó!

Lão đạo nghĩ bụng: "Hòa thượng này không quen với mình, lại kính đồ chay cho ta, ta phải kính lại mới được:. Bèn lật đật gọi phổ ky:

- Chú đem cho sư phó một món chiên nhé! Ta kính Ngài đó.

Phổ ky dạ ran, giây lát thức đem lên đủ. Tế Điên muốn uống rượu, bèn kêu phổ ky:

- Đem cho lão đạo sĩ một đĩa giá chua, ta kính Ngài.

Lão đại sĩ lại kêu cho Tế Điên một chén vò viên; Tế Điên kêu cho lão đạo sĩ một đĩa đậu hũ xào, lão đạo kêu lại một đĩa thịt dê; Tế Điên kêu một tô canh cải trắng, lão đạo kêu lại một đĩa thịt ram. Hai người kêu qua kêu lại tặng nhau. Tế Điên kêu phổ ky lại nói:

- Lát nữa đạo gia ăn hết bao nhiêu tiền, để ta trả cho nhé!

- Vâng ạ!

Lão đạo sĩ nghe nói thế, khi ăn xong kêu phổ ky tính tiền và bảo:

- Hòa thượng ăn hết bao nhiêu tiền để ta trả cho nhé!

Tế Điên lật đật nói:

- Đạo gia đừng làm thế! Để tôi trả cho.

Lão đại sĩ nói rồi bèn mở túi ra, trong túi có 200 lượng bạc. Tế Điên nói:

- Để tôi trả cho!

Nói xong lấy tay cướp lấy chiếc túi của lão đạo sĩ cầm đi xuống lầu. Lão đạo sĩ cho rằng Hòa thượng có tính mau mắn, đi xuống lầu để trả tiền nên không giật túi lại. Lão đạo sĩ đợi một hồi lâu không thấy Tế Điên trở lên, mới kêu phổ ky xuống xem thử. Phổ ky trở lên trả lời:

- Hòa thượng đã đi từ nãy rồi!

Lão đạo sĩ nghĩ thầm: "Hòa thượng này là tên lường gạt, lấy mất 200 lượng của ta mà cũng không trả tiền cơm nữa". Nay mắn lão đại sĩ còn một ít bạc vụn trong túi, bèn lất ra trả tiền cơm, rồi xuống lầu đuổi theo Hòa thượng. Đi tới đầu thôn, lão đạo thấy Hòa thượng đang ngồi tại cổng thôn mở bao bạc ra và tự nói lẩm nhẩm: - Cái này là Cao bạch, cái này là Thành sắc, cái này là Thái hồ, không biết có tốt hay không?

Lão đạo sĩ Trịnh Huyền Tu thấy vậy mới nói:

- Hay cho ông Hòa thượng! Ông cướp bạc của tôi còn nói thành sắc này thành sắc nọ hử?

Nói rồi chạy tới đánh lia lịa. Tế Điên bèn đếm: 1 đấm, 2 đấm... Lão đạo sĩ đánh đến 5 đấm, Tế Điên bèn nói:

- Để ta đấm lại ông chớ!

Nói xong giằng lão đạo sĩ xuống đánh 5 đấm. Tế Điên đứng dậy nói:

- Ông đánh lại ta!

Lão đạo sĩ lại đánh. Tế Điên lại giằng lão đạo sĩ xuống đánh 5 đấm. Người ta thấy vậy bu lại xem, nhưng chẳng ai can ra. Có người nói:

- Hai vị này đánh nhau coi cũng được quá! Mỗi người đánh 5 đấm.

Người khác nói:

- Hòa thượng công bằng hơn! Đánh lão đạo 5 đấm rồi tự mình nằm xuống bảo lão đạo đánh; còn lão đạo không công bằng chút nào, phải đợi Hòa thượng đè xuống mới chịu nằm.

Lão đạo sĩ nghe nói giận quá, trả lời:

- Ta mà không công bằng à? Ông ấy ăn của ta một bữa cơm, lại giựt của ta 200 lượng bạc chạy đi, mà ta lại không công bằng à?

Mọi người muốn khuyên giải thì đằng kia Thẩm Diệu Lượng, Lý Diệu Thanh, Chữ Đạo Duyên chạy tới. Thẩm Diệu Lượng nói:

- Này Hòa thượng! Tôi đang tìm ông thì gặp ông ở đây! Tôi hỏi ông nè, tại sao ông khinh dể đồ đệ tôi quá vậy?

- Cái đó là tự đồ đệ của ông vô cớ xía vô chuyện của người. Ta bảo cho ông biết: này Thẩm Diệu Lượng! Cả đến ông, ta cũng không coi ra gì nữa mà!

- Này Hòa thượng! Ông có bao nhiêu lai lịch mà dám nói lớn lối như vậy?

- Có bao nhiêu lai lịch hử? Hãy nghe mấy câu ta nói đây:

Xưa kia anh kiệt bốn phương đồn,

Giết vợ tìm vào học đạo tôn,

Làm Linh ban tặng Phân quang kiếm,

Mới nhập Tam Thanh cổ đạo môn.

Thẩm Diệu Lượng nghe Tế Điên đọc mấy câu, rất đỗi kinh ngạc! Thật ra Thẩm Diệu Lượng trước kia là người Giang Tây, sống về nghề bảo tiêu tên là Thẩm Quốc Đống, oai danh vang dội khắp nơi, thường đi bảo tiêu xạ Vợ Ở nhà là Tào thị và con, hai người sống qua ngày. Ngày kia, Thẩm Quốc Đống rảnh việc ở nhà bèn đi ra tiệm uống trà, nghe ở bàn bên có hai người nói chuyện phiếm. Họ nói:

- Việc trên thế gian này khó mà nói cho hết! Bậc đại trượng phu khó khỏi vợ không hiền, con không hiếu. Như Thẩm Quốc Đống là bậc anh hùng đi bảo tiêu xa, vợ Ở nhà lại làm chuyện lén lút xấu hổ; đáng tiếc Thẩm Quốc Đống anh hùng như vậy mà vợ làm mất hết danh tiếng!

Người kia nói:

- Sao mà anh biết?

Người nọ đáp:

- Tôi có người bà con ở gần nhà của Thẩm Quốc Đống. Tôi thường đến đó chơi. Nghe nói vợ của Thẩm Quốc Đống thật là vô liêm sỉ! Việc này nếu để Thẩm Quốc Đống biết được thì mất mạng như không.

Người kia nói:

- Cũng không chắc gì ông ấy biết. Có ai dám nói ra đâu!

Thẩm Quốc Đống ngồi một bên nghe thấy hết, nhưng cố làm như không biết gì, vả lại cũng không biết hai người đó là ai. Còn hai người này chỉ nghe tên Thẩm Quốc Đống mà chưa thấy mặt bao giờ. Thẩm Quốc Đống nghe việc ấy xong, trở về nhà, cũng không đề cập chuyện ấy. Ngày kia, Thẩm Quốc Đống nói định đi ra ngoài, Tào thị hỏi:

- Anh đi bao lâu mới trở về nhà?

- Có việc gấp phải mất hơn hai tháng mới về.

Thẩm Quốc Đống đi ra khỏi nhà, bèn đến một trấn nhỏ cách nhà khoảng ba dặm, tìm một quán trọ ngụ đỡ. Tối lại, khi sang canh, tự mình cắp dao ngầm trở về nhà dò xét, không thấy động tĩnh chi, bèn về quán ngủ lại. Tối hôm sau vào khoảng canh hai, Thẩm Quốc Đống lại trở về nhà dò xét, thì nghe trong nhà có tiếng gái trai cười giỡn. Thẩm Quốc Đống đến bên cửa sổ xoi lỗ giấy nhìn vào: vợ hắn ăn mặc chải chuốt, trang sức đẹp đẽ. Trên giường đặt một chiếc bàn thấp, trên bàn rượu thịt đầy đủ, ngồi một bên là một vị văn sinh công tử đẹp đẽ ưa nhìn. Thẩm Quốc Đống nhận ra là Tôn công tử ở sát nhà mình tên là Tổ Nghĩa, hiệu Tú Phong. Vị này vốn dòng dõi nhà quan, cha ông đã từng làm chức Giáo học, nhưng vì tổ tiên không đức hạnh mới sanh ra hạng con cháu lưu đãng, thông gian với Tào thị như thế! Kế nghe Tào thị nói:

- Hai ngày nay hắn ta ở trong nhà, tôi sợ công tử đến, hai đàng chạm mặt e có nhiều điều bất tiện! May mà hắn lại đi, dễ chừng đến hơn hai tháng.

Vị công tử kia nói:

- Nàng ơi! Hai hôm nay ta thiệt là sách vở biếng xem, cơm nước nuốt không trôi, chỉ hận mình không được cùng nàng vui chung một chỗ. Được như vậy mới toại lòng ta!

- Công tử có muốn cùng nhau làm vợ chồng lâu dài chăng?

- Làm chồng vợ lâu dài là thế nào?

- Công tử mua cho em một gói thuốc độc, đợi hắn về, em dọn tiệc tẩy trần, bỏ thuốc độc vào trong rượu thuốc chết hắn đi. Như vậy chúng ta há chẳng phải là làm chồng vợ lâu dài sao?

Thẩm Quốc Đống nghe tới đó trong lòng khó chịu, tự nghĩ rằng: "Chí thân không ai bằng cha con, gần gũi không ai hơn vợ chồng, mà bây giờ thiệt là: Chồng vợ đồng giường, lòng xa trăm dặm!". Rồi xông vào nhà giết chết hai kẻ gian dâm ấy. Thẩm Quốc Đống định đầu cáo với quan huyện để chịu án cho xong, nhưng lại nghĩ: "Người ta sống trên đời giống như một giấc mộng dài! Công danh giàu có, vợ đẹp con khôn chỉ toàn là giả, rốt cuộc đều không. Chi bằng xuất gia là khỏe nhất!".

Nghĩ như vậy rồi, Thẩm Quốc Đống bèn đến lạy Tử hà chơn nhơn Lý Hàm Linh làm thầy, được ban tên là Diệu Lượng và một thanh Phân quang kiếm để hộ thân. Hiện tại Thẩm Diệu Lượng đã hơn 90 tuổi, chuyện ngày xưa của ông ta không ai biết, mà hôm nay bốn câu thơ của Hòa thượng lại trúng vanh vách sự việc cũ. Hòa thượng độ chừng hơn 20 tuổi, làm sao biết được chuyện mấy mươi năm trước?

Thẩm Diệu Lượng ngạc nhiên một hồi lâu mới nói:

- Này Hòa thượng! Làm sao ông biết được chuyện quá khứ của ta?

Tế Điên đem 200 lượng bạc ra trả cho Trịnh Huyền Tu rối nói:

- Để Hòa thượng ta cho ông thấy lai lịch của ta nhé!

Nói rồi lấy tay sờ lên thiên linh một cái, lộ ra Phật quang, linh quang, kim quang. Thẩm Diệu lượng nhìn thấy đúng là vị Tri Giác La Hán. Lão đạo sĩ lật đật cúi đầu, miệng niệm "Vô lượng Phật". Tế Điên cười hà hà, quay đầu cất bước, vừa đi vừa hát:

Sống tuổi 70 được bao người?

Bỏ đi bé bỏng lúc nhiều mươi,

Khoảng giữa thời gian đà mấy chốc.

Lộn xem sầu não với vui tươi!

Trăng quá Trung thu, trăng chẳng sáng.

Hoa quá Thanh minh, hoa kém tươi.

Bên hoa dưới nguyệt vui ca giọng,

Chén vàng cạn chuốc mãi đầy vơi.

Trên đời tiền của dùng nào hết,

Triều nội quan to được mấy người?

Quan to, của lắm, tâm thêm bận,

Chỉ tội đầu xanh sớm bạc thôi!

Xuân Hạ Thu Đông tày mháy mắt,

Gà báo canh khuya, chuông hoàng hôn.

Hãy xem trước mắt nhân gian,

Mỗi năm một bận cỏ hoang viếng mồ.

Mộ hoang cao thấp lô xô,

Mỗi năm già nửa cỏ khô mọc tràn.

Tế Điên hát sơn ca xong, đi đến phủ Khúc Châu. Quan Tri phủ là Trương Hữu Đức nhìn thấy, nói:

- Bạch Thánh tăng! Ngài đi đâu đó? Tôi đương phái người đi khắp nơi tìm Thánh tăng đây!

- Ta được bạn bè mời rượu mà đến đây. Lão gia tìm Hòa thượng ta có việc gì?

- Tôi đã lấy cung hai tên Hoa Vân Long và Điền Quốc Bổn xong rồi, bọn chúng đều thú nhận cả; chờ Thánh tăng đến để tôi sai một người cùng đưa bọn giặc về Lâm An.

- Được đấy!

Quan Tri phủ phái hai vị Đầu mục mang theo 10 tên quân, đem bọn giặc đóng trăn lại, dùng thuyền đưa đi. Tế Điên và hai Ban đầu Sài, Đỗ nói lời cáo từ. Quan tri phủ đưa đến bờ sông rồi mới trở về. Lập tức thuyền nhổ neo, Tế Điên nói:

- Này hai vị Ban đầu! Chắc là hai vị mừng rồi đó! Giải mấy tên giặc Lâm An, hai vị lên nha môn lãnh 1.200 lượng bạc thưởng, mỗi vị được 600 lượng.

Sài đầu, Đỗ đầu cũng vui vẻ nói:

- Bọn tôi được như vậy là nhờ ơn sư phó thành toàn cho!

Thuyền vẫn phăng phăng đi tới, mọi người nói cười vui vẻ. Một ngày kia đi đến Tiểu Long khẩu, nào ngờ từ dưới nước xông lên bốn tên giang dương đại đạo muốn cướp tù xa.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/01/2018(Xem: 4434)
40 Năm Ở Mỹ, sách của TT Thích Từ Lực
11/01/2018(Xem: 5089)
Vào những năm đầu của thập niên 2000, khi cây bút đang còn sung sức, tôi viết rất nhiều bài về danh lam thắng cảnh trên quê hương Nha Trang của mình để giới thiệu trên các báo và tạp chí khắp đất nước. Trong số đó, hiển nhiên là có bài viết về ngôi chùa đã lưu nhiều hình ảnh, dấu ấn kỷ niệm vào ký ức tuổi thơ của tôi với tên gọi thân quen mộc mạc: “Chùa Núi Sinh Trung”.
08/01/2018(Xem: 11202)
Hồi còn tại thế xưa kia Trên đường giáo hóa Phật đi qua làng Ngài đi cùng ông A Nan Khai tâm gieo ánh đạo vàng giúp dân. Đang đi ngài bỗng dừng chân Bước quanh lối khác có phần xa thêm Ông A Nan rất ngạc nhiên Vội lên tiếng hỏi. Phật liền giảng ra: "Này A Nan phía trước ta Có quân giặc cướp thật là hiểm nguy Sau ta ba kẻ đang đi Gặp quân giặc đó khó bề thoát qua!"
08/01/2018(Xem: 9381)
Ở bên Ấn Độ thuở xưa Nơi thành Xá Vệ, buổi trưa một ngày Gia đình kia thật duyên may Phật thương hóa độ, dừng ngay tại nhà, Tiếc thay chồng vợ tỏ ra Tham lam, độc ác, xấu xa, hung tàn. Hóa thành một vị đạo nhân Phật đi khất thực dừng chân trước thềm Ôm bình bát, đứng trang nghiêm, Anh chồng đi vắng, vợ liền nhảy ra Tay xua đuổi, miệng hét la
07/01/2018(Xem: 7761)
Sau mỗi lần có dịp viếng thăm các chứng tích như tượng đài, lăng mộ, viện bảo tàng, nhà lưu niệm, ..., của những nhân vật mà cuộc đời phần nào liên quan đến đời sống vật chất hay tinh thần, sự thịnh suy ,... của một nhóm người, một dân tộc, một vùng, một quốc gia,..., tôi ra về lòng những bâng khuâng với hai câu : Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ ? trong bài thơ Ông Đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên.
21/12/2017(Xem: 3779)
Anh sinh ra và lớn lên ở miền gió cát khô nóng Phan Rang. Là một Phật tử thuần thành, lại được phước báu khi có đến hai người con trai xuất gia, nên nhân duyên đưa đẩy đã trở thành đạo hữu của tôi qua nhiều lần hội ngộ lạ lùng ở các thiền viện thuộc dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Kết tình đạo hữu với nhau đã gần mười năm rồi, mỗi lần gặp mặt, tôi và anh đều tay bắt mặt mừng, trò chuyện thân mật, nhưng người huyên thiên lúc đàm đạo là anh, còn tôi thì cứ chỉ biết gật gù, mỉm cười, họa hoằn lắm mới buông một đôi câu phụ họa. Anh quý mến tôi ở điểm đó.
15/12/2017(Xem: 6341)
Hương Lúa Chùa Quê" Bản Tình Ca Quê Hương của nhị vị Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và Thích Như Điển. Sau khi đọc tác phẩm “Hương Lúa Chùa Quê” chúng con không dám mong ước giới thiệu sự nghiệp văn học, văn hóa cả đạo lẫn đời của nhị vị Hòa Thượng. Vì công trình tạo dựng sự nghiệp của các bậc xuất sĩ không nằm trong “nguồn văn chương sáng tác”. Vì xuyên qua mấy chục năm hành đạo và giúp đời, nhị vị đã xây dựng nhiều cơ sở Phật giáo đồ sộ trên nhiều quốc độ khác nhau như: chùa Pháp Bảo tại nước Úc; chùa Viên Giác và Tu viện Viên Đức tại nước Đức. Nhị vị cũng đã mang ánh Đạo vàng đến khắp muôn nơi, soi sáng cho bước chân “người cùng tử” được trở về dưới mái nhà xưa, để thấy lại “bóng hình chân nguyên”; dẫn đường cho những người chưa thể “tự mình thắp đuốc lên mà đi” được tìm lại “bản lai diện mục”. Đó mới gọi là “sự nghiệp” của bậc xuât sĩ. Điều nầy đã có lịch sử ghi nhận từ mạch nguồn công đức biểu hiện và lưu truyền.
15/12/2017(Xem: 87243)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
29/11/2017(Xem: 6637)
Trong loạt bài Kể Chuyện Đường Xa lần này, người viết đặt thêm tên cho mục này Vòng Quanh Thế Giới, để có cùng tên với loạt phóng sự sẽ đưa lên tvtsonline.com.au với nhạc hiệu mở đầu của bài “Vòng quanh thế giới” người viết sáng tác gần bốn thập niên trước đây. Từ năm 1990, chúng tôi đã bắt đầu viết bút ký với chuyến đi Bangkok (Thái Lan) và loạt bài cuối cùng là chuyến du lịch Âu Châu vào năm 2015.
27/11/2017(Xem: 4866)
Nếu chấp nhận thuyết nhân duyên của Đạo Phật thì có thể dễ dàng, giải thích cho mọi tình huống và mọi sự việc xảy ra trong cuộc đời nầy. Nhân duyên hay duyên sanh cũng tương tự với nhau. Đó là: „Cái nầy có cho nên cái kia có; cái nầy sanh cho nên cái kia sanh. Cái nầy diệt, cho nên cái kia cũng diệt theo“. Không ai trong chúng ta có thể biết trước được việc gì sẽ xảy đến cho mình về sau nầy cả; dầu cho chúng ta có cố gắng làm mọi việc tốt đẹp trong hiện tại; nhưng dư báo trong quá khứ, ai biết được thiện, ác còn lại bao nhiêu mà lường được. Chỉ khi nào nắp quan tài đậy lại trong kiếp nầy, thì lúc ấy ta mới biết được cái quả trong hiện tại là cái nhân như thế nào mà trong quá khứ của chúng ta đã gây ra và chính cái quả của ngày hôm nay sẽ là cái nhân cho ngày sau nữa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]