Những Truyện Cổ Việt Nam Mang Màu Sắc Phật Giáo
Lệ Như Thích Trung Hậu
Sưu tầm & giới thiệu
PHẦN 4
76.TỔ CÁY [1]
Trong thời đại này có một việc làm như vậy cũng xứng đáng làm Tổ rồi,chứ đừng nói đến học cả trăm kinh vạn quyển Đó là chuyện xảy ra từ đời Hậu Lê thường kể về Tổ Cáy.
Tổ là vị Chủ chùa, là người Trú trì,người niên cao lạp trưởng trong chốn Tòng lâm.
Nguyên trước ngày chưa xuất gia,Tổ đã có lòng thương vật khác thường.Một hôm bà mẹ đi chợ mua về một rổ “cáy” để làm thức ăn cho gia đình dùng cơm trong ngày.Khi rổ cáy được đặt gần chỗ Ngài nghỉ, tiếng cáy kêu phát ra một âm thanh rù rì rủ rỉ y như tiếng nỉ non của người bị nạn, động lòng thương vật,Tổ mang cả rổ cáy ra đổ xuống đồng ruộng.
Đến giờ làm thức ăn,thấy không có rổ cáy,bà mẹ hỏi con,Tổ tình thật thưa mẹ: “Con chịu không nổi tiếng kêu đau thương của “cáy” nên đã mang đi đổ xuống đồng hết rồi”.
Một thời gian sau,Tổ xin mẹ đi xuất gia.Bỏ những người thương,xa mọi người thân quyến (Cát ái từ thân),Tổ cất bước vân du học đạo,trải qua mấy chục năm không về thăm quê được.Quê hương sinh ra Tổ nay đã đổi đời,tang thương dâu bể,vật đổi sao dời không còn dấu tích ngày xưa.Tổ cũng lớn lên theo năm tháng và được bổ làm Trú trì chùa Hòe Nhai (Hà Nội).
Một hôm Tổ có dịp đi qua thôn cũ,thấy một cái chòi rách nát, trong đó có bà cụ bán nước và cau trầu để độ thân sống qua ngày tháng.Khi vào trong quán,Tổ nhận ra ngay bà bán quán ấy là mẹ mình.Tuy nhiên,Tổ vẫn làm như người không quen biết.Tổ hỏi thăm bà cụ về quê hương,nhưng bà cụ này không hay biết rằng người đối diện với bà chính là con đẻ của mình.Một thoáng suy nghĩ Tổ mới nói với bà cụ: “Thưa cụ,một mình cụ ở đây đêm hôm đơn chiếc lấy ai giúp đỡ,nếu bà cụ về chùa tôi làm công quả thì hay biết mấy.” Bà cụ rất mừng và nói rằng: “Nếu Sư cụ cho phép thì con sẽ về và xin được ăn mày công đức Sư cụ. Thế là bà cụ được đưa về chùa để làm công quả.
Khi đến chùa,Tăng chúng và bổn đạo đông đúc nên Tổ không nói cho ai biết.Tổ im lặng bố trí chỗ ở cho bà cụ và phân bố công việc hằng ngày cho bà cụ làm, đặc biệt Tổ khuyên bà cụ vừa làm vừa niệm Phật thường xuyên.Mỗi ngày Tổ ra sân lấy gậy khoanh một đám cỏ cho bà cụ nhổ,tùy theo sức khỏe của bà cụ mỗi ngày đám cỏ được khoanh nhỏ lại.Ngày ngày làm công quả như thế,sức khỏe của bà cụ cũng theo năm tháng suy yếu dần.Cho đến một ngày kia,thân không còn vật lộn được với thời gian,bà cụ đã từ giã cõi đời và ra đi vào buổi hoàng hôn bên cạnh tình thương và sự hộ niệm của chúng tăng.Cái gì có hình thì có hoại.Bà cụ đã kết thúc thân mạng tại khuôn viên của một ngôi chùa cổ kính.Tổ vẫn diềm nhiên lo liệu khâm liệm xác mẹ,cho đến khi nắp quan tài từ từ khép lại, đứng trước quan tài mẹ,Tổ mới nói cho Tăng chúng và bổn đạo biết,người trong quan tài này chính là mẹ đẻ của mình.Khi nghe Tổ nói,ai ai cũng rơi lệ.Có người nghĩ Tổ là vị chân tu,nên không cho ai biết.Có người nghĩ Tổ đề phòng rằng,nếu Tổ nhận mẹ ngay thì tâm lý ỷ thị của bà cụ làm Tăng chúng phật lòng chăng.Riêng Tổ thì vẫn im lặng cầu kinh.
Tuy là việc hiếu đạo bình thường trong chốn Thiền môn,nhưng người đời sau thường hay nhắc nhở và kể cho con cháu mình biết về vị Tổ này.Người ta thường kết hợp tên đạo (Tổ) và sự việc khi còn ở đời (Cáy) để chỉ cho một vị chân tu.Đạo đời hợp nhất.Không phô trương nhưng vẫn có ý nghĩa. Đạo và đời tuy hai mà một và được gọi là: Chuyện kể về Tổ Cáy.
(Thức Biến-Thích Thiện Siêu-NXB.TPHCM 2002)
77. ĐI TU MÀ CHẲNG TRỌN ĐỜI
Có một vị sư nổi tiếng chân tu,lại học rộng.Một hôm,Phật báo mộng cho sư biết rằng sư sẽ đắc đạo,sau khi dự một cuộc thi ở Thiên Đình.Tỉnh dậy,sư rất mừng, từ đó ngày đêm chăm chỉ ôn luyện kinh kệ và tập ấn quyết thật tinh thục.Mọi việc đều thành thạo nhưng nhà sư chợt nghĩ:Mình lục trì thần thông đều đủ cả,duy chỉ có một việc chưa từng biết là cơ thể đàn bà.Nếu lên thiên đình,hỏi đến cái mục ấy thì biết đường nào mà trả lời.
Nhà sư khẩn khoản nhờ bác giữ chùa giúp đỡ mình.Bác giữ chùa đi từ đầu làng đến cuối chợ,chả tìm được ai cả, đành về nhà dỗ vợ,ngọt nhạt mãi chị vợ mới nhận lời.
Tìm hiểu được cơ thể đàn bà rồi nhà sư rất thỏa mãn.
Nhưng từ đó, sư đâm ra ngớ ngẩn,kinh kệ và cúng giàng chả thiết gì nữa, ấn quyết cũng mất linh nghiệm.Phật mới biết chuyện,nổi giận,cho Thiên lôi đánh chết và bắt sư hóa ra con ếch.Vì thế, mới có câu ca dao:
Đi tu mà chẳng trọn đời,
Sinh ra con ếch,cho người lột da.
78. CỦA THIÊN TRẢ ĐỊA
Ngày xưa có Thiên và Địa là hai anh chàng cày thuê cuốc mướn ở một làng.họ giống nhau ở chỗ anh nào anh nấy đều nghèo rớt mồng tơi và đều mồ côi cha mẹ.Nhưng Thiên rất sáng dạ,bảo gì hiểu nấy.Một hôm Địa bảo hắn:
-Nếu hai ta cùng như thế này cả thì không biết bao giờ mới cất đầu lên được.Sẵn anh là người có khiếu thông minh,nếu được học hành chắc ngày sau sẽ thi đậu làm quan to.Vậy từ nay anh đừng đi làm nữa ,tôi sẽ cố sức làm thêm để lấy tiền nuôi anh ăn học.Lúc nào anh làm nên, đôi ta sẽ chung hưởng phú quý.
Thiên nhận lời nhưng Địa còn dặn:-“Lúc nào hiển đạt anh đừng có quên tôi nhé!”.
Rồi đó Địa trần lực đêm ngày làm thuê để nuôi bạn.Thấy Thiên học mỗi ngày một tiến,anh chàng lại càng hăng hái làm việc,không quản gì cả.Cứ như thế, sau mười năm đèn sách,Thiên đậu khoa thi Hương rồi vào thi Đình đậu luôn Trạng Nguyên.Hắn được nhà vua bổ làm quan to,có kẻ hầu người hạ đông đúc,có dinh thự nguy nga, được mọi người trọng vọng.
Được tin, Địa rất sung sướng.Lập tức,anh chàng đem trâu cày về trả chủ.Rồi anh bán phăng cái nhà ở,lấy một số tiền mua đồ lễ tìm vào dinh bạn. Địa có ngờ đâu,khi đến nơi thì Thiên đã thay lòng đổi dạ không muốn nhận lại bạn cũ nữa.Hắn dặn quân canh cấm cửa không cho Địa vào. Địa bị đuổi tủi thân,lủi thủi ra về.Vừa đến bờ sông,anh chàng ngồi lại,nước mắt rơi lã chã,nghĩ đến lòng người đen bạc,số phận hẩm hiu,và bấy giờ về làng cũng không biết ở vào đâu nữa vì nhà đã bán mất rồi.Tự dưng Bụt hiện lên làm một người khách qua đường,dừng lại hỏi anh:
-Con làm sao mà khóc?
Địa kể lể đầu đuôi cho Bụt nghe.Bụt bèn hóa phép cho anh một chiếc đò và dặn rằng:
-Con cứ ở đây chở khách qua lại trên sông này cũng đủ ăn,không phải đi làm thuê nữa.
Địa nghe lời, ở lại đó làm nghề chống đò ngang.Nhưng anh chàng chỉ kiếm vừa đủ nuôi miệng,không để dành được một đồng tiền nào.Cho nên đến ngày giỗ cha chẳng biết lấy gì mà cúng.Chiều hôm ấy, sau khi chở cho mấy người khách sang bờ bên kia, Địa vừa chèo về đến nửa sông đã lại nghe có tiếng gọi đò.Anh lại cho đò trở lại,Khách là một người đàn bà còn trẻ tuổi và rất xinh đẹp.Trời lúc ấy đã nhá nhem,người đàn bà nói với Địa:
-Trời đã tối mà đường còn xa,anh làm ơn cho tôi nghỉ nhờ một đêm.
Nhà Địa chỉ là một túp lều bên sông,trong nhà chỉ có một cái chõng,nhưng anh cũng nhường cho người đàn bà ấy nằm.Thấy Địa đi kiến một nơi khác ngủ,người đàn bà bỗng hỏi anh:
-Anh đã có vợ chưa?
Địa trả lời:
-Chưa.
-Tôi xin làm vợ anh!
Địa nghe rất ngạc nhiên và bỡ ngỡ,không biết nên trả lời như thê nào cả.Nàng lại nói:
-Tôi là người trên cung tiên.Trời thấy anh là người tử tế mà chịu khổ đã nhiều rồi nên cho tôi xuống giúp anh sung sướng.
Nói rồi nàng hóa phép biến túp lều bên bờ sông thành một dinh cơ rất đẹp;nhà ngói,tường dắc,hành lang,sân gạch,trong nhà đồ dùng thức đựng đầy đủ,kẻ hầu người hạ từng đoàn.
Địa vừa kinh lạ vừa vui sướng.Nàng tiên lại hóa phép làm ra cỗ bàn linh đình để cho anh chàng làm giỗ cúng cha.Sáng hôm sau,nàng tiên bảo Địa hãy mặc đồ gấm vóc,ngồi kiệu đến mời Thiên sang nhà mình ăn giỗ.Lần này Địa được Thiên tiếp đãi có phần tử tế.Nhưng khi nghe nói mời đến nhà ăn giỗ,hắn bĩu môi bảo Địa:
-Chú muốn ta đến chơi thì hãy trải chiếu hoa từ đây tới nhà,ta sẽ đến.
Địa về kể chuyện lại cho vợ nghe.Nàng tiên lại hóa phép thành chiếu hoa trải một đoạn đường dài từ nhà mình đến dinh Thiên ở.Thiên không ngờ trong thời gian vừa qua Địa cũng trở nên giàu có lớn,mới đến xem cho biết sự tình. Đến nơi,hắn rất lấy làm lạ khi thấy nhà cửa và mọi thứ đồ đạc của Địa ít có nhà nào bị kịp.Khi ăn giỗ,vợ Địa thân hành ra mời rượu.Thấy nàng đẹp quá,Thiên đâm ra ganh tỵ với hạnh phúc của Địa.Rượu say,hắn nói:
-Chú đổi vợ chú cùng cơ nghiệp này cho tôi thì tôi nhường chức quan cùng dinh cơ của tôi cho chú.
Không bao giờ Địa lại muốn như thế,nhưng nàng tiên bảo nhỏ,xui Địa bằng lòng.Hai bên cùng làm tờ giao ước.Thế rồi sau đó Địa lên võng về dinh,còn Thiên say rượu nằm ngủ một giấc li bì.Nhưng đến sáng hôm sau,khi bừng mắt tỉnh dậy,hắn ngơ ngác thấy mình nằm ở giữa một túp lều bên sông.Người vợ đẹp cùng là dinh cơ của hắn ngày hôm qua đã biến đâu mất cả.Từ đó hắn làm nghề chống đò thay Địa.Còn Địa hóa ra thông minh khôn ngoan,làm quan sung sướng mãi.[2]
Ngày nay câu Của Thiên trả Địa là do sự tích trên mà có.[3]
79. NGƯỜI ĐÀN BÀ MẤT TÍCH
Vào đời nhà Lê,có một người đàn bà trẻ tuổi,lấy chồng họ Mai.Một hôm nghe tin người chị ruột của mình bị đau nặng,nàng bèn nói với chồng để mình đi lại chăm sóc thuốc men vì nhà chị rất neo người.
Nhà người chị ở một làng cách đây chừng ba dặm đường.Người đàn bà đi về không chừng:có hôm sáng đi tối về, có hôm ngủ lại đó sáng mới trở về.Như thế đã được ba lần.Lúc này,mùa màng rỗi rãi nên chồng để cho vợ tự do.
Bệnh tình người chị ngày một nguy kịch.Người đàn bà lại đi thăm.Nhưng lần này người chồng thấy nàng có đi mà không về.Cho rằng vợ mình phải ở lại trông nom chị,nên chồng không ngờ vực gì cả.Nhưng suốt ngày thứ hai cho đến ngày thứ ba vẫn không thấy vợ trở về.Chồng lúc này mới sốt ruột,vội nhờ một người sang nhắn vợ bảo cố về sớm để thu xếp một món nợ.
Nhưng người ấy về cho biết rằng,bên nhà người chị không thấy em sang,và họ đang có ý trông đợi.Nghe nói thế,cả nhà họ Mai hoảng hốt,vội chia nhau đi tìm khắp mọi nơi.Nhưng suốt một tháng tìm tòi,khắp từ chợ búa đến bến đờ, đến rừng rú mà chả thấy tăm hơi đâu cả.Người chồng đau xót đến cùng cực,cuối cùng đổ vạ cho nhà chị.Một hôm đến gây sự,chửi nhau một trận,rồi phát đơn kiện lên quan.
Quan nhận đơn, đòi bị cáo đến hỏi cung.Người anh rể cứ sự thực khai rằng mình hoàn toàn không biết gì về việc mất tích của người em vợ.Tra hỏi cả đến thân thích xóm làng hai bên cũng không thấy hé ra một tia sáng nào.Hơn một năm,phủ đường một mặt cho thám tử đi dò la,mặt khác ra sức về các xả thôn truy tìm,vẫn không thấy một dấu vết gì có thể theo dõi được.Thế rồi sáu bảy lần khai ấn trôi qua,hồ sơ vụ án ấy đàng bỏ xó trong phủ đường.Hai viên quan mới thay nhau đến tiếp chân quan cũ cũng chịu không sao tìm ra manh mối.
Về sau,một hôm có một ông quan họ Nhữ mới đổi đến.Quan tuy đã đổ Tiến sĩ nhưng trông mặt còn non trẻ, đến nỗi lúc đứng giữa đám nha lại tổng lý, chả một ai biết đó là người có chức vị cao.Khi xem lại những tập hồ sơ còn đọng, ông tỏ vẻ chú ý đến vụ án người đàn bà mất tích này.Nha lại bảo ông:
-Các quan lớn trước cũng đã dùng đến bao nhiêu người để điều tra,không phải chỉ có trong một phủ,một tỉnh mà rộng sang các tỉnh lân cận,nhưng cuối cùng cũng đành bó tay.Họa có Bao công tái sinh, án này mới sáng tỏ được.
Ông nói với họ:
-Không hiểu hồi ấy người ta có tra xét từ gần đến xa không,hay chỉ nhằm vào xa mà nhãng bỏ gần? Tôi,tôi quyết định xét lại vụ này một chút.
Từ đó, viên quan trẻ tuổi suy nghĩ rất nhiều về cái án đó.Lần lượt ông cho đòi người anh rể,nhà chồng và một vài người làm chứng đến hỏi từ nét mặt,cách sống,lối ăn mặc của người mất tích.Người ta cho biết là nàng đẹp và đoan chính. Ông lại bảo họ vẽ phác cho mình một bản đồ về con đường đi từ nhà em sang nhà chị,lối chính,lối tắt như thế nào,qua những nhà ai,v.v…Khi thầy con đường tắt phải đi qua một cánh đồng vắng, ở đây có một ngôi chùa;muốn đi từ chùa đến xóm phải giập bã trầu mới tới. Ông lẩm bẩm một mình:-“Có thể đầu mối nằm ở đây chăng?”
Ông liền bí mật cải trang làm một người lái buôn dạo qua đoạn đường đó một chuyến.Nhìn thấy ngôi chùa lớn,xung quanh chùa lại có cây cối rậm rạp, ông không ngăn được mối ngờ vực. Ông sai một ả kỹ nữ giả cách mang vàng hương đến chùa ấy lễ Phật.Bọn sư trẻ thấy có bóng dáng phụ nữ vào chùa,xông đến như mèo thấy mỡ.Ả ca kỹ liếc mắt đưa tình làm cho bọn chúng không thể giữ được bộ mặt từ bi đạo mạo.
Khi đã nắm khá đủ mọi tình tiết,quan bèn sắp quân trẩy đến chùa.Sư cụ ra tiếp đón rất lễ phép.Quan nói:
-Tôi nhân tiện đi hành hạt,nghe nói đây là một nơi linh ứng nên vội đến đây lễ Phật và xin cầu mộng,phiền nhà chùa cho nghỉ tạm một đêm.
Sáng sớm hôm sau,quan dậy rất sớm.Các quân sĩ đã ra được lệnh sẵn gươm giáo sáng lòa đứng vây bọc quanh chùa.quan cho dời tất cả sư tăng và tất cả mọi kẻ ăn người ở trong chùa ra hỏi:
-Chùa chiền là một nơi tu hành nhân đức,thế mà tại sao đêm qua ta nằm mộng thấy một người đàn bà trẻ tuổi đến kêu van thảm thiết rồi kể hết sự tình với ta.Vậy nếu có kẻ nào phạm tội hãy mau mau tự thứ sẽ có sự khoan hồng.Bằng không ta sẽ tra khảo,những đứa liên can nhất định sẽ làm án chém hết.
Nghe lời truyền phán dõng dạc,cả chùa đều xanh ngắt.Cuối cùng có một bọn gian ác giả làm tin rằng “Oan hồn hồn hiện”không thể cưỡng được nữa,nên bọn họ liền quỳ xuống thú tội.Số là hôm ấy trời mới mờ sáng,nhân thấy có người đàn bà đi qua trước cổng chùa,ba tên gian ác giả làm tăng xồ ra bịt miệng đưa vào lùm cây thay phiên nhay hãm hiếp.Rồi sợ lộ chuyện,chúng bóp chết người đàn bà và chôn ở gần chùa,dần dần lấy đá đè lên cho mất tích.
Quân lính được lệnh đàolên,quả tìm được hài cốt người bạc mệnh,Quan cho gọi thân nhân đến nhận về chôn cất.Bọn ác tăng đều bị điệu về phủ đường xét xử.Bọn sư trẻ tuổi “trốn việc quan đi ở chùa”này là bọn giả làm sư đều bắt hoàn tục.
Khi tin ấy truyền ra,mọi người đều vui mừng hể hả.Và cũng từ đấy người ta khai quan đã trả lại sự thanh tịnh cho chốn Thiền môn.Nhà vua cho gọi họ Nhữ về triều phong làm Thượng thư bộ Hình.[4]
80. NGƯỜI DÂN NGHÈO VÀ NGỌC HOÀNG
Ngày xưa,có một nhà kia trải qua đã mấy đời sống trong cảnh khố rách áo ôm. Đến đời người cháu nội là một anh học trò không đất cắm dùi.Ngày ngày anh cố công làm thuê làm mướn để tối đến học năm ba chữ,may chi thay đổi được số phận,nhưng mãi đến năm ba mươi tuổi,cuộc sống của anh vẫn không nhích lên được tý nào.Không chịu được nỗi đói khổ dằn vặt,một hôm anh ngồi than thở một mình:
-Tục ngữ có câu: “Không ai giàu ba họ,không ai khó ba đời”.Ấy vậy mà ba đời nay dòng họ mình là toàn đói rách xơ xác,ta nghe nói ngoài biển Đông có Ngọc hoàng Thượng đế từ trên trời thường xuống ngự trên một hòn đả,vậy ta phải đi tìm một phen để hỏi cho ra lẽ.
Nghĩ vậy,anh bèn khăn gói quả quyết lên đường.
Anh cứ ngày đi đêm nghỉ đã được mươi hôm.Vì tiền,lương thực mang đi không có bao nhiêu nên chóng cạn. Đành phải lần vào một nhà nọ để xin giúp đỡ.Người chỉ này là một phú ông.Phú ông sai người dọn cơm nước đãi anh tử tế, đoạn hỏi:
-Anh đi đâu có việc gì?
Người học trò không giấu diếm một tý nào có:
-Nghe nói Ngọc hoàng Thượng đế từ trên trời thường xuống ngự trên một hòn đảo ngoài biển Đông,tôi cất công đi tìm Ngọc Hoàng để hỏi tại sao mà người ta thường nói: -“Không ai giàu ba họ,không ai khó ba đời”, thế mà nhà tôi đói khó từ ba đời nay không cất mặt lên được.
Nghe đoạn,phú ông đưa chi anh học trò một số tiền ăn đường,và nói:
-Thế thì nhân thể anh làm ơn hỏi giúp Ngọc hoàng cho tôi một việc.Nhà tôi từ xưa đến rày không hề làm việc ác đức,vậy mà không hiểu tại sao vợ chồng tôi chỉ sinh hạ có mỗi một mụn con gái mà lại câm từ thuở nhỏ.
Người học trò gật đầu nhận lời,rồi lên đường,tiếp tục cuộc hành trình,nhưng số tiền ăn đường của anh chẳng mấy chốc lại hết veo.Anh lại lần vào nhà một người nọ ở dọc đường để cầu giúp đỡ.Người chủ nhà này cũng đãi đằng cơm nước tử tế, đoạn hỏi anh về mục đích chuyến đi.Anh cũng kể lại tỉ mỉ số phận đen đủi của mình cùng với ý định đi tìm Ngọc hoàng Thượng đế.Nghe hết câu chuyện,người kia mang tiền gạo ra tặng anh,và nói:
-Nếu anh đi gặp Ngọc Hoàng Thượng đế thì nhân thể làm ơn hỏi hộ cho tôi việc này một tý.Nguyên nhà tôi có trồng mấy cây cam,không hiểu tại sao cây tốt sum suê mà lại không hề có quả.
Người học trò nhận lời và lại tiếp tục lên đường.anh đi mãi rồi cũng đến đích.Nhưng khi muốn vượt biển để tìm đến hải đảo,chỗ Ngọc Hoàng thường ngự xuống thì thấy một trời một nước mênh mông,chẳng có thuyền bè gì cả.Anh ngồi ở lại trên bờ chờ đợi.Chờ luôn ba hôm không thấy gì, anh không khỏi sốt ruột.Bỗng một hôm anh trông thấy một con ba ba khổng lồ nổi lên mặt nước bơi vào bờ,hỏi anh có việc gì mà ngồi chờ ở đây.Người học trò liền kể hết tâm sự của mình cho ba ba nghe và nói lên điều mong mỏi trước mắt là chờ gặp một con thuyền để đi nhờ ra đảo.Ba ba nghe vậy liền bảo:
-Anh cứ trèo lên lưng tôi, tôi sẽ vui lòng đưa giúp anh ra đến tận đảo.Nhưng thân thể nhờ anh hỏi hộ Ngọc Hoàng cho tôi là tại sao tôi sống ở đây đã được một ngàn năm rồi mà vẫn cứ thế này mãi chứ không thay đổi.
Người học trò lại nhận lời của ba ba.Anh ngồi lên lưng ba ba để cho con vật rẽ sóng đưa mình băng qua muôn trùng sóng nước. Đảo xa mù tít ngày một rõ dần.Không bao lâu,bàn chân anh đã giẫm lên đảo.Anh còn tiếp tục đi một đoạn đường rất dài và trèo lên tận đỉnh một ngọn núi.Theo lời chỉ dẫn thì đây chính là chỗ Ngọc Hoàng thỉnh thoảng thường ngự xuống nghỉ ngơi.Cho nên,anh dừng chân lại và gắng sức chờ đợi.Quả nhiên ba hôm sau,vào một buổi sáng,bỗng có một vầng sáng từ trên trời bay vụt xuống đỉnh núi,Ngọc Hoàng từ trong vầng sáng bước ra rồi khoan thai tới ngự trên một cái ngai đầy châu báu rực rỡ.Không rụt rè một tý nào anh học trò tiến đến trước mặt Ngọc Hoàng quỳ xuống tâu xin.Nhìn thầy anh,Ngọc Hoàng chau mày:
-Nhà ngươi muốn cái gì mà đến đây?
Người học trò chưa vội hỏi việc của mình,anh bắt đầu kêu hộ việc của ba ba.Ngọc Hoàng nghe xong,liền nói:
-Nó có hòn ngọc ở trong cổ nên không hóa kiếp được.Chỉ cần bỏ ngọc ra là hóa được ngay.
Anh lại đem việc của người trồng cam ra tâu.Ngọc Hoàng bảo:
-Những cây cam ấy không có quả là vì dưới gốc của chúng có vàng.Kim khắc mộc nên mới như thế.
Học trò lại chuyển sang hỏi hộ cho người con gái câm,Ngọc Hoàng bảo:
-Nó không nói được là vì chưa có ông trạng nào đến “khai khẩu”cho nó.
Người học trò sắp sửa chuyển sang hỏi việc cho chính mình,thì không ngờ Ngọc Hoàng Thượng đế thấy anh hỏi mãi nên bực mình,gắt:
-Bực quá! Ta đến ngồi ở đây tưởng cách biệt với Thiên đình để kiếm chút yên tĩnh,không ngờ lại bị bọn trần gian tìm đến quấy rầy.
Nói đoạn,Ngọc Hoàng vội cưỡi mây bay về trời.Cho là số phận của mình đen đủi nên mới xui ra vậy,anh học trò đành ngậm ngùi quay trở về. Đến bờ biển đã thấy ba ba chực sẵn ở đó, nó bảo anh trèo lên, trở vào đất liền,rồi hỏi:
-Việc của tôi thế nào?
-Tại trong cổ mày có hạt ngọc mà mày thì cứ khư khư giữ mãi không chịu bỏ ra,nên không thể hóa kiếp được!
Ba ba bèn nhả viên ngọc ra đưa biếu anh và chỉ một chốc sau nó được đầu thai làm kiếp khác.
Anh học trò lại lần theo đường cũ trở về. Đến nhà có cây cam,người chủ ra đón anh,hỏi:
-Việc của tôi thế nào?
-Vì dưới gốc cây có vàng chôn,cứ đào lên là khắc có quả.
Người làm vườn bèn lấy thuổng đào,quả tìm thấy dưới mỗi gốc cây có một chĩnh vàng.Ông ta vui lòng chia cho người có công đi hỏi giúp mình một chĩnh.
Anh học trò lại lên đường về.Đi ngang qua kinh thành nhà vua thì một không khí tấp nập làm anh chú ý. Ở đây người ta đang mở khoa thi để kén Trạng nguyên.Nhờ có viên ngọc,anh học trò đã trở nên sáng dạ lạ thường, bao nhiêu kinh sử ôn đến đâu thuộc làu đến đấy.Vì thế anh bèn nấn ná ở lại.Sẵn có vàng,anh sắm sửa mọi thứ:quyển thi,lều chiếu và lễ vật…để được có tên vào danh sách ứng thí.Khoa ấy, văn bài của anh làm rất xuất sắc.Chánh chủ khảo lấy anh lên đầu bảng.Nhà vua vô cùng khen ngợi vì kén được nhân tài xứng đáng,phong cho anh đậu Trạng nguyên.
Sau đó ít lâu Trạng cưỡi ngựa vinh quy.Một đoàn lính tiền hô hậu ủng theo Trạng cùng đi.Khi đi qua nhà phú ông,Trạng vẫn không quên lời hứa ngày nọ.Chàng bèn dừng ngựa ghé vào.Phú ông lấy làm ngạc nhiên khi thấy có quân gia kéo vào nhà mình,liền khăn áo chỉnh tề ra tiếp đón.Thấy Trạng không phải ai khác hơn người học trò nghèo đi hỏi Ngọc Hoàng dạo trước,phú ông lại càng bội phần kinh ngạc.Nhưng Trạng vừa truyền cho phú ông biết câu trả lời của Ngọc Hoàng Thượng đế,thì từ buồng trong,cô gái câm đã bước ra mỉm cười cúi chào Trạng và tự nhiên thốt lên thành lời. Để cám ơn người có công giúp mình,phú ông bèn đem con gái gả cho Trạng làm vợ.[5]
Khảo dị:
Một số truyện khác của Việt Nam dường như xuất phát từ một số hình tượng chính của truyện Người dân nghèo và Ngọc Hoàng mà phát triển thành,ví dụ truyện Nhà sư và cá kình (giống với hình tượng người học trò và con ba ba):
Một nhà sư trụ trì đã lâu năm mà chưa thành chính quả,một hôm mộng thấy thần linh bảo phải đi đến nước Phật để tìm một cầu tụng niệm,rồi tự mình tụng lấy thì đắc đạo.Sư ra đi với một đám đệ tử,nhưng đường sá gian nguy,các đệ tử rơi lại dọc đường,còn một mình sư không nản chí. Đến bờ biển không có thuyền bè nào dám chở.Một con cá kình ngẫu nhiên qua đó ghé cho sư lên.Biết sư đi tìm Phật,cá nhờ hỏi Phật cho một câu.Sư ta nhận lời (nhưng như vậy là phạm tội vì đáng lý phải làm thinh). Cá nói mình đã sống một nghìn năm một trăm năm nay và gần đây để chuộc lỗi lầm cũ,không hề ăn một con tép nhỏ,nhưng không hiểu sao vẫn chưa thành chính quả.Sư sợ cá bỏ mình dọc đường (ý nghĩ đó là phạm lỗi lần thứ hai)nên tuy biết không thể hỏi được nhưng cũng hứa liều ( phạm lỗi lần thứ ba). Cám ơn sư,cá chở đến tận bờ. Đến nơi,sư nhận được của Phật một quyển kinh trong đó có câu tụng niệm,nhưng vị lỗi lầm làm mờ ám,sư chỉ đọc được câu đầu sách và lặp đi lặp lại : “Nam-mô A Di Đà Phật”. Sau đó sư bỏ kinh vào đãy trở về.
Đến bờ biển gặp lại con cá kình cũ.Sư lại trèo lên lưng cho nó trở về. Đến nơi cá hỏi,sư run rẩy vì lỗi lầm của mình nên đánh rơi đãy.Cá tưởng Phật cho mình bèn nuốt chửng đãy kinh rồi đi luôn.Sư bước lên bờ: đây là đảo Phú Quốc.Sư dừng lại ở đây Trụ trì,và sau đó ghi lên hang núi một câu: “Kẻ đệ tử đã đi sang Tây Trúc tìm được câu tụng niệm là “Nam-mô A Di Đà Phật.[6]
81. SỰ TÍCH NÚI ÔNG TRỊNH VÀ NÚI THỊ VẢI
Sách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức có chép chuyện về “Núi Nữ Tăng”, như sau:
“Tục danh núi Bà Vải, ở địa phận huyện Long Thành.Xưa có người con gái họ Lê,gia tư giàu có,nhưng bị lỡ thời,sau khi cha mẹ mất rồi mới có chồng.Nhưng không bao lâu chồng lại chết,bà thề không tái giá.Kẻ cường hào có thế lực cậy mai mối thường đến quấy nhiễu bà.Bà bèn cạo đầu,lập một cái am ở đỉnh núi tự làm thầy cả,cùng bọn đồng bộc giữ lòng tu trì,sau được thành chính quả,nên người ta nhơn đó lấy tên bà đặt làm tên núi.”
Lại có một thiên tình sử bi đát khác giải thích tên núi Thị Vải và tên một ngọn núi khác ở vùng này:núi Ông Trịnh.
Ngày xưa,có một phú ông rất giàu,vợ mất sớm,không có con trai nối dõi tông đường. Ông chỉ có một đứa con gái tên là Thị Vải.
Thị Vải tuy không đẹp,nhưng nhan sắc mặn mà dễ coi.Vì là con nhà giàu,hơn nữa nhà không có con trai,nên Thị Vải cũng theo học võ nghệ,cử chỉ đi đứng như con trai.
Khi phú ông đã già,Thị Vải cũng đến tuổi phải lấy chồng.Phú ông đem việc chồng con,việc thừa tự nói với nàng
Thị Vải trả lời:
-Nếu chàng trai nào đánh hạ được con thì con xin làm vợ người ấy.
Vì cưng con nên phú ông cũng chiều theo và cho lập võ đài để tỷ thí.
Thanh niên trai trẻ khắp vùng lân cận lăm le muốn làm rể phú ông, đã ráo riết luyện tập để đến so tài cùng Thị Vải.Nhưng suốt một tháng trời thi đấu,không có chàng trai nào võ nghệ hơn nàng.
Chờ mãi không thấy ai đến tranh tài nữa,võ đài cũng được dẹp đi,việc chồng con của Thị Vải,phú ông không nhắc đến nữa.Một thời gian sau,phú ông bị bệnh rồi mất.
Thị Vải đứng ra thay cha quản lý ruộng đất,coi sóc việc trong nhà.Trong số người ở có anh lực điền tên Trịnh,giỏi dang,siêng năng,rất được chủ tin dùng.Những công việc quan trọng trong nhà đều giao cho chàng Trịnh.
Một hôm,nàng cùng Trịnh đi coi ruộng của tá điền để định lúa tô.Trên đường đi có một dòng suối nhỏ chắn ngang.Bình thường đi qua lại không có gì khó khăn lắm,nhưng bữa nay,vì chiều hôm trước mưa to quá nên nước dâng tràn lên bờ suối,chảy rất xiết.Lội qua thì không được, đi vòng lên phía thượng nguồn thì mất thì giờ.Phân vân một lúc cả chủ và tớ cũng chưa biết tính sao.
Vì phải đi nhiều nơi,không thể chần chờ được nên Thị Vải bảo:
-Hay là anh cõng tôi rồi lội qua vậy.
Trịnh còn đang do dự,thì Thị Vải nói:
-Ngại là tôi đây,tôi còn không ngại mà anh lo cái nỗi gì.Ta đi thôi,kẻo trưa rồi.
Thế là Trịnh phải kê vai cõng Thị Vải lội qua suối.Không biết có phải vì chàng mất bình tĩnh hay vì nước sâu lại chảy xiết,nên chàng vấp phải đá dưới chân,ngã sấp xuống nước.Bị nước cuốn mạnh,Thị Vải sắp va đầu xuống nước.Bị nước cuốn mạnh,Thị Vải sắp va đầu vào gộp đá gần đấy,hai tay quơ tìm chỗ để bám.Thấy chủ nguy ngập,Trịnh không còn e dè gì nữa,nhào phăng tới ôm lấy,Thị Vải đang chới với, được Trịnh tới cứu nên Thị Vải bám chặt lấy chàng.Cứ như thế Trịnh ôm Vải sang bờ phía bên kia.
Đến bờ,Trịnh buông Thị Vải ra,hai người mặt đỏ bừng,không nói với nhay lời nào,rồi tiếp tục lên đường.
Ba ngày sau khi về nhà,không hiểu Trịnh suy nghĩ những gì mà chàng bỏ nhà đi mất,Thị Vải cho người tìm cũng không thấy.Sau cùng đích thân nàng đi tìm,rồi cũng không thấy nàng trở về.
Sau đó ít lâu,người ta tìm thấy xác của Trịnh ở một đỉnh núi,còn xác của Thị Vải ở một đỉnh núi khác.Có người biết chuyện cho rằng vì hai người có tình ý với nhau nhưng trong nghịch cảnh giàu nghèo không thể lấy nhau được, đành phải gặp nhau ở suối vàng.Và cũng từ đó,dân trong vùng gọi núi này là núi Ông Trịnh,núi kia là núi Thị Vải.
(Theo Truyện kể dân gian Nam bộ của Nguyễn Hữu Hiếu).
(Nghìn Năm Bia Miệng-Huỳnh Ngọc Trảng,Trương Ngọc Tường-NXB.TPHCM 1993).
82. BỐN CÔ GÁI MUỐN LẤY CHỒNG HOÀNG TỬ
Ngày xưa, có vợ chồng một nhà phú hộ nọ sinh được bốn cô con gái.Lớn lên,cô nào cô ấy nhan sắc xinh đẹp,trong vùng khó có ai sánh kịp.Cha mẹ các cô muốn tìm nơi môn đăng hộ đối để gả chồng nhưng khi hỏi đến, cả bốn cô đều trả lời:
-Chúng con chỉ muốn lấy chồng hoàng tử.
Cha mẹ các cô bảo:
-Chúng mày là con nhà dân, những hạng con vua,cháu chúa trong thiên hạ thiếu gì bậc “quốc sắc thiên hương”.Làm sao lại mơ tưởng xa xôi như vậy cho khổ tấm thân.
Song dù khuyên dỗ thế nào,các cô cũng không chịu nghe.Lâu rồi,vợ chồng phú hộ tức mình,bèn cho mỗi cô một nén bạc,bảo đi đâu thì đi cho khuất mắt.Bốn chị em cầm lấy bạc và rủ nhau lên đường tìm đến kinh kỳ.
Buổi chiều ngày thứ hai,họ đi trên một đoạn đường vắng toàn đồi núi. Đi mãi,mặt trời sắp lặn mà chẳng gặp một ai.Cuối cùng đến một ngã ba đường họ gặp một bà già.Mừng quá,các cô xúm lại hỏi thăm:
-Thưa bà,nhà bà ở đâu?
Bà già cũng tỏ bộ thân mật:
-Chà các con đi đâu đây?
-Chúng con tiến kinh, đến đây thì trời tối.
Chỉ vào một lùm cây xa xa,bà già nói:
-Nhà già ở trong kia.
-Bà làm ơn cho chúng con nghỉ nhờ một tối,có được không?
-Nếu các cô không chê nhà già chật hẹp thì xin mời các cô ghé nghỉ.Nào,các cô hãy đi theo tôi.
Không ngần ngại,bốn chị em gái đi theo bà già,qua một đoạn đường khá dài thì đến một lùm cây,trong có một ngôi nhà nhỏ.Chỉ vào một cái giường,bà già nói:
-Giường đấy, các con có thể nằm ở đây,còn già thì ngủ ở trong buồng kia.
Thấy nhà vắng vẻ,các cô lại hỏi:
-Thưa bà,bà ở một mình?
-Có đứa con gái nó đi vắng mấy ngày nay chưa thấy về.
Vì đi đường mệt,các cô trèo lên giường làm một giấc li bì.Chỉ có cô Út gì giường chật lại nằm mé ngoài,không ngủ được.Cô bỗng ngửi thấy phảng phất một mùi tanh.Chờ khi nghe tiếng bà già ngáy rống ở trong buồng,cô mới lén dậy tìm khe cửa nhìn vào.Thì ra dưới giường nằm của bà già, đầu lâu và xương trắng vứt khắp nơi,ruồi nhặng lao xao,mùi tanh xông ra đến lợm mửa. Đúng đó là nhà một con yêu cái chuyên đi dỗ trẻ về ăn thịt.Thấy bốn cô gái trẻ măng đang cần chỗ nghỉ,yêu ta không còn mừng nào hơn thế, bèn rủ về lần lượt bắt chén thịt.Khi thấy rõ tình thế nguy ngập,cô Út liền đánh thức các chị dậy,rỉ tai kể cho nghe mọi việc,rồi nói:
-Đây là nhà yêu tinh,không còn nghi ngờ gì nữa.Vậy nhân lúc nó đang ngủ,chúng ta hãy mau mau trốn khỏi nơi này,nếu không thì tính mạnh chẳng toàn.
Cả mấy chị em lật đật mở cửa rồi ba chân bốn cẳng đi ra khỏi lùm cây.Nhưng đi chẳng được bao lâu,họ biết là mình lạc đường.Loanh quanh một hồi,họ bỗng gặp một ngôi đền.Chị em mệt quá vào ngồi nghỉ một lát.Nhưng rồi lại sợ yêu tinh thức dậy đuổi kịp,nên họ lại hối hả ra đi.Bấy giờ vị thần ở ngôi đền vốn biết bốn chị em là “quý nhân”, nên hiện ra trước mặt họ, ôn tồn hỏi:
-Các con đi đâu thế này?
Bốn cô gái đáp:
-Chúng con tiến kinh.
-Các con đi đêm khuya mà không sợ ư?
Bốn chị em kể cho nghe chuyện gặp yêu tinh và bị lạc đường.Vị thần nói:
-Ta là thần ngôi đền này.Hãy đi với ta,ta sẽ che chở cho đến tận kinh đô.
Nói rồi vị thần hóa thành một người cao lớn và bảo các cô đi theo,nép vào trong áo tơi của mình.
Đi được một chốc,bốn cô nghe có tiếng rầm rập ở đằng sau.Vị thần bảo:
-Hãy giữ hết sức yên lặng,con yêu đã đuổi kịp chúng ta.
Nói rồi thần bốc các cô lên ngồi trong túi áo mình,cứ hai cô một túi.Một chốc,con yêu đã bước kịp hỏi:
-Này lão kia,có thấy bốn đứa con gái đi đường này không?
Đáp:
-Có gặp,nhưng chúng đã rẽ về lối kia,lâu rồi.
-Quái lạ,tại sao ta có thấy mùi thịt người?
-Thế thì ta vừa mới ăn xong đấy,những thức ăn còn vứt dọc đường kia kìa,mày có đói thì trở lại nhặt mà ăn.
Khi con yêu quay đi,vị thần cứ để nguyên các cô gái trong túi áo mà bước đi vùn vụt.Gà chưa gáy canh năm đã tới cửa ô.Vị thần lại bốc các cô đặt xuống đất và nói:
-Bây giờ đã đến kinh kỳ.Trời cũng sắp sáng.Các con tìm quán mà nghỉ, để ta trở lại.
Vừa bước xuống đất,bốn cô cùng sụp lạy,hết lời cảm ơn cứu mạng.Nhưng khi họ ngẩng lên thì vị thần đã biến mất.
Bấy giờ trên con đường,người đi chợ mỗi lúc một đông.Các cô bước theo họ. Đến chợ thì trời đã sáng hẳn,người ta chen chúc nhộn nhịp.Bốn chị em dạo quanh một vòng.Những người đi chợ đều trầm trồ:
-Ồ, con cái nhà ai mà đẹp tựa trăng rằm thế kia!
Hôm ấy, có thị vệ trong cung cấm đi mua thức ăn,lúc trở về,họ tâu với Hoàng tử:
-Hôm nay chúng tôi đi chợ ô,thấy có bốn cô gái không biết ở đâu lại.Bốn cô rất đẹp, ít khi có người đẹp như vậy.
Hoàng tử sắp lên ngôi đang kén vợ,nghe nói thế, bèn cho thị vệ gọi bốn cô vào cung,và khi được giáp mặt thì chàng đâm ra sững sờ.Bèn tâu với vua cha xin lấy luôn cả bốn chị em làm vợ.
Lại nói chuyện khi yêu tinh quay trở lại,sục sạo tìm mãi không thấy bốn cô gái đâu.Miếng mồi ngon sắp lọt vào miệng lại để trượt mất,nên hắn tức giận tràn hông.Sau đó ít lâu,hắn nghe tin ở kinh lỳ cử hành hôn lễ của Hoàng tử lấy một lúc bốn chị em.Không ngờ bốn con mồi của mình lại trở thành vợ Hoàng tử,cơn giận của hắn đã lắng xuống bấy giờ lại bừng bừng bốc lên:
-Hừ,ta sẽ tìm cách làm cho chúng nó phải thân tàn ma dại mới hả.
Nghĩ vậy,hắn đợi dịp Hoàng tử lên ngôi, biết ông vua mới là tay hiếu sắc,bèn biến con gái mình thành một trang nõn nà tuyệt sắc,rồi một ngày nọ đưa con gái về kinh,trong một đêm bỏ vào ngự uyển,nơi vua thường đi dạo hàng ngày.Trông thấy cô gái đẹp đi lại giữa các luống hoa,nhà vua sững sốt đến mê mẩn.Vua hỏi:
-Nàng ở đâu tới đây?
Đáp:
-Mẹ thiếp đưa thiếp lên tham kinh kỳ rồi vì mê cảnh quá chân,hai mẹ con lạc nhau.Cuối cùng thiếp vì say hoa,lọt vào chốn này,không biết đây là vườn cấm.
-Nàng có muốn chung sống với ta ở chốn hoàng cung không?
-Trong cung bệ hạ đã có những bà nhạn sa cá lặn,thiếp xấu xí,chẳng xứng với bệ hạ.
-Thế mà cứ như ý ta,nàng lại bỏ xa bọn họ.Thôi hãy theo ta vào cung,nàng muốn gì ta cũng bằng lòng.
Bấy giờ cô gái yêu tinh mới nói toạc ý định của mình:
-Nếu bệ hạ muốn chung chăn gối với thiếp thì trước hết xin hãy đuổi khỏi cung điện tất cả những người vợ cũ của bệ hạ.
Vua đang cơn say đắm, đáp ngay:
-Khó gì việc ấy?
Vua bèn dắt cô gái đẹp về cung,lại hạ lệnh cho cung nữ lập tức đuổi bốn chị em ra khỏi hoàng thành.
Khi nghe lệnh truyền,bốn chị em tưởng chừng như nghe tiếng sét.Nhưng lời của vua phán,bọn cung nữ không thể không thi hành.Bấy giờ cô Út đang có mang.Mặc dầu cô tha thiết kêu nài,nhà vua cũng không thương hại.Bọn cung nữ và thị vệ cứ theo lệnh,dẫn họ ra khỏi cửa cung.
Yêu tinh sau khi thi hành kế độc,bấy giờ cũng đang đón chờ họ ở kẻ chợ.Hắn hóa phép thành một cái quan trọ có đủ thứ đồ dùng lịch sự,lại biến mình thành bà chủ quán,chờ khi bốn cô gái đi lang thang mỏi mệt,mới cất tiếng đon đả chào mời:
-Cửa hàng chúng tôi có chỗ trọ tươm tất,xứng đáng với các bậc quý khách dặm gái đường xa.Xin mời các bà vào an nghỉ.
Không nghi ngờ gì cả,bốn bà hoàng thất thế đành tạm vào quán nghỉ chân.Khuya lại,yêu tinh lẻn vào buồng nhằm khi họ đang ngủ say móc luôn tám con mắt của họ một cách rất êm thắm. Đoạn hắn hóa phép làm biến mất quán trọ cùng tất cả mọi thứ đồ dùng,rồi phi thân một mạch về nhà.
Sáng mai,bốn chị em tỉnh dậy thấy mình nằm giữa mảnh đất trống,mắt trở nên mù tịt,thì kêu khóc rất thảm thiết.Bụt đang ngồi ở tòa sen chợt nghe tiếng kêu than nức nở,bèn lập tức xuống ngay.Bụt hỏi:
-Làm sao các con lại khóc?
Các cô kể cho Bụt nghe về số phận của mình.Nghe xong,Bụt bảo:
-Các con đang gặp nạn lớn.Hãy cố sống để nuôi con,sẽ có ngày tái họp.
Đoạn,Bụt hóa phép làm thành một gian nhà trong đó có một vại tiền,một vại gạo,dặn rằng hễ lấy vơi bao nhiêu lại đầy lên bấy nhiêu.Nghe lời Bụt,bốn cô yên lòng ở lại đây.
Cô gái Út đủ ngày tháng sinh được một đứa con trai.Thằng bé sởn sơ,chóng lớn.Lên năm tuổi,Bụt đêm đêm hóa thành người đến dạy cho các môn võ nghệ,văn chương.Thằng bé thông minh,khỏe mạnh,học chóng tấn tới.Lên tám tuổi,nó đã tinh thông mọi môn văn võ,lại gan dạ nhanh nhẹn,biết mọi cách ứng đối tiến thoái.Bụt bèn kể cho nó nghe chuyện cũ của mẹ,và các dì nó,nào lúc gặp yêu tinh móc mắt. Đoạn cho nó một con ngựa,và bảo:
-Con hãy một mình tìm đến nhà yêu tinh.Con tự xưng là cháu ngoại đến thăm bà.Con hãy đem hết khôn khéo để cho nó không ngờ vực rồi tìm cách trả thù cho mẹ và các dì con.
Thằng bé ruổi ngựa theo lời chỉ dẫn của Bụt,tìm được đến nhà mụ yêu tinh.Nó xuống ngựa chào rất lễ phép:
-Thưa bà, mẹ cháu là Hoàng hậu,cho cháu về thăm bà.
Yêu tinh hỏi thử mấy câu thấy nó đối đáp trôi chảy,tin là cháu ngoại thật,mừng rỡ đón cháu vào. Ở được vài ngày,thằng bé thấy nhiều sự lạ,miệng hỏi không ngớt:
-Thưa bà,cái gậy kia bà dùng làm gì?
Yêu tinh trả lời:
-Ồ,thứ đó quý lắm,nó dùng để chỉ sông sông cạn,chỉ núi núi bằng.
-Thưa bà,cái vịm kia đựng những đôi mắt,bà dùng làm gì vậy?
-Đó là những con mắt bà lấy được ở bốn chị em nhà nọ,món đồ dưỡng lão của bà đấy?
-Thưa bà, chén nước kia bà dùng làm gì?
-Nếu ta đổ chén nước ấy vào vịm đựng con mắt thì mắt trở về với chủ cũ của chúng.
-Còn con sư tử kia bà dùng làm gì?
-Con giống ấy giữ sinh mệnh của bà và của mẹ con.Dầu bà hay mẹ con có bị ai chặt đầu cũng không bao giờ chết được.Nhưng nếu chặt đầu con sư tử thì bà và mẹ con đều chết cả.
Bấy giờ Bụt hóa làm con chuột bạch bò lên mái nhà yêu tinh làm lay động cái chuông con treo trên nóc.Cái chuông ấy ít khi kêu,mỗi khi kêu tức là chúa yêu ở trên rừng thẳm gọi bộ hạ đến gặp mình.Vì thế khi nghe tiếng chuông,yêu tinh lật đật bảo cháu:
-Cháu ở nhà đây, bà phải đi có việc,ba ngày nữa mới về.Cháu nhớ giữ gìn mọi thứ cho bà nhé!
Nhưng yêu tinh đâu có ngờ trong khi hắn đi vắng thì thằng bé đã gom góp mọi thứ bảo bối rồi cưỡi ngựa về kinh. Đến nơi,nó đi thẳng vào cung xin gặp vua.Vua cho vào,nhưng vì không biết nó là ai,bèn hỏi:
-Mày là đứa nào? Đến đây có việc gì?
-Tâu bệ hạ thần là con trai của bệ hạ,do một trong bốn chị em trước đây bị bệ hạ ruồng rẫy đẻ ra.
Nói rồi thằng bé kể một mạch cho vua nghe tất cả mọi chuyện,từ lúc mẹ và các dì nó bị đuổi ra khỏi hoàng cung cho đến lúc nó đánh lừa con yêu cái nắm được tang chứng trong tay. Đoạn nói tiếp:
-Vương phụ từ bỏ những người vợ hiền thục để vui thú với yêu tinh.Hiện nay tính mạnh vương phụ như trứng để đầu đẳng…
Vua đáp:
-Bảo Hoàng hậu là yêu tinh,việc ấy ta hoàn toàn không tin.
-Nếu vương phụ không tin thì con đem con sư tử này chặt đầu,sẽ biết hư thực.
Nói rồi thằng bé bèn chặt con sư tử thành ba khúc.Hoàng hậu đang nằm trong cung tự nhiên ngất lịm rồi chết luôn.Trong khi đó yêu tinh mẹ đang ở trên động với yêu chúa cũng ngã lăn ra bất tỉnh nhân sự.Bấy giờ vua mới nhận rõ sự thật,bèn sai ném xác Hoàng hậu ra ngoài bãi.Thịt của nó rữa nát biến thành ruồi,muỗi và các thứ sâu bọ.Vua bèn theo Hoàng tử đi thăm các người vợ cũ. Đúng lúc bước chân vào nhà,Hoàng tử cầm chén nước của yêu tinh đổ vào chiếc vịm đựng mắt,thế là những con mắt bỗng dưng như có phép thần,nhảy lên gắn vào hố mắt của bốn người đàn bà.Mẹ Hoàng tử và các dì của nó lại nhìn thấy mọi vật và xinh đẹp như xưa.[7]
83. GIẢ CHẾT BẮT QUẠ
Xưa có một thằng đi ở có tính hay cờ bạc,thành mắc nợ nhiều lần.Một buổi sớm mai,nó đem trâu ra cày,bị các chủ nợ bắt mất trâu đi.Nó buồn quá,lên bờ ruộng nằm giả chết.Một chốc có hai con quạ ngỡ là xác chết thật mới dần dần bay lại định móc mắt ăn.Nó Giơ tay ra vớ ngay được một chú mắng rằng:
-Mày tưởng tao chết, định đến móc mắt tao.Nay tao bắt được mày, tao giết chết mày đi.
Con quạ sợ lắm van rằng:
-Xin anh tha cho tôi.Rồi tôi xin trả ơn cho anh một cái của rất quí.
Nó hỏi:
-Của quí mày đâu?Mau mau đưa ra đây,không thì chết lập tức.
Con quạ bèn nhả ra một hòn ngọc,nói rằng:
-Có hạt ngọc này thì ước gì được nấy.
Thằng kia cầm hạt ngọc,liền ước thử rằng:
-Ước sao tao có được một con trâu đem về giả chủ.
Thì tự nhiên ở đâu có một con trâu đến ngay trước mặt thật.Nó bèn buông tha con quạ,dắt trâu về giả chủ và xin ra ngay không làm nữa.
Đoạn nó ra ngồi giữa trời,cầm hạt ngọc và ước rằng:
-Ước sao tao được một tòa nhà rồng năm phượng bảy thật lịch sự.
Vừa nói xong thì thấy được tòa nhà rồng năm phượng bảy,lại đủ đồ đạt bày biện rất trang hoàng. Được nhà rồi,nó lại ước:
-Ước sao ta được một khoảng đồng cò bay thẳng cánh,bỏ công cày cấy.
Vừa nói xong,thì thấy được một khoảng đồng cò bay thẳng cánh,trâu bò cày bừa đủ cả thật.
Nó được giàu có rồi,lấy làm sướng thân lắm.Một hôm nó lại ngồi,nó ước rằng:
-Ước sao ta được một người vợ mặt phượng mày ngài, đẹp như tiến giáng thế.
Vừa nói xong thì thấy một đứa con gái một nhà giàu đẹp nhất vùng ấy lại ăn ở với nó và xin gả nghĩa vợ chồng.
Được ít lâu, đứa con gái lân la,một hôm tò mò hỏi rằng:
-Trước anh khổ sở lắm,anh làm thế nào mà chóng được giàu sang thế này?
Thằng kia thật thà đáp rằng:
-Ta chẳng làm gì cả,chỉ có được hạt ngọc của con quạ nó cho.Ta muốn cầu là có ngay cái đó.
Đứa con gái biết vậy,một hôm rình lúc nó ra đồng vắng, ở nhà lấy trộm hạt ngọc,rồi bỏ về ở với cha mẹ.
Lúc thằng kia về,thấy mất vợ lại mất cả hạt ngọc,tìm kiếm đâu cũng không có,nó lên núi ngồi khóc.Bỗng có ông Bụt hiện xuống hỏi rằng:
-Người kia mất gì ngồi đây mà khóc?
-Tôi có một hạt ngọc quạ,vợ tôi nó lấy trộm mấtm tôi tiếc của ,tôi ngồi tôi khóc.
Bụt bảo rằng:
-Con chớ có khóc, ông bày cho con một mẹo,nó phải giả ngọc lại cho con.
Rồi Bụt đưa cho một nhành hoa đỏ,một nhành hoa trắng,mà dặn rằng:
-Đem cành hoa trắng về cài vào cửa nhà nó,thì trong nhà sẽ sinh ra chuyện tức cười.Xong lại cầm cành hoa đỏ chữa cho nó khỏi thì nó giả lại ngọc cho.
Thằng kia nghe lời Bụt dạy,liền đem cành hoa trắng đến cắm trước cửa nhà vợ rồi về.Mùi hoa thơm đưa lên ngào ngạt,hai ông bà và cô ả cũng đang ngửi.
Quái, sao ngửi xong bỗng chốc mũi, ông cứ dài ra,cô ả thấy mũi cô cứ dài ra,bà thấy mũi bà cũng dài ra đến mấy phân,lủng la lủng lẳng ở trước ngực,chẳng khác nào như cái vòi voi vậy. Ông nhìn bà,mẹ nhìn con, con nhìn bố ngơ ngơ ngẩn ngẩn,nửa khóc nửa mếu,không biết cái bệnh quái gì mà quái ác đến thế.Sau chữa bao nhiêu thuốc,chạy bao nhiêu thầy,cái mũi cứ dài không làm thế nào cho ngắn lại như xưa.
Cách đó mấy bữa,thằng kia giả dạng lại chơi,nó thấy bố mẹ vợ thế nó tức cười không thể nhịn được.
Hai ông bà vừa khóc vừa bảo nó rằng:
-Nhà ta chẳng biết tội tình gì mà phải cái bệnh lạ lùng như thế này.
Thằng kia bảo:
-Âu chỉ tại vợ tôi nó ăn trộm ngọc của tôi đem về nhà đấy thôi.Nếu ông nói nó giả lại cho tôi thì tôi đây chữa khỏi bệnh ngay tức thì.
Hai ông bà vừa như van với nó:
Của là gạch,nghĩa là vàng
Của chàng lại trả chàng lo chi
Chàng mà chữa được thôi đi
Vợ thì chàng lấy ngọc thì chàng mang.
rồi gọi con đem trả ngọc.
Thằng kia cầm lấy ngọc rồi mới đưa cành hoa đỏ ra.Ông ngửi thì mũi ông ngắn lại như cũ.Đưa cho bà ngửi thì mũi bà co lại như xưa. Đưa cho cô ả ngửi thì mũi cô ả rút lại như xưa,vừa xinh vừa đẹp.
Xong,người con gái lại theo nó về làm vợ.Và từ đó,không còn dám đá động đến hòn ngọc,nó đưa cho cầm cũng không dám cầm nữa.Sau hai vợ chồng thằng ấy ăn ở với nhau thuận hòa vui sướng,sinh được một trai,một gái đẹp như ngọc và thông minh không ai bằng.
Khi nó già sắp chết,thì thấy hai con quạ đen đậu trước nhà kêu rằng:
Cho mau,cho mau
Trả ngọc cho mau.
Vụt chốc thất sáng rực,rồi hạt ngọc tự nhiên biến đi mất.[8]
84. HAI VỢ CHỒNG NGƯỜI THUYỀN CHÀI VÀ THẦY CÚNG
Xưa có một người thuyền chài ở dưới sông lấy được một người vợ rất đẹp,thật là má phấn môi son,da ngà tóc phượng,tiếng đồn gần xa ai nấy cũng biết.
Một hôm có người thầy cúng ở từ xa đến, nhác trông thấy nàng,lòng xuân phơi phơi,muốn bắt nhân tình.Rồi thầy tìm cách lui tới nhà ấy cúng vái luôn.Người vợ cũng có tình ý.Chỉ người chồng là không ngợ vực chi cả.
Nhân một hôm,người chồng đi vắng, ông thầy cúng đến nhà giở hẳn cái mặt chim chuột,mới hát vè một câu rằng:
-Nam mô xa cũng như nên gần
Nam mô kết nghĩa chân trần với nhau.
Chị chàng động lòng,hát đáp rằng:
-Thầy ôi tôi muốn lấy thầy,
Cho cao tiếng đọc cho đầy man xôi.
Rồi hai bên cười cợt vui đùa.
Vô phúc,ngay lúc đó,người chồng ở đâu đột ngột về, thầy cúng và vợ người kia hãi quá chừng,không biết trốn đâu,nhảy tòm cả xuống sông.
Trời đạo kiếp,người vợ hóa ra cây hoa sen, ông thầy cúng thì hóa ra con cá Hoà thượng.
Bởi truyện này mới có câu hát rằng:
Cốc mò vì cá thầy tu
Không nhưng lên cạn xuống sâu làm gì.[9]
85. HAI ANH EM VÀ CON CHÓ ĐÁ
Xưa một nhà có hai anh em, người nào cũng đã có vợ và ở riêng ở tây.
Hai vợ chồng người anh giàu có dư tiền dư bạc,nhưng phải tính keo cúi,cay nghiệt,chẳng những không giúp ai bao giờ mà lại còn tham lam vơ vét của cải của người nữa.
Hai vợ chồng người em thì không thế.Nhà tuy nghèo đói hơn mình,còn tính hạnh thì hiền lành tử tế, hay làm những việc phúc đức.
Một hôm ông Bụt hóa làm lão mày xuống thử.
Trước đến nhà người anh xin hai vợ chồng nó chẳng những không cho mà lại còn đánh nhiếc đánh đuổi khổ sở.
Sau đến nhà người em,chưa kịp xin thì hai vợ chồng nó đang ăn cháo,chạy ra vồn vả mời vào cùng ngồi ăn cháo húp.
Ăn xong ông lão bảo hai vợ chồng người ấy rằng
-Các con đối đãi với lão thật là phúc đức.Vậy các con hãy đi theo lão,lão bảo cái này hay lắm.
Hai vợ chồng thật thà chẳng biết là cái gì,nhưng ông lão bảo thì cứ đi.
Khi lên trên chỏm một quả núi,có con chó đá há miệng ra.Rồi ông bảo hai vợ chồng người kia thò tay vào miệng chó muốn lấy bao nhiêu vàng bạc thì lấy.
Hai vợ chồng nó sợ hãi,không dám đưa tay vào.
Ông lão bảo cứ thò tay,thì quả nhiên thấy trong có bao nhiêu vàng bạc.Nhưng hai vợ chồng nó cũng lấy vừa mang thôi.Không ôm đồm tham lam nhiều quá Đoạn rồi, ông lão đập vào đầu con chó thì con chó ngậm miệng lại như trước.Xong ông lão đi.
Hai vợ chồng người kia sẵn có tiền bạc,về tậu ruộng,tậu nhà giàu có hơn anh nhiều lắm.
Anh thấy vậy lấy làm lạ lùng,hỏi em sao mà được chóng giàu như thế.
Em kể lại đầu đuôi để anh nghe.Anh nghe xong bảo rằng:
-Ta tưởng ai,chớ có phải cái ông lão ấy thì hôm nọ cũng đến ăn xin ở bên nhà.Rõ hoài của,thế mà không biết.
Rồi anh vội về nhà nói chuyện với vợ và bảo làm một mâm cơm thật hậu để đi tìm thấy ông lão.
Mà tìm ông lão cũng chả mất công lâu lắc gì.Vừa đi một lúc thì đã gặp ông lão đầu kia đi lại vị Bụt biết chuyện đã hiện xuống làm ông lão ngay đấy thôi.
Người ấy mừng rỡ,lội kéo ông lão mời về nhà,thết một bữa cơm thật no,rượu thật say rồi nói với ông lão rằng:
-Vợ chồng tôi cho ông ăn bữa này thật bằng mấy bữa cháo của vợ chồng chú nó dạo nọ.Vậy bây giờ ông đem vợ chồng chúng tôi và cho chúng tôi thật nhiều vàng bạc hơn chú nó cho ông bình.
Ông lão gật đầu.
Hai vợ chồng vui mừng quảy đi mỗi người một đôi thúng thật to.Rồi cũng thấy ông lão đưa lên trên đỉnh núi, ông cũng lấy gậy đập vào đầu con chó đá,con chó đá cũng há miệng ra.
Người chồng hí hửng vội vàng thò cả cánh tay vào định kéo cho thật nhiều.Nào ngờ tay vào vừa lọt thì chó đá ngậm miệng lại,không rút ra được nữa.Người chồng sợ cuống,ngoảnh đi nhìn lại kêu ông lão thì ôi thôi!Chẳng thấy tăm hơi ông đâu nữa.
Hai vợ chồng lúc ấy mới hối hận bảo nhau rằng:
-Thôi ta mắc mưu ông lão này rồi! Mà ông lão này chắc là Bụt hiện xuống để thử lòng ta.Ta tham lam thì ta chết.
Nhưng bây giờ dầu hai vợ chồng có ăn năn,than khóc cũng vô ích.Cái tay chồng cứ giữ chặt ở trong miệng con chó đá,không thể nào rút ra được nữa.
Vợ đành phải để chồng nằm đó,rồi cứ hai bữa đem cơm lên cho chồng ăn.
Suốt ba năm như vậy,vợ chồng không làm ăn gì được,bao nhiêu của cải trong nhà mỗi ngày mỗi dần mòn khánh kiệt.
Vợ thấy tình cảnh khốn đốn than thở với chồng rằng:
-Rõ đau đớn cho hai vợ chồng nhà mình!Người ta thường nói “No thì ra Bụt, đói thì ra ma”. Nào hay vợ chồng nhà mình đã cho Bụt ăn no,mà Bụt ở với mình ra lòng ma dạ quỷ.
Chồng thấy vợ than thở cũng ngùi,nửa khóc nửa mếu,nói với vợ rằng:
-Tưởng là chó đá có vàng,ai ngờ chó đá lại biết cắn! Mình ơi, hai vợ chồng ta không được ăn ở với nhau đã được ba năm nay.Ta thật lấy làm buồn quá.Thôi thì mình hãy ngồi xuống đây cho ta vui đùa chút ít,kẻo khi người chết của hết thì còn dở trò trống gì được nữa.
Vợ nghe chồng nói cũng vui lòng,ngồi luôn xuống bên ,không biết anh chồng vui đùa nghịch ngợm làm sao mà con chó đá trông thấy phải bật cười,há miệng ra, người chồng vội rút tay ra được.Hai vợ chồng vội đưa nhau chạy về,không còn dám ngoảnh lại trông con chó đá vẫn còn cười.
Rồi từ đó chừa tiệt cái tình keo kiệt cay nghiệt,tham lam.[10]
86. SỰ TÍCH CHÙA TRÀ NỒNG
Ngày trước ở vùng Thơm (Mỏ Cày,Bến Tre) có nhà kia sinh được một cô gái đặt tên là Nồng.Càng lớn,cô gái càng xinh đẹp.Nhà nàng Nồng khá giả,có của ăn của để,nhiều vựa lúa lớn,vườn lại rộng.Trong vùng cũng có một chàng trai khỏe mạnh,tên là Ếch.Nhưng nhà chàng Ếch nghèo khó, gia sản chả có gì ngoài túp lều ở cạnh bờ sông.Cha mẹ mất sớm nên chàng Ếch phải sống bằng nghề mò cua bắt ốc. Đặc biệt chàng có biệt tài bắt ếch rất giỏi.Chàng thường bắt ếch đem ra chợ bán để sinh sống qua ngày.Một hôm nàng Nồng đi chợ sớm, đường vắng vẻ,nàng bị một toán cướp ba tên chặn lại định hành hung.Khi ấy chàng ếch vừa đi tới,chàng dùng sức đánh ba tên cướp cứu được nàng Nồng.Cảm ơn nghĩa người cứu mình,nàng Nồng hỏi chuyện gia cảnh rồi đem bụng thương chàng.Chàng Ếch cũng không ngờ mình gặp được một cô gái xinh đẹp đến thế,nên đem bụng thương ngầm.Nhưng tính tới chuyện trăm năm,chàng Ếch ngại ngần,mãi sau chàng mới nói.
-Nhà tôi với nhà nàng không môn đăng hộ đối,chắc khó kết nghĩa trăm năm.Cha nàng chắc không bao giờ bằng lòng cho tôi lấy nàng đâu.
Nàng Nồng vội gạt đi:
-Bộ anh không nghe người ta hát : “Em với anh gá nghĩa chung tình,dù ăn cơm quán ngủ đình cũng ưng” sao ?
Rồi nàng nói tiếp:
-Em không lấy được anh thì cả đời em nguyện không lấy ai làm chồng cả.
Chuyện hai người thương nhau đến tai cha mẹ nàngNồng.Cha gọi nàng ra xét hỏi.Nàng định giấu,nhưng về sau phải thưa hết chuyện cho cha mình nghe.Người cha giận con lắm bèn lấy roi đánh rồi mang cây mác thông cắm phập ngoài sân la lớn:
-Mày còn đi lại với thằng khố rách áo ôm đó thì hãy nhìn cây mác này!
Biết chuyện chàng Ếch bỏ làng đi.Chẳng ngờ,sau khi biết tin chàng bỏ làng ra đi,buồn rầu nàng Nồng xin cha mẹ cho mình cắt tóc đi tu.Nàng lập một ngôi chùa trong vùng,ngày ngày tụng kinh niệm Phật để giữ trọn lời thề hẹn với người thương của mình. Ở nơi xa,chàng Ếch được tin,liền quay về.Thương và cảm phục người yêu đã giữ trọn lời hứa với mình chàng liền xuất gia rồi lập chùa thờ Phật tại làng Đa Phước.Người trong vùng gọi chùa của chàng Ếch hay chùa Sãi Ếch,sau nói trại thành chùa Trà Nồng.Cả hai ngôi chùa bây giờ vẫn còn ở huyện Mỏ Cày,tỉnh Bến Tre.
(Theo Văn học Dân gian Bến Tre của Nguyễn Phương Thảo và Hoàng Thị Bách Liên)
(Nghìn Năm Bia Miệng-Huỳnh Ngọc Trảng-Trương Ngọc Tường-NXB.TPHCM 1993)
87. NGƯỜI ANH THAM LAM
Có hai anh em,chẳng may cha mẹ mất sớm,khi người em còn nhỏ tuổi,hai vợ chồng nhà kia mai táng cha mẹ xong,mang người em về nuôi.Người em tuy nhỏ nhưng có sức khỏe lạ thường.Cậu bé xới đất giỏi như con Lợn Rừng,và tra lúa ngô thì trong bản chẳng ai làm nhanh bằng cậu.Cho đến việc phát rừng đốt nương,cậu cũng làm bằng bốn bằng năm người khác.Nhờ thế mà chẳng mấy đỗi trong nhà đã có của ăn của để.Nhưng, cũng từ khi cảnh nhà dư dật sung túc,thì người chị dâu trở nên tham lam.Mụ sợ cứ ở mãi với mình thì tốn cơm tốn của,bèn tìm cách đuổi em đi.
-Vợ chồng chị nuôi em từ lúc còn bé.Bây giờ,em đã lớn,hãy đi làm nhà riêng mà ở,phát nương,tra thóc,trồng ngô lấy mà ăn.
Người em thương anh lắm,chẳng muốn rời.Nhưng người anh vốn sợ vợ,vợ bảo sao là nghe như vậy.Anh nói:
-Mày lớn bằng ấy rồi,làm lấy mà ăn thôi,ai nuôi mày mãi được.
Người em buồn rầu chẳng biết nói sao,khăn gói bỏ ra đi.Chàng đến một thung lũng hẻo lánh tít tận trong rừng sâu,làm một túp lều con để ở,rồi ngày ngày đi phát nương,Chẳng có cơm ăn,chàng phải vào rừng hái rau dại, đào củ mài.Chàng làm việc không lúc nào ngơi tay.Chàng phát trụi cả một quả núi,nhưng khi đốt nương xong thì không tìm đâu ra giống để tra.Chàng đành về xin anh chị thóc giống ngô giống.Biết em làm khỏe,chị dâu sợ em giàu hơn mình mới nghĩ ra một kế.Mụ lấy ngô lấy thóc đem rang chín đi rồi mới cho em. Được anh chị cho giống,chàng vội đem về tra.Nhưng giống đã bị rang chín thì còn mọc làm sao được! Chàng đâu có biết lòng nham hiểm của chị dâu.Chàng tưởng chim ăn nên lại quay về nhà anh chị xin giống lần nữa.Lần này cũng vậy,người chị dâu lại mang hạt giống rang chín rồi mới cho em.Người em đem giống về,lòng khấp khởi mừng thầm.Chàng mang tất cả sổ giống giăm lại.Nhưng rồi mãi cũng không thấy mọc cây nào.Chàng tưởng trời hại mình,liền đào củ mài làm lương khô, đi tìm Bụt để hỏi nguyên cớ.Chàng đi đã lâu,thức ăn trong túi đã cạn,vẫn chưa tìm thấy Bụt.Chàng trèo lên một quả núi cao để tìm đường.Bỗng từ xa, một đám mây lớn bay đến.Trong đám mây, một ông Bụt hiện ta hỏi chàng:
-Chàng trai kia, đi đâu mà lên tận đỉnh núi cao này ?
-Tôi đi tìm bụt đây.
-Tìm ta à? Có việc gì thế?
-Bụt trả lời cho tôi: vì sao lúa tôi gieo không mọc,ngô tôi tra không lên?
-Lúa không mọc vì lúa đã rang,ngô không lên vì ngô đã nướng.Người chị dâu của con đã làm như thế.
-Vậy phải làm sao hở Bụt? Thóc ngô họ để trong nhà,mà tôi thì không có trâu để đổi.
-Con cứ về nhặc thóc lép sau nhà anh con mang ra nương mà tra.
Nghe lời Bụt dặn,chàng quay lại nhà anh,nhặt lấy thóc lép sau nhà về tra.Quả nhiên,trên vạt nương rộng của anh đã mọc lên bờ cây lúa cao lớn như bụi vầu,bụi nương và hạt lúa to như cái chum cái chĩnh.Người em trông nom ngày đêm.Một buổi trưa trời râm mát,mệt mỏi quá chàng ngả lưng bên gốc cây,ngủ quên đi.Có một đàn chim lớn bay qua sà xuống tha hết thóc.Lúc chàng tỉnh dậy thì chẳng còn gì nữa.Chàng vội vàng lần theo vết trấu rơi dọc đường,tìm đến một cai hang.Tới cửa hang,chàng thấy có một bà lão đang ngồi kéo sợi.Chàng buồn rầu hỏi thăm bà lão:
-Bà lão có thấy thóc của tôi đàn chim tha đi đâu không?
-Này con, đàn chim của ta trót ăn mất rồi.Bây giờ, con muốn gì,ta sẽ đền con vậy.
-Tôi chẳng muốn gì,chỉ muốn có thóc giống ngô giống để tra thôi?
-Được,ta sẽ cho con các thứ.
Rồi bà lấy trên vách hang xuống một cái cối xay nhỏ bằng đá,niệm thần chú rồi xay.Tức thì,trong cối thóc,ngô,quần áo,vòng ,nhẫn tuôn ra ào ào…
-Đấy,ta cho con tất cả,con hãy mang về!...
Nói xong bà cụ biến mất.Chàng mang các thứ ấy trở về túp lều xưa.Từ đó,chàng giàu có,thừa thóc,thừa ngô,thừa quần áo.Chàng vào rừng đốn gỗ về làm nhà cao cửa rộng.
Một hôm,hai vợ chồng người anh đi chợ qua,thấy một ngôi nhà to bên cạnh nương ngô lúa ruộng bát ngát.Họ ghé vào chơi thì chẳng phải đâu xa lạ,chính là cơ ngơi của người em mà bấy lâu hai chồng đã đuổi đi.Hai vợ chồng rất ngạc nhiên,xoắn lấy em mà hỏi tại sao người em lại giàu có thế.Thật thà, chàng kể lại tỉ mỉ cho anh chị nghe.Người anh chạy về mang ngay gà vịt sang,mượn em cái cối xay đá để về xay.Nhưng vừa xay được một vòng thì rắn rết trong cối bò ra ngoằn ngoèo.Sợ quá,vợ chồng người anh quẳng cối xay xuống suối mà chạy.Cối xay vỡ tan.
Chờ lâu không thấy anh mang trả cối,người em sang đòi.Vợ chồng người anh mắng chửi chàng thậm tệ, rồi chỉ ra bờ suối.Chàng xuống tìm cối xay đã mọc thành cây gỗ lớn.Chàng liền ngả cây,vác về làm máng cho lợn ăn.Mấy con lợn ăn cám trong máng ấy lớn nhanh như thổi.Chưa ăn hết sọt ngô,lợn đã lớn chật chuồng.Người em mang lợn ra chợ bán.Vợ chồng người anh thấy vậy,càng ngạc nhiên hơn,bèn hỏi em làm cách nào mà nuôi lợn chóng béo.Người em cũng kể lại tất cả.Vợ chồng người anh lại nằn nì mượn cái máng về chăn lợn.Nhưng từ khi đàn lợn của vợ chồng người anh ăn cám trong máng ấy,thì chúng chẳng béo được tí nào,mà trái lại mỗi ngày một gầy,vài hôm sau đã đã lăn ra chết.Tức quá,vợ chồng người anh đốt máng đi.Lúc người em sang lấy thì chỉ còn đống tro.Người em bới,sót lại mỗi miếng gỗ bằng bàn tay.Chàng nhặt về làm lược chải đầu.Chải lược này,chàng mỗi ngày một đẹp trai ra,ai cũng khen.Tiếng đồn đến tai vợ chồng người anh.Hai vợ chồng người anh lại mò đến mượn lược.Nhưng hai vợ chồng càng chải tóc càng rụng.Mụ vợ đầu trọc lóc.Căm quá,vợ chồng người anh bèn băm nhỏ lược ra,bỏ vào bếp.Người em đành bới lại tro,hy vọng lược sót lại mảnh nào chăng.Cuối cùng,chàng chỉ nhặt được một hạt đỗ tương.Chàng liền nuốt vào bụng.
Hôm sau,chàng đi ngoài, đỗ tương mọc lên một bụi rất to,quả sai lúc lích.Chàng lấy làm giống và năm sau chàng được mùa đỗ và đỗ của chàng to khác thường.Nghe đồn người em có giống đỗ tốt,vợ chồng người anh lại lần sang hỏi em làm thế nào có giống đỗ tốt.Người em cũng kể lại tỉ mỉ đầu đuôi.Nghe xong,hai vợ chồng người anh cũng nuốt mỗi người một hạt đậu.Nhưng về nửa đường,hạt đậu trong bụng hai người mỗi lúc một chương to.Về đến nhà, cả hai cùng lăn kềnh ra chết vì vỡ bụng.
88. VƯƠNG THẬP XUỐNG ÂM PHỦ
Ngày xưa ở xứ cao nguyên có một chàng tên là Vương Thập rất nghèo khổ.Một hôm,chàng ta vác hai bao muối, định đem ra chợ bán trốn thuế.Dọc đường gặp hai người mặc áo nẹp vàng,Vương Thập hoảng hồn,ngỡ đó là bọn lính lệ chặn xét bắt,anh ta quỳ xuống xin tha tội.
Hai người kia nói:
-Ta không có quyền tha tội gì hết! Ta không phải là quan làng.Ta là quỷ sứ ở Diêm đình trá hình lên đây tìm nhà ngươi bắt về.
Vương Thập xin phép về nhà thăm gia quyến một đôi ngày rồi chết cũng cam đành.Quỷ sứ nói:
-Không sao đâu.Mày đi vài ngày rồi trở về chớ không phải chết luôn.Số là mấy cái cầu tiêu ở Âm phủ đều hôi thối,tràn ngập sông Nại Hà.Diêm chúa muốn bắt những kẻ nào cờ bạc,du côn,buôn muối lậu về làm xâu,rửa vét sông ấy.
Quỷ sứ dắt Vương Thập đến trước mặt Diêm chúa.Diêm chúa hét:
-Ai biểu bây bắt tên này.Nó nghèo túng,buôn lậu có hai bao muối quèn.Tụi bây phải vác hai bao muối đó trả về cho vợ con người ta.
Quỷ sứ tâu:
-Lỡ bắt tên này xuống đây rồi thì làm sao trả lại được.
Diêm chúa suy nghĩ hồi lâu,ra lệnh cho Vương Thập làm đốc công,nghĩa là đứng trên bờ mà chỉ huy bọn người làm xâu,khỏi phải lặn hụp dưới sông Nại Hà dơ dáy.
Vương Thập lãnh trách nhiệm,cầm gậy đứng trên bờ,canh chừng mấy tên làm xâu đang xúc đổ bao nhiêu đồ ô uế.Thấy tên nọ lười biếng ngồi ngủ gục.Vương Thập chạy tới, đánh hắn ta mấy gậy.Coi rõ lại thì hắn ta chính là quan giữ kho muối ở huyện mình.Vương Thập không nỡ nào hành hạ hắn ta nữa.
Đây là nói chuyện ở dương gian.Hôm nọ vợ của Vương Thập thấy chồng mình đi biệt dạng nên tìm kiếm,gặp Vương Thập nằm thoi thóp ngoài đường.Người vợ đem thây chồng về nhà,không dám đem chôn vì xác nọ chưa chết thật,tim còn đập nhẹ.Ba ngày sau,xác hoàn hồn.Vương Thập thuật lại chuyện đi làm đốc công dưới âm phủ rồi thở dài:
-Bậy quá! Bữa đó tôi lỡ tay đánh nhầm ông quan giữ kho muối ở huyện mình.Chắc ổng cũng trữ muối lậu! Nay mai ổng trả thù, mình chịu sao nổi.
Lúc đó đằng kho muối,quan giữ kho cũng chết thoi thóp từ mấy ngày rày,nay sống dậy.Chừng gặp mặt Vương Thập tới thăm,quan nọ hoảng hồn chạy trốn,ngỡ là chiêm bao.
Sau khi phân trần,hai người thề không bán muối ậu hoặc trữ muối nữa vì Diêm chúa đã phạt họ một lần rồi.
89. ANH EM SINH NĂM
Ngày xưa có hai vợ chồng nhà nọ chỉ sinh được có mỗi một người con gái.Vì thế họ nuôi nấng dạy dỗ rất chăm chút.Khi cô gái lớn lên,cha mẹ dạy cho đạo thánh hiền.Năm nàng mười lăm tuổi vẫn bị cấm cung,không được tiếp xúc với người ngoài.Một hôm,người mẹ lên chùa lễ Phật.Lần đầu tiên bà ta đưa con gái ra khỏi nhà.Bấy giờ có một vị thiên thần muốn mượn cô gái đồng trinh làm chỗ đầu thai,mới nhân lúc cô gái ra vườn chùa vãng cảnh,hiện làm một bông hoa có năm cánh rất đẹp.Cô gái thích quá ngắt lấy ngắm nghía hồi lâu rồi bỗng dưng bỏ vào miệng nuốt đi.
Từ đó cô gái tự nhiên không chồng mà chửa .Cha mẹ nàng ngạc nhiên và xấu hổ vô cùng.Hết tra hỏi đến dụ dỗ,nhưng cô gái ngây thơ ấy cũng chả làm sao mà hiểu được.Tất cả mối ngờ của cha mẹ đều đổ dồn về nhà chùa. Đoán là có một ông sư đã quyến rũ con gái mình trong ngày lễ Phật dạo nọ,họ bèn đuổi con lên chùa và nói:
-Mày lên đó mà ở với sư, đừng vác mặt trở về bôi nhọ nhà tao nừa.
Hòa thượng trụ trì chùa đó không biết làm thế nào, đuổi đi cũng không nỡ, đành phải nhận nuôi nàng và dựng một túp lều sau chùa cho nàng ở đó.
Khi gần đến ngày sinh, cô gái bỗng nằm chiêm bao thấy có một thiên thần đến trước mặt dặn rằng:
-Đừng đặt tên con vội,cứ đến lúc chúng nó biết nói,chúng nó sẽ cho biết tên.
Thế rồi,cô gái sinh một lúc năm người con trai, đặc biệt một điều là giống nhau như tạc.Chúng lớn nhanh như thổi, đứa nào đứa nấy sởn sơ mạnh khỏe.Khi chúng biết nói,người mẹ hỏi đến tên con,thì đứa thứ nhất trả lời:
-Sức con có thể vác nổi một quả núi,con là Mạnh Mẽ.
Đứa thứ hai nói:
-Người con dù có dao băm,búa đánh cũng không chết,con là Mình đồng da sắt.
Đứa thứ ba tiếp:
-Con có thể ngồi một nơi biết được mọi việc trong thiên hạ,tên con là Vén mây xem trần.
Đứa thứ tư:
-Con có thể sống dưới nước cũng như trên cạn,tên con là Khô.
Đứa cuối cùng nói:
-Con thì dù ngồi trong lửa cũng cứ dễ chịu như thường, tên con là Ướt.
Năm anh em lớn lên lo làm việc nuôi mẹ.Hằng ngày Mạnh Mẽ lên rừng kiếm củi về đổi lấy gạo.Mỗi một gánh củi của chàng chứa đầy một sân.Tiếng tăm của anh chành truyền khắp mọi nơi trong nước.Hồi ấy nhà vua cần dùng nhiều củi để dùng vào một lễ rất long trọng của triều đình.Vua cho triệu Mạnh Mẽ đến, kiếm củi cho mình và hứa cứ mỗi gánh củi đưa đến sẽ đổi cho một gánh gạo.
Mạnh Mẽ kiếm củi mau như chớp.Rừng tuy xa nhưng mỗi ngày chàng đi đi về về không biết bao nhiêu là lần, mỗi lần đưa củi đến lại gánh gạo đi.Đến nỗi lúc viên quan trông nom kho gạo cho nhà vua thấy gạo kho đã vơi quá nửa,hắn lật đật đến báo cho vua biết,Vua nói:
-Thế thì phải bắt nó chết mới được!
Bèn cho đòi Mạnh Mẽ đến và bảo:
-Nhà ngươi làm việc như thế chắc là mệt.Thôi cho về nghỉ sức,mười ngày nữa sẽ đến đây phục mệnh.
Mạnh Mẽ về nhà kể chuyện cho anh em nghe,Vén mây xem trần vốn đã đọc được những ý nghĩ không tốt trong đầu nhà vua,bèn bảo Khô đến gặp Vua.Vua cứ tưởng hắn là anh chàng gánh vơi kho gạo của mình hôm nọ,bèn thét ngay lính bắt dìm xuống bể cho chết.Khô cứ để mặc hco bọn lính vây bắt trói lại và dìm xuống nước,nhưng dìm lần đầu lôi lên,Khô vẫn sống trơ trơ.Dìm lần thứ hai, thứ ba,Khô vền vui vẻ ca hát.họ lại dìm nữa nhưng dù thế nào cũng không làm cho chàng chết được.Tức mình,lại sợ mệnh Vua,bọn chúng mới làm một cái cũi bỏ Khô vào cùng với rất nhiều đá tảng dòng dây đem thả xuống đáy biển.Nhưng mấy tuần sau với lên vẫn thấy hắn sống như thường.Cuối cùng chúng phải đưa anh chàng về kể chuyện cho Vua hay.Vua chưa tìm ra cách gì giết được,bèn bảo anh về hẹn mười ngày sau nữa lại đến.
Vén Mây biết lần này Vua dùng mưu độc đốt chết, nên bảo Ướt đi thay.Ướt đến nơi thì Vua đã sai dọn sẵn một căn lầu bằng gỗ dựng riêng biệt sau vườn,xung quanh chất đầy củi.Vua cũng tưởng Ướt là anh chàng hôm nọ,bèn mời gã lên lầu,sai dọn mâm cỗ đầy rượu và thức ăn ngon cho ăn. Đoạn bảo quân lính đóng chịt mọi cửa lại rồi phóng hỏa.Lửa liếm rần rật cháy khắp mọi nơi.Nhưng Ướt ta vẫn ngồi một nơi chén tỳ tỳ.Và khi cánh cửa đổ xuống,chàng nói vọng ra cho chúng nghe:
-Ồ! Ở đây mát quá!
Vua lắc đầu,chưa biết làm thế nào để giết cho được, đành bảo anh về nhà,mười ngày sau nữa lại đến.
Lần này Vén Mây bảo Mình đồng da sắt đi.Khi anh chàng này đến nơi,vua thét đao phủ mang ra xử trảm.Nhưng bao nhiêu gươm dao đụng vào người đều quằn lại cả mà không làm cho anh chàng chết được. Đao phủ tức giận đâm mũi mác vào nách gã,gã chỉ cười rú lên như bị ai cù.Thấy vậy,Vua rất bực mình,nhảy xuống rút bảo kiếm,hai tay chém xuống rất mạnh,nhưng bảo kiếm chỉ gãy đôi mà tội nhân thì không việc gì.Cuối cùng Vua bảo anh về nhà mười ngày nữa lại đến.
Thấy chàng kiếm củi có phép lạ nên lần này Vua không có ý định làm hại nữa.Vén Mây biết được ý đó nên mười ngay sau đưa cả bốn anh em đến kinh đô.Vua thấy cả năm người giống nhau như tạc,hỏi chuyện mới biết họ đều là con thiên thần.Vua dắt Vén Mây lên ngai vàng,nhường ngôi và gả con cho,rồi bỏ đi tu.[11]
90.THẦN GIỮ CỦA
Ngày xưa ở vùng Lai Triều thuộc trấn Sơn Nam,có một người lái buôn nước ngoài sang ta sinh cơ lập nghiệp.Sau mấy chục năm nhờ có mánh khóa tích trữ:buôn lúc đầu mùa,bán khi giáo hạt,lãi mẹ đẻ lãi con,hắn trở nên giàu có lớn.Trong nhà hắn,vàng bạc châu báu kể có ức vạn,những tay vương hầu cơ hồ không có ai ăn đứt.
Khi trong tay đã có tiền ròng bạc chảy,hắn ngĩ đến chuyện chuyền của về nước để cho con cháu ở bên đó hưởng.Nhưng ngặt một nỗi hồi ấy triều đình ta có lệnh cấm tất nghiêm,không cho khách buôn nước ngoài đưa vàng bạc ra khỏi bờ cõi. Đã có nhiều người lén lút đưa ra nhưng không che mắt được nhà chức trách nên của cải bị tích thu,còn người thì bị đuổi ra khỏi nước.Vì thế,hắn mới nghĩ cách chôn giấu một số vàng bạc ở bên này để rồi ngày sau,chờ khi có cơ hội tốt,con cháu hắn sẽ sang lấy về.Hắn chuẩn bị việc đó rất kỹ lưỡng.Lấy cớ thờ Phật,hắn sẽ xin phép làng sở tại dựng một ngôi chùa trên một cái đồi hoang ở gần nhà.Và trong khi đào móng làm chùa,hắn sẽ bí mật xây một cái hầm chôn của ăn sâu xuống đất.Còn việc bảo đảm cho của khỏi mất,hắn sẽ tìm một người con gái đồng trinh chôn luôn bên cạnh vàng bạc để làm thần giữ của.Nếu không phải là người hô đúng tín hiệu mà hắn ước hẹn với thần thì đừng hòng đưa một ly của cải lên khỏi mặt đất.Thần sẽ vật chết bất cứ một người lạ đến cửa hầm.Khi mưu tính đã kỹ lưỡng,hắn bèn để ý tìm một người con gái đồng trinh.
Hồi ấy,trong vùng có một ông Giám sinh,nhà không một mảnh đất cắm dùi. Ông có một người con gái tuổi mới mười tám,chưa có chồng.Nghe tin,người khách buôn vội mang cau rượu đến hỏi cô gái về làm vợ lẽ.Tuy biết hắn giàu có, con mình có thể được nơi nương tựa,nhưng ông Giám sinh không chút bằng lòng vì không những ông không muốn gả con cho người nước ngoài mà ông còn ghét cái thót con buôn,cho vay nặng lãi của những bọn như hắn.Hắn cũng biết thế,bèn đặt lên mâm một trăm lạng vàng,nói là xin đưa làm sính lễ.Trông thấy những nén vàng sáng chói, ông Giám sinh nghĩ đến mấy món nợ chưa cách gì trả được.Cuối cùng ông đành nhận lời gả con cho hắn.
Từ khi lấy vợ về,người khách buôn cho nàng ở một buồng riêng.Hắn rất chăm chút,rất ghen tuông,nhưng có một điều là chẳng bao giờ ăn nằm với nàng.Cả đến cá thịt,hành tỏi,hắn cũng không cho ăn,lấy cớ là phải ăn chay niệm Phật.Ba tháng một lần,hắn lại cho nàng một bộ xống áo mới.
Cứ như thế sau hai năm,cô gái vẫn phòng không bóng chiếc.
Một hôm,nàng cố xin phép chồng về nhà thăm cha.Từ chối mãi không được,bất đắc dĩ hắn phải để cho đi nhưng căn dặn phải kiêng khem và phải trở về ngay.Cha con lâu ngày gặp nhau,mừng mừng tủi tủi. Ông Giám sinh tỉ tê hỏi:
-Từ khi con ra đi, cha rất hối hận.Nếu nhà ta không túng đói thì con đâu chịu cảnh lẽ mọn này.Vậy thường ngày nó đối đãi với con ra làm sao?Vì sao về đã hai năm vẫn chưa sinh nở gì cả?
Nghe cha hỏi thế,côgái khóc lóc kể hết sự tình. Ông Giám sinh ngạc nhiên:
-Thôi rồi! Chắc là nó chọn con làm thần giữ của,không nghi ngờ gì nữa.Vậy con có thấy trong nhà nó có chuyện gì lạ không?
-Trước kia, ăn cơm tối xong là nó khóa cửa ngủ ngay.Chỉ có độ vài tháng nay,tối nào cũng thấy bố con nhà vác cuốc thuổng đi,gần sáng mới lại về.
Nghe nói, ông Giám sinh kêu lên:
-Con hãy về sớm cho nó khỏi ngờ.Hễ lúc nào nó đem con đi đâu thì nhớ rắc những hạt này xuống bên lối đi, để cho cha biết mà tìm.
Từ đó, ông Giám sinh đến thăm con luôn:Có khi ba ngày một lần,có khi năm ngày một lần. Ông không vào nhà rể,chỉ có đứng ngoài cổng nhìn vào.Hễ thấy mặt con gái, ông mới yên tâm lui gót.
Một lần ông giở bận chút việc chưa đến được.Mãi mười ngày sau mới tới thì đã không thấy bóng con đâu nữa.Chờ lâu sốt ruột, ông vội bước vào nhà rể,làm bộ tới thăm.Người lái buôn thấy ông đến,lăng xăng tiếp đón ra chừng thân mật.Hắn cho ông biết là vợ mình còn bận lên kinh đô cất hàng chưa về. Ông Giám sinh vẫn giữ vẻ mặt tự nhiên,nhận lời mời của rể ngồi lại ăn cơm trưa.Thừa dịp đi tiểu, ông ra sau vườn nhìn quanh nhìn quất,quả thấy hai bên lối đi dẫn ra đồng,vừng và cải đã mọc xanh lăn tăn như đánh dấu.
Lập tức, ông đi một mạch đến dinh trấn Sơn Nam.Trước mặt quan Trấn thủ, ông trình bày mọi việc xảy ra.Quan Trấn thủ liền điểm lấy năm trăm quân sĩ đi suốt đêm về Lai Triều.Quan cho đòi người lái buôn nước ngoài đến đối chất thì hắn chối lấy chối để.Người ta theo chân ông Giám sinh lần theo con đường mà vừng và cải đã kín đáo mách hộ, đi cách nhà người khách chừng nửa dặm,thì đã thấy một cái am con vừa mới xây xong trên một cái đồi hoang. Ông Giám sinh thưa:
-Hẳn chỗ này chứ không sai.Xin cho đào lên để khám!
Nhưng người rể của ông nhất định không chịu.Hắn lấy cớ động mạch đất có quan hệ với vận mệnh nhà hắn nên cố tình không cho lính đào.
Liền đó, quan Trấn thủ bắt hai bên làm tờ cam kết.Nếu đào không thấy gì thì ông Giám sinh phải bỏ tiền ra xây lại am và phải bồi thường thiệt hại cho chàng rể.Trái lại,nếu phát hiện được tiền nong của cải gì thì người chủ cái am đó không được nhận.Giấy làm xong, người khách buôn không chịu ký,nhưng cũng nhất định không chịu thú nhận.Thấy thế,quan lại càng ngờ vực,liền hạ lệnh cho lính cứ đào ngay,sự chủ muốn hay không cũng mặc.
Mới đào được một khoảng rộng bằng cái nong thì đã thấy hiện ra một bờ gạch xây chìm.Bờ gạch chạy dài chừng một gian nhà,sâu xuống ngập đầu người, trên xây theo lối cuốn bằng gạch Bát tràng rất kiên cố.
Trong khi mọi người khách buôn lăn ra khóc nức nở thì một toán lính đã tìm được cửa hầm.Lớp gạch vừa đổ xuống đã hiện ra ánh sáng le lói của hai ngọn đèn.Họ đi lần vào thì thấy cô gái ngồi bên cạnh đèn,trên một cái ghế dựa bằng đá, đầu gục xuống,hai chân dạng ra hai bên,mỗi chân đạp lên một cái cong lớn. Ông Giám sinh mếu máo ôm chầm lấy con.Nhưng ông không sao nấc con lên được vì hai tay côgái đã bị trói vào bành ghế mà miệng thì bị gắn kín bằng nhựa.Nạy nhựa ra thấy trong có một củ nhân sâm chưa tan hết.Ngực nàng vẫn còn đập thoi thóp.Người ta vội vực nàng lên để cứu chữa, đồng thời đóng gông tên lái buôn gian ác giải đi.
Khi toán lính soát mọi vật thì thấy hai cái cong mà cô gái đạp chân lên,mỗi cong có đề mấy chữ: “Một nghìn cân hoàng kim”.Bên tả bên hữu có hai dãy cong nhỏ mỗi dãy mười cái,ngoài đều có đề: “Năm trăm cân bạch kim”. Mở ra điểm lại, đúng như số đã đề .Hai cây đèn cũng một bằng vàng,một bằng bạc.
Nhờ được sự chăm sóc chu đáo,nên cô gái dần dần tỉnh lại.Nghe kể chuyện,người ta mới biết là cô bị chôn sống đã được mười ngày.Quan trấn thủ chia số của cải đó ra làm bà: Cha con ông Giám sinh được hưởng một phần,còn bao nhiêu tịch thu làm của công.Còn người lái buôn bị đem ra pháp trường xử trảm.[12]
91. SỰ TÍCH BÀ DÌ TỰ(Chùa Phù Dung)
Chùa Phù Dung hay còn gọi là chùa Phù Cừ (tên của một loài hoa sen trắng) là một ngôi chùa cổ của xứ Hà Tiên.Sách Đại Nam Nhất Thống Chí có chép:
“Chùa Phù Cừ ở chân núi Phù Cừ,xã Mỹ Đức,huyện Hà Châu.Chùa này do Mạc Thiên Tích Lập.Trước sân có đào ao,theo núi dựng chùa. Án tuệ nghiêm trang,cửa Thiền tịch mịch,là một nơi danh thắng”.
Tục truyền đây là một ngôi chùa do Mạc Thiên Tích xây cho bà thứ cơ của ông ta.Khi bà mất,mộ bà được chôn bên cạnh chùa.Ngôi mộ cổ này được người đời sau gọi là mộ Bà Dì Tự.Ao sen cũng như ngôi mộ gọi là ao Bà Dì Tự.”Dì Tự”là cách gọi tắt cụm “Bà Dì ở am tự”.
Dì Tự vốn là cô gái có tên là Phù Cừ,con của một túc nho tên là Nguyễn Nghi.Lớn lên trong thời Nam Bắc phân tranh,Nguyễn Nghi muốn lánh xa chỗ phân giới,nơi quân Trịnh-Nguyễn thường giao chiến,nên đi lần vào Nam.Nguyễn Nghi cư trú ở Gia Định.Năm 1730,giặc Sa Tốt Ai Lao và giặc Chân Lạp liên minh tấn công Gia Định,vợ ông bị chết trên đường chạy loạn.
Vốn trước đó,Nguyễn Nghi có nghe đồn đại nhiều về trấn Hà Tiên,về cảnh trí thiên nhiên cũng như hào kiệt và anh tài của vùng đất này,do đó,Nguyễn Nghi quyết dẫn con tìm đến trấn lỵ Phương Thành của trấn Hà Tiên.
Ở Phương Thành một thời gian,Nguyễn Nghi được Mạc Cửu,Tổng binh trấn Hà Tiên,kết nạp vào hàng nhân sĩ.Và chẳng bao lâu sau,tài văn chương của Nguyễn Nghi được Mạc Thiên Tích,con trai Mạc Cửu thán phục.Mạc Cửu qua đời,Mạc Thiên Tích được Chúa Nguyễn cho kế tập chức Tổng binh Khâm sai Đại Đô đốc,tước phong Tông Đức Hầu,quản lĩnh đất Hà Tiên.Mạc Thiên Tích kế nghiệp cha đẩy mạnh việc khẩn hoang,phát triển kinh tế và mậu dịch khiến Hà Tiên trở thành một đô hội sầm uất. Đặc biệt Mạc Thiên Tích lưu tâm đến việc tu bổ văn nghiệp. Ông chiêu tập các văn nho khắp nơi lập một hội tao đàn lấy tên là Chiêu Anh Các để làm nơi tụ hội của các tao nhân mặc khách đàm luận văn võ,trong nội điện là văn miếu thờ Thánh Khổng Phu Tử và làm nhà nghĩa học thu nạp các đệ tử ưu tú,giúp đỡ các thiếu niên hiếu học không còn điều kiện theo đuổi việc học.
Nguyễn Nghi là một trong các vị học sĩ được chọn giảng sách ở nhà nghĩa học.Vì học vấn uyên thâm và phẩm cách tao nhã nên ông được các môn sinh trọng vọng, đồng bối quý mến và được Mạc Thiên Tích mời dự vào việc tham mưu tư lệnh.
Nói về Phù Cừ,khi dời Gia Định theo cha chạy loạn,nàng phải cải trang thành một chàng trai để tránh mọi bất trắc dọc đường và khi về Hà Tiên, để tiện việc giao du với các môn đệ của cha,theo dõi việc nghiên bút,Phù Cừ ăn mặc theo lối thư sinh.Vốn tư chất thông minh,Phù Cừ là một trong những học trò xuất sắc của nhà nghĩa học.Do đó trong đêm hội nguyên tiêu,Phù Cừ đã được Mạc Thiên Tích chú ý và những văn nhân khác đều hết lời khen ngợi.Nguyễn Nghi hầu như gởi gắm tất cả tình thương và kỳ vọng vào đứa con gái duy nhất này. Ông định đôi năm nữa sẽ từ quan và đưa Phù Cừ về quê ngoại ở Gia Định để ở với bà ngoại và dì của Phù Cừ.Lúc đó Phù Cừ sẽ cởi bỏ lốt nam trang để sống cuộc sống bình thường như bao thiếu nữ khác.Nhưng dự định chưa thực hiện được thì Mạc Thiên Tích lệnh cho ông đem “gả thư sinh” Phù Cừ vào hầu nghiên bút ở trong dinh của Mạc Thiên Tích.
Nguyễn Nghi gặp cảnh tiến thoái lưỡng nan khó xử này lo lắng không yên.Cuối cùng Nguyễn Nghi đành nhờ hai bạn đồng bối thân thiết của ông vào dinh tâu trình việc Phù Cừ giả trai với Mạc Thiên Tích.Mạc Thiên Tích chẳng những không quở phạt gì mà trái lại còn ngỏ ý nạp Phù Cừ làm thứ cơ trong phủ.
Sau tiết Đoan Dương năm Đinh Tỵ (1737),Phù Cừ được tiến vào phủ.Giờ đây, Phù Cừ là thứ cơ của Mạc Thiên Tích.Nàng sống thanh nhàn ở một lầu Điệp Thúy,dựng trong khu đất biệt lập,có hồ nước trong veo,trồng loại sen trắng tuyệt đẹp. Đặc biệt càng ngày Phú Cừ càng được Mạc Thiên Tích sủng ái và điều này khiến Hiếu Túc Nguyễn phu nhân,vợ chính của Mạc Thiên Tích ghen ghét.
Hiếu Túc Nguyễn phu nhân là một phụ nữ có chí khí hơn người.Bà đã từng huy động giới phụ nữ viện quân lương hỗ trợ cho binh lính trong trận chiến thắng chống lại quân Chân Lạp tấn công Phương Thành năm 1793.Chính công lao này bà được Chúa Nguyễn ban trí vật phẩm và phong tước Hiếu Túc Nhất phẩm Phu nhân. Ở trấn Hà Tiên này,bà là người có uy quyền thứ hai sau Mạc Thiên Tích.
Hôm nọ,nhân lúc Mạc Thiên Tích đang chỉ huy cuộc lập trận ở diễn võ trường tại núi Ngũ Hổ,Nguyễn phu nhân lập kế bắt Phù Cừ nhốt dưới chậu lớn,thường đặt giữa sân lộ thiên để hứng nước mưa dùng riêng cho việc pha trà,hãm sâm,chưng yến và sắc thuốc.
Cuộc tập trận hôm đó ở bãi sớm hơn dự định vì bỗng nhiên trời đổ mưa dữ dội.Mạc Thiên Tích đội mưa phi ngựa về dinh.Giao cương ngựa cho thị vệ,Mạc Thiên Tích rảo bước vào trong. Ông thấy đám gia nhân đang lo hứng nước mưa,song ông chợt nhận ra chiếc chậu lớn nằm úp giữa sân chưa được lật lên để hứng nước.Mạc Thiên Tích ra lệnh cho gia nhân lật chiếc bồn ấy để hứng nước.
Đám gia nhân có vẻ chần chừ,rồi hè nhau lật chậu lên.Phù Cừ nằm trong chiếc chậu úp đã ngạt thở,tay chân co quắp, đầu tóc rũ rượi.Mạc Thiên Tích hiểu ngay mọi chuyện,liền ra lệnh cho đám thị nữ vực Phù Cừ vào nhà và truyền gọi thầy thuốc đến cứu chữa ngay.
Sau biến cố này,Phù Cừ xin Mạc Thiên Tích xuất gia.Mạc Thiên Tích tìm đủ cách khuyên giải,nhưng Phù Cừ nhất quyết xuống tóc phát nguyện tu hành.Thấy ái cơ của mình ý đã định,lòng đã quyết như vậy,Mạc Thiên Tích cho lập một ngôi am tự cho Phù Cừ,cho khắc biển ngoài cổng là Phù Cừ am tự.Mạc Thiên Tích cho đào một am nhỏ để trồng loại sen trằng,bứng từ ao trong dinh đem sang.Chùa Phù Cừ có từ đó.Về sau người đời không hiểu nghĩa của Phù Cừ xa lạ bèn đổi Phù Cừ thành Phù Dung cho hợp với thế thường.
(Kể lại theo Nàng Ái Cơ trong chậu úp của Mộng Tuyết)
(Nghìn năm bia miệng của Huỳnh Ngọc Trảng và Trương Ngọc Tường,NXB.TPHCM,1993)
92. PHÂN XỬ TÀI TÌNH
Ngày xưa,có một ông quan huyện có tài xét xử.Trong dân gian có vụ án nào rắc rối gay go nhất, ông đều có cách tìm ra manh mối và phân xử rất công bằng.
Một hôm,có hai người đàn bà dắt nhau đến công đường với một tấm vải.Trước mặc Quan,một người mếu máo thưa:
-Bẩm Quan,sáng nay con mang một tấm vải đi chợ bán.Bà này hỏi mua,con đưa cho bà ấy xem.Thế rồi tự dưng nó cướp không tấm vải bảo là của nó, nhất định không chịu trả lại cho con nữa.Thật là chuyện ngược đời! Xin quan đèn trời soi xét.
Quan nhìn sang người đàn bà thứ hai thì thấy bà này cũng rưng rưng nước mắt,kể lể:
-Bẩm Quan,chính nó mới là đồ ăn cắp. Tấm vải này là của con vừa dệt xong mang đi chợ.Con để nó trong cái thúng khảo,thế mà vừa ngoảnh đi một lát,nó dám thò tay vào lấy ,chính con bắt được quả tang.Thế mà nó còn dám đặt điều để vu oan giá họa…
Quan ngắt lời hai người,bảo mỗi bên phải cử ra một người ít nhất cũng đã chứng kiến vải của mình khi bị lấy mất.Nhưng cả hai đều không tìm ra được người làm chứng,chỉ vì sự việc xảy ra ở một nơi vắng vẻ,lúc đó chưa có người qua lại.Quan lại gọi hai người lính lệ,bảo chúng tìm về tận nhà mỗi bên thử xem,có phải đúng vải của học dệt ra như lời khai hay không.Nhưng khi hai người lính trở về thuật lại thì Quan rất lấy làm ngạc nhiên,vì cả hai đều có khung cửi như nhau,khổ vải bằng nhau và chính sáng sớm ngày xảy ra câu chuyện,bên nào cũng mang một tấm vải đi chợ bán.Thật rắc rối làm sao! Quan cố nhìn vào thần sắc từng người để dò ý tứ.Nhưng Quan chỉ thấy vẻ đau đớn vì mất của hiện trên nét mặt của hai người,không có gì khác hơn.Suy nghĩ một chốc,Quan ôn tồn bảo họ:
-Cả hai mụ đều có lý cả.Biết làm sao bây giờ.Thôi ta phân xử thế này:giờ đem cắt tấm vải ra làm đôi,chia mỗi người một nửa.Thế là ổn.Hãy đi về mà làm ăn!
Nói xong,Quan sai lính đo vải xé ngay giao cho mỗi người một nửa.Thấy thế,một bà bỗng ôm mặt khóc thút thít.Lập tức Quan sai trả cả tấm vải cho người đàn bà ấy rồi thét lính trói người kia lại vì chỉ có chủ nhân thực sự của tấm vải mới đau xót bật ra tiếng khóc kia.Quả nhiên,sau một hồi tra khảo,người đàn bà đành cúi đầu nhận tội.
Một hôm khác,Quan đi hành hạt qua một cái chợ,bỗng nghe tiếng chửi rủa huyên náo,vội tiến lại xem có việc gì. Đến nơi,thấy một người đàn bà đang gân cổ lớn tiếng chửi kẻ đã bắt trộm con gà của mình.Hỏi người xung quanh thì họ cho biết là mụ ta chửi như thế đã được hai ngày,ai cũng lấy làm khó chịu.Quan vội sai người hầu bước tới cùng lời khuyên can:
-Này mụ kia,sao mụ lắm lời thế?
-Của tôi,tôi xót-người đàn bà đáp-can gì đến chú.
Nói xong lại tiếp tục chửi.Quan bèn cho chức dịch đòi người đàn bà lại hỏi:
-Sao mụ ác khẩu thế!Một con gà phỏng có bao nhiêu mà mụ chửi rủa nặng lời?
Người đàn bà nói:
-Bẩm Quan,con chăm chút bấy lâu mới được một ổ gà.Nay nó lấy mất gà lẫn trứng,không căm tức sao được!
Quan hất hàm bảo bọn chức dịch:
-Ta ghét con mụ này ngoa ngoắt, độc mồm độc miệng,làm cho xóm giềng điếc tai nhức óc đã hai ngày,không thể không trị tội được.Vậy cho đi rao trong xóm đòi tất cả mọi người ra đây.Cho mỗi người tát cho mụ một cái vào má cho rõ đau để trả nợ việc mụ xúc phạm đến sự yên tĩnh của hàng xóm.
Lệnh Quan ban ra,mọi người không thể không tuân theo.Mặc dầu ai cũng ghét mụ ngoa ngoắt,người ta vẫn thấy thương con người đã mất gà lại bị đánh,cho nên ai cũng sẽ tay vả nhẹ mỗi người một cái vào má cho xong.Chỉ có tên ăn trộm căm mụ đã gào đến tam đại nhà mình nên hắn cứ theo đúng lệnh Quan,vả mụ một cái thật đau cho bỏ tức.
Nhưng khi hắn vừa bước ra khỏi đám đông thì Quan đã gọi giật lại,vạch đúng tội trạng và tâm lý của hắn.Hắn không thể chối cãi được, đành thú nhận.
Một hôm khác,Quan đi qua một ngôi chùa lớn,ghé vào vãng cảnh chùa.Sư cụ trong chùa thấy Quan liền ra đón tiếp kính cẩn,mời vào phương trượng uống trà.Sư than thở với Quan rằng mình có giữ cho chùa một số tiền lớn, không may bị kẻ trộm trộm mất cả.Nhưng Sư không biết ngờ cho một ai,lại cũng không muốn trình Quan,sợ làm khổ lây bọn đồ đệ.Nay Sư có ý muốn nhờ Quan kín đáo xét hộ mình một tý.
Quan hỏi rõ sự tình vụ trộm trước sau rồi chỉ lên tượng Phật bảo Sư cụ:
-Đức Phật ngài thiêng lắm,sao Hòa thượng không cầu người tìm giúp,chả hơn là nhờ tôi ư?Đức Phật, có phép làm cho kẻ giam cầm hạt thóc nảy mầm.Nếu Hòa thượng muốn, tôi sẽ xin vì nhà chùa làm thử một phen.
Nói rồi bảo Sư cụ biện lễ cúng Phật.Trong khi Hòa thượng làm lễ,Quan cho gọi tất cả sư vãi và những lẻ ăn người ở trong chùa ra để chạy đàn.Quan bảo mỗi người một tay cầm nhang và tay kia cầm một nắm thóc đã ngâm nước,rồi nói:
-Sư cụ có cho biết là chùa ta trước đây có mất một số tiền mà không rõ ai là người lấy trộm.Ta chắc Ngài rất thiêng.Bây giờ,mỗi người cầm một nắm thóc đã ngâm nước rồi vừa chạy vừa niệm Phật.Nếu đúng là kẻ gian, đức Phật sẽ làm cho thóc trong tay nảy mầm.Như vậy gian ngay tỏ rõ,khỏi phải tra khảo phiền phức.
Cả đoàn người mới chạy được vài vòng thì Quan đã thấy một chú tiểu thỉnh thoảng lại hé tay cầm thóc ra xem.Liền đấy Quan sai mọi người dừng lại,bắt lấy chú tiểu,vì chỉ có tật mới hay giật mình,nên thỉnh thoảng lại nhìn trộm như thế.
Chú tiểu thấy vạch đúng lý, nhận tội.[13]
93. TÚ UYÊN
Vào đời Hồng Đức,có một người học trò nghèo,cha mẹ chết sớm,trọ học ở phường Bích Câu,phái Nam thành Thăng Long,chàng rất hay chữ,tuy chưa đỗ đạt gì, người ta cũng gọi chàng là Tú Uyên.
Một ngày,vào mùa xuân,chùa Ngọc Hồ mở hội Vô-già,thiện nam tín nữ ở kinh đô và bốn phương tụ họp rất đông.Tú Uyên không bỏ lỡ cơ hội đi tìm người đẹp.Chàng vui chân đi quanh quẩn mãi đến tận chiều,bèn ngồi nghỉ ở gốc đa gần chùa.Chợt trông thấy một cái lá bay đến trước mặt,chàng nhặt lên xem,thì ra sau lưng lá có đề một bài thơ đầy những lời trêu ghẹo.Chàng tưởng có người nào ở trên lầu cao ném xuống,rồi nấp vào một chỗ.Nhưng ngước nhìn mọi nơi,mãi chẳng thấy gì cả. Đương lúc ngơ ngác,Tú Uyên bỗng thấy một đám người từ trong chùa đi ra,trong đó có một cô gái rất đẹp.Thấy nàng liếc mắt đưa tình,chàng tiến lại bắt chuyện.Hai người vừa đi vừa chuyện trò vui vẻ.Lòng Tú Uyên như nở hoa.Nhưng khi sắp đến đình Quảng Văn thì người con gái bỗng biến mất.Tú Uyên đứng ngẩn ra rất lâu,mãi đến tối mới trở về nhà.
Từ đấy, Tú Uyên đêm mơ ngày tưởng không thiết gì đến ăn uống,học hành.Nghe tin đền Bạch Mã rất thiêng,chàng đến xin quẻ thẻ rồi ngủ đêm tại đền cầu mộng. Đêm ấy,thần hiện ra trong giấc mộng của chàng,bảo rằng:
-Này anh chàng mê sắc kia, sáng mai hãy đến cầu Đông,ta sẽ cho biết một tin rất tốt.
Hôm sau,chàng y hẹn, đến cầu Đông. Đợi mãi chẳng thấy ai cả.Cuối cùng mới gặp một ông già bán tranh, ông đưa tới mời chàng mua một bức tố nữ.Chàng mở ra xem thì không ngờ hình dạng người tố nữ trong tranh trông chẳng khác gì người mà mình mong đợi.Chàng mua ngay, đem về tren bên cạnh chỗ ngồi. Đến bửa ăn,chàng dọn ra hai đôi đũa,hai cái bát,mời người trong tranh ăn cùng như mời người thật.Chàng hơi ngạc nhiên cảm thấy tố nữ trong tranh hai má đỏ bừng dường như có ý thẹn.
Một hôm Tú Uyên đi học về thì thấy giữa giường đã sẵn một mâm cơm có thức ăn ngon,khác với cơm rau thường ngày.Tuy chưa hiểu là của ai cho,nhưng đói bụng,chàng cũng ngồi vào ăn.Tiếp mấy hôm sau,mâm cơm đều dọn sẵn như thế.Chàng nửa ngờ nửa mừng,không hiểu ra làm sao.
Hôm khác, chàng giả tảng đi học,nửa đường lộn về,nấp ngoài cửa số dòm vào.Chàng thấy tố nữ từ trong tranh bước ra dọn dẹp nhà cửa và xuống bếp làm cơm,Chàng đột ngột xô cửa bước vào,nắm chặt tay nàng mà rằng:
-Để tôi bấy lâu trông đợi mỏi mòn con mắt! Thôi bây giờ nhất định không cho nàng ra khỏi đây đâu!
Nói xong,Tú Uyên giật bức tranh trên tường xé đi.
Người con gái đỏ hai má,sẽ đáp lại:
-Sao chàng ác thế! Thiếp đã lạc vào nhà chàng rồi, đâu dám không vâng lời.
Rồi nàng cho biết tên mình là Giáng Kiều,vốn có duyên nợ với chàng, nên được xuống trần cùng kết làm đôi lứa.Tú Uyên không còn gì sung sướng hơn thế nữa.Chàng giơ tay lên trời thề bồi.Hai người chuyện trò hồi lâu.Tú Uyên giục nàng thành thân, Giáng Kiều bảo:
-Để thiếp bày tiệc mời các bạn tiên đến chứng kiến cho lễ cưới của đôi ta đã.
Nói xong nàng rút trâm trên đầu hóa phép thành một nơi màn gấm rèm ngọc,kẻ hầu người hạ rầm tập, đồ ăn thức đựng lộng lẫy.Chỉ một lát, cỗ bàn bày ra, đàn sáo vang lừng,các bạn tiên lần lượt đến ăn uống trò chuyện,ca hát nhảy múa rất là vui vẻ.
Nhưng từ ngày được vợ đẹp,Tú Uyên không buồn giở đến sách nữa.Suốt ngày chàng ở bên vợ và đặc biệt một điều là chàng thích uống rượu và ăn ngon.Giáng Kiều khuyên can mãi nhưng Tú Uyên chứng nào vẫn tật ấy.Ba năm trôi qua,chàng không lai vãng đến nhà học.Dần dà chàng trở nên nghiện rượu, đã uống là uống đến say,khi say không còn biết trời đất là gì nữa,thậm chí nhiều lần chửi mắng vợ.Giáng Kiều giận lắm.Một hôm,chồng từ tửu quán khật khưỡng bước về,nàng vực vào giường rồi nhân chồng ngủ thiếp đi,nàng liền bay về trời.
Tỉnh rượu,Tú Uyên không thấy vợ,rất lấy làm hối hận.Suốt một tháng,chàng bỏ ăn bỏ ngủ,kêu khóc thảm thiết.Bạn bè hết lời khuyên dỗ nhưng chàng không giảm được ưu sầu.Giận thân,chàng chỉ muốn tự vận cho xong đời.Nhưng khăn vừa vắt lên xà nhà thì bỗng có trận gió thoảng đưa mùi hương đến.Giáng Kiều đã hiện ra trước mắt.Chàng vừa vui vừa thẹn,thề xin chừa hẳn rượu.Hai vợ chồng lại vui vẻ như xưa.
Chẳng bao lâu Giáng Kiều sinh được một trai. Đứa bé lớn lên rất thông minh,học ngày một giỏi.
Một đêm nọ,bỗng có hai con hạc đến đón ở sân.Hai vợ chồng dặn con ở lại,rồi cưỡi hạc lên trời.[14]
94. NÀNG ÚT
Hai vợ chồng nhà nọ hiếm con,hết lời cầu khẩn xin đức Phật để có một đứa.Người vợ sau đó tự nhiên có mang và đẻ ra ở đằng trán một cô bé bằng ngón tay nên đặt là Nàng Út.Cho là quái,bố mẹ chỉ những muốn vứt bỏ con đi đâu cho khuất mắt.Một hôm,người bố đưa Út lên rừng sâu,bảo Út đứng chờ một chỗ,chờ chặt củi xong thì sẽ mang về.Nhưng sau đó, ông ta theo đường khác lẻn về,bỏ con lại. Út cứ chờ bố hết ngày này qua ngày khác.Trước đó có một con quạ ăn dưa nhả hạt ở gần chỗ Út đứng.Hạt mọc thành cây.Út dùng lá dưa như một thứ mái để che sương gió.Cây có quả, Út nâng niu quả đưa, định bụng dành cho bố.
Bỗng có một Hoàng tử đi săn qua đấy, thấy quả dưa chín bèn hái ăn,quẳng vỏ lại. Út ăn dưa thừa,tự nhiên có mang đẻ ra một đứa con trai cũng bé xíu như mẹ nó.Hai mẹ con ở trên cây đa.Sau đó một hôm nhớ tới quả dưa ăn lần trước,Hoàng tử bèn tìm đến khu rừng cũ.Trông thấy mẹ con Út,Hoàng tử bỏ cả vào hai túi đưa về cung rồi lấy Út làm vợ.Vua cha thấy thế giận lắm,tìm cách chia rẽ.
Một hôm vua ra lệnh cho các cung nữ,ai may áo cho vua vừa vặn thì sẽ cho làm vợ Hoàng tử.Bộ quần áo vua mặc vừa vặn và đẹp nhất là của nàng Út.Vua lại ra lệnh ai dọn cỗ mà vua nếm thấy ngon thì được lấy Hoàng tử.Cỗ ngon nhất lại là của Út.Vua lại sai mở hội trong cung thi sắc đẹp,kén vợ cho Hoàng tử.Trong khi Hoàng tử lo lắng thì Út lập đàn cầu trời.Thần hiện xuống làm cho nàng lớn lên như người thường,nhan sắc tuyệt vời.Vua hài lòng cho phép Hoàng tử lấy Nàng Út.[15]
95. VỢ LÀ OAN GIA
Một người họ Trương tên là Thiện Hữu thường ăn chay niệm Phật,lấy vợ họ Lý,tuy làm ăn khá giả nhưng chưa có con.Gần làng có một người tên là Thiệu Đình Ngọc,nhà nghèo,mẹ chết không có tiền làm ma,mới tìm đến ăn trộm nhà Thiện Hữu lấy được sáu mươi lạng bạc trót lọt.Sau đó, có một nhà sư ở Ngũ Đài Sơn đi quyên giáo đến gửi cho Thiện Hữu hơn một trăm lạng của nhà chùa.Chồng đưa cho vợ cất.Một hôm bận đi hành hương ở miếu Đông Nhạc,chồng bảo vợ hễ sư đến lấy thì giao.Nhưng khi nhà sư đến, người vợ kiếm điều đuổi đi,nói nhà mình không giữ tiền nong gì cả.Khi chồng về, vợ nói dối đã giao tiền cho sư rồi.
Hai năm sau, người vợ đẻ được một con trai,từ đó nhà làm ăn khấm khá.Năm năm sau lại sinh được đứa thứ hai.Con cả thức khuya dậy sớm, ăn không dám ăn,tiêu không dám tiêu.Trái lại con thứ hai thì cờ bạc hát xướng không lúc nào ngơi,nợ như tổ đỉa.Bố mẹ thấy thế,chia của làm ba phần,hai con hai phần mình giữ lấy một.Nhưng đứa con thứ hai phá tán gia tài chỉ trong nửa năm.Hết lại đến đòi bố mẹ. Được ít lây người anh cả ốm nặng rồi chết.Người mẹ buồn rầu khóc lóc đến chảy máu mắt rồi cũng qua đời.Liên tiếp gặp mấy cái tang.Thiện Hữu đau xót quá,bèn đến trước miếu Đông Nhạc kêu gào với thần.Bỗng nằm thiếp đi,thấy mình đến trước Diêm Vương,Diêm Vương hỏi:
-Có muốn gặp con không?
-Có.
Quỷ vâng lệnh vua đưa hai đứa đến.Thiện Hữu mừng rỡ bảo con cả:
-Con ôi! Con trở về với cha nhé!
Nó lạnh lùng đáp:
-Tôi không phải là con ông.Kiếp trước tôi là Thiệu Đình Ngọc vì trộm bạc của ông nên tôi phải làm con ông để trả đủ vốn lẫn lãi đó thôi!
Người cha lại quay sang đứa thứ hai:
-Con về với cha nhé!
Đáp:
-Tôi cũng không phải con ông.Xưa tôi là sư ở Ngũ Đài Sơn vì ông cướp không số tiền quyên giáo,nên tôi đầu thai đòi cả vốn lẫn lãi.
Thiện Hữu nói:
-Tôi mà cướp quyên giáo của chùa ư?Vợ tôi chả đã giao cho Hoà thượng đủ số rồi kia mà!
Diêm Vương hỏi:
-Có muốn gặp vợ không?
-Có.
Quỷ lại đưa vợ đến với gông ở cổ,xiềng ở chân.Thiện Hữu hỏi về số tiền quyên giáo.Vợ kể cho biết sự thật,và cho biết mình đang ở tầng địa ngục thứ mười tám,bị hành hạ rất khổ sở.Nói xong níu lấy áo chồng kêu cứu.Thấy vậy,Diêm vương đập bàn quát tháo.Thiện Hữu chợt tỉnh dậy,sau bỏ đi tu.[16]
96. NGƯỜI CON NUÔI NHÀ CHÙA THÀNH VUA HỌ LÝ
Vào thời nhà Đường,niên hiệu Trinh Nguyên[17],ở hương Diên Uẩn,huyện Đông Ngàn,phủ Từ Sơn,Kinh Bắc[18],có nhà sư Định Không làm chùa Quỳnh Lâm ngay ở trong hương,khi cho đào móng tường thấy mười cái khánh,một cái rơi xuống núi. Đêm ấy,nhà sư về mơ thấy thần Thổ Địa báo mộng là phải đổi tên bản thổ thì mọi việc mới tốt lành.Nhân việc đào được mười cái khánh,một cái rơi xuống nước,sư Định Không mới tán tự rằng: “Thập khẩu” là chữ “Cổ”, “Thủy khứ” là chữ “Pháp”.Từ đó xin sư đổi tên Diên uẩn thành Cổ Pháp.
Thời nhà Đinh,trong hương Cổ Pháp có bà Phạm Thị đi làm thuê ở chùa Ứng Thiên.Hàng ngày,bà quét dọn chùa,gánh nước,tưới cây,giữ vườn.Bà làm việc luôn chân tay suốt ngày đên đêm khuya cho quên sự cô đơn,nghèo khổ của mình,không bao giờ cất lời than thân,trách phận.Bà tự an ủi, được làm cho nhà chùa là đại phúc,cố tu nhân tích đức,Phật đoái thương,trăm tuổi về già lại được về hầu nơi nước Phật.
Một đêm mùa hạ tối trời,bà Phạm Thị đun bếp xong,mệt quá,nằm ngủ luôn bên bếp.Nhà sư bước qua,sơ ý chạm phải chân bà,bà liền thụ thai.Ban đầu bà còn giấu giếm nên không ai biết.Mấy thàng sau bụng bà to dần lên,nhà sư sợ mang tiếng,bèn đuổi bà đi khỏi chùa.Bà lẳng lặng như một cái bóng ra đi ,lang thang ăn xin,nay đây mai đó,tới đâu là ngủ,ngủ đâu là giường.Một hôm,trời đã tối sẫm,bà đến chùa Gia Châu xin ngủ nhờ qua đêm.Nhà sư Trụ trì thấy bà bụng chửa vượt mặt,trời lại tối tăm,rất ái ngại,liền gọi tiểu dọn cho bà ở nhờ trong phòng Ni cô. Đêm khuya,bà trở dạ,bỗng trời nổi mưa to gió lớn,có ba bà mụ hiện lên ban thuốc thang và đỡ đẻ cho bà.Bà sinh ra một cậu con trai,gương mặt sáng sủa,khôi ngô,thanh tú. Được bảy ngày sau,không còn gì để ăn,bà ẳm con đến ăn mày chùa Cổ Pháp.Sư chùa là Lý Khánh Văn nuôi được một con chó lạ,hễ có vua đến thì chó sủa mừng quấn quýt.Con chó ấy đẻ được một con lông trắng,trên lưng có vằn đen thành chữ “Tuất Thiên Tử”, mà năm ấy lại là năm Giáp Tuất.[19] Ở cổng chùa Cổ Pháp cũng tự nhiên xuất hiện chữ “vương quốc chi niên” (năm đổi niên hiệu vua).Khi bà Phạm Thị ẳm con đến ăn xin thì con chó bỗng sủa lớn rồi mừng quấn quít y như trước đây nó đã từng sủa mừng khi có vua xa giá về chùa. Sư Lý Khánh Văn hỏi sự tình,biết đứa trẻ sinh ở chùa Gia Châu,tuổi Tuất,bèn xin đứa trẻ làm con nuôi.Bà Phạm Thị nghĩ mình quá khó khăn,không thể nuôi nổi con,lại gửi được con vào đất chùa,nơi phát tâm bồ đề,con mình có điều kiện nhờ cậy,sẽ có ngày trở lại đón con về.Nghĩ vậy,bà bằng lòng cho con làm con nuôi thầy chùa họ Lý.Bà Phạm Thị gạt nước mắt để con lại nhà chùa , đi đến đồi Báng thì không may bị cảm đột ngột mà mất.Khi người ta biết thì mối đã đùn lên thành gò mả lớn.
Mấy người trong hương ấp đi ngang qua thấy ngôi mả lớn mới ở bên đồi,hỏi nhau:
-Mả ai táng ở bên đồi lúc nào mà lớn như thế nhỉ?
Bỗng trên trời có tiếng nói âm vang vọng xuống:
-Mả mẹ vua Lý do thiên Thần táng đấy.
Mọi người ngơ ngác,ngước nhìn lên không trung,chỉ thấy một vạt mây trắng hình thù như ông tiên râu tóc trắng lốp đang chống gậy trúc bay về phương tây.
Mọi người vừa lạ,vừa sợ,rảo bước rời khỏi đồi Báng.Quả đồi này từ đấy gọi là Đồi Mả Báng.[20]
Sư Lý Khánh Văn nuôi đứa trẻ rất tận tình,chu đáo,lấy họ mình làm họ cho đứa trẻ, đặt tên là Công Uẩn.Khi Lý Công Uẩn lên bảy,tám tuổi.Lý Khánh Văn đưa đến gửi anh là sư Vạn Hạnh Trụ trì chùa Lục Tổ dạy dỗ cho.Sư Vạn Hạnh nổi tiếng tài cao,học rộng tinh thông Tam Giáo,[21] được Lê Đại Hành mời làm quân sư cho nhà vua.
Mọi việc đánh Tống,phạt Chiêm,dựng xây đất nước,vua Lê đều đích thân đến hỏi Vạn Hạnh cả.Nay Lý Khánh Văn đem con đến gửi,Vạn Hạnh là bác ruột nên hết lòng chăm chút,dạy dỗ cháu [22].Công Uẩn học giỏi không ai bì kịp,nổi tiếng là Thần đồng giáng thế.
Nhưng có một điều lạ là hàng tháng cứ vào ngày mồng một và ngày rằm,nhà chùa đóng oản cúng Phật thì cậu lại ăn vụng trước.Phật báo mộng cho sư Vạn Hạnh biết là “Vua ăn trước Bụt”. Vạn hạnh gọi lũ trẻ trong chùa lại mắng.Công Uẩn chẳng nói chẳng rằng,bụng thầm giận Phật lắm, bèn lấy than viết vào lưng Phật ba chữ “Lưu viễn châu” (đày đi xa). Đêm hôm ấy,Phật lại báo mộng từ biệt sư để ra đi,vì “Vua chẳng cho Bụt oán ai”.Sáng hôm sau,sư Vạn Hạnh lên chùa xem thì quả sau lưng các tượng Phật đều có viết ba chữ “Lưu viễn châu”.Sư nghi ngờ có thể là Công Uẩn viết, nhưng muốn thử xem có đúng thế không,liền gọi lũ trẻ trong chùa lại nói:
-Ai ấy phải hòa,ai ấy phải rửa đi.
Lũ trẻ không ai nói năng gì cả.Nhà sư nấp vào sau cánh cửa chùa xem thì thấy Công uẩn thấm giấy lau các chữ sau lưng Phật đi. Đêm ấy,Phật lại hiện về báo cho sư biết:
-Vua cho ở lại chùa rồi.
Từ đó,Vạn Hạnh biết Công Uẩn sẽ là vua sau này,nhưng chẳng nói cùng ai,càng dày công chăm lo dạy dỗ Công Uẩn về mọi mặt.
Năm Công Uẩn mười bảy tuổi,sư Vạn Hạnh dẫn vào cung đình Hoa Lư tiến cử với vua Lê Đại Hành.Nhờ trí thông minh,tài thao lược,lại do Quân sư Vạn Hạnh nổi tiếng tài cao,học rộng tiến cử,Lý Công uẩn chẳng mấy chốc đã nổi danh, được phong chức Tứ Sương quân rồi thăng đến chức Thân vệ Tướng quân,Khi vua Lê Ngọa Triều mất, quần thần rước Lý Công Uẩn,tôn lập làm vua, khi ấy Ngài mới tròn ba mươi lăm tuổi.
Một đêm Lý Công Uẩn đang ngủ trong điện Trường Xuân,thấy thần nhân hiện lên nói:
-Ta là Thần Long Đỗ, đất Đại La, khuyên Vương nên dời đô về xứ đó là nơi khí thiêng núi sông hội tụ để thượng kinh muôn đời.
Nhà vua tỉnh dậy,mới đầu canh tư,tâm thanh,lòng sáng,Ngài ngồi vào án viết Chiếu Dời Đô.Sáng hôm sau,Vương truyền hội triều,ban chiếu dời đô Hoa Lư về Đại La Thành.Khi đoàn thuyền nhà vua về đến bến Long Biên,thấy rồng vàng bay lên trước đầu thuyền.Nhà vua mừng lắm,cho là điềm lành khánh hội long vân.liền truyền đặt tên kinh đô mới của Đại Cồ Việt là Thăng Long (Rồng bay).Nhà vua cho đổi cố đô Hoa Lư thành phủ Tràng An, đổi châu Cổ Pháp,quê Ngài thành phủ Thiên Đức,lại chọn một khoảng đất phía ngoài hương Cổ Pháp xưa làm cấm địa để xây dựng sơn lăng.Tám vua nhà Lý băng hà đều an táng ở đây,sau dân lập đền thờ Lý Bát Đế ở phía đông làng Cổ Pháp,còn Lý Chiêu Hoàng,con dâu nhà Trần có đền thờ riêng ở phía nam làng.
Hơn bốn trăm năm kể từ khi có điềm báo “Tuất Thiên Tử” đến câu sấm ký trên thân cây gạo ở hương Cổ Pháp,nhà Lý thay nhà Tiền Lê,nhà Trần thay nhà Lý,rồi nhà Lê lại xuất hiện,mọi sự việc diễn ra đúng như những điềm báo ấy,chẳng sai chút nào.Ai cũng bảo:
-Thế mới biết vạn sự do Thiên cả!
Lại nói khi Lý Công uẩn lên ngôi,Ngài phong mẹ là Phạm Thị là MInh Đức Thái Hậu,thân sinh Ngài được tôn phong là Hiển Khánh Vương nhưng không có họ tên.Dân gian bảo:
-Chỉ biết Ngài là con nuôi nhà chùa thành vua thiên hạ mà thôi.
(Truyền thuyết Đinh Lê, Trương Đình Tưởng,NXB.VH-DT,2003)
97. CÔ HỒN ĐỀN ƠN
Một ông bá hộ chăm cúng cô hồn vào ngày rằm tháng bảy.Một người hàng dầu đêm ngủ ở bãi tha ma nghe ma nói chuyện với nhau rằng:
-Ông ấy có lòng tốt nhưng cúng không tinh khiết vì lá chuối vấy máu.
Hắn lể lại cho ông bá hộ nghe.Ông này biện một lễ cúng khác. Đêm lại,người hàng dầu lại nghe ma nói với nhau:
-Lễ cúng lần này vẫn ô uế vì nấu phải củi chuồng lợn.
Nghe người hàng dầu mách,bá hộ vẫn không nản,bèn nhờ nhà chùa biện lễ cúng lần thứ ba.Hôm sau,người hàng dầu nghe chúng nói:
-Một trăm ngày nữa sẽ đền ơn.
Vì tham lam,hắn không báo tin này cho bá hộ. Đúng ngày,hắn rình ở cửa nhà bá hộ quả thấy ma khiêng bá cái chum đến đặt trước sân.Mở ra, hắn thấy vàng bạc nhưng khi thò tay vào thì lại là rắn.Hắn sợ rụt tay lại,thì rắn lại hóa ra vàng bạc như cũ.Hắn bèn gõ cửa làm bộ báo tin cho bá hộ để lấy công.Bá hộ đền ơn bằng cách biếu hai thoi vàng,hai thoi bạc.Hắn ra chợ uống rượu say bị người ta lấy cắp,cuối cùng về tay không.[23]
98. CÁI CÂN THỦY NGÂN
Xưa có một nhà làm nghề buôn bán, âm mưu chế ra một cái cân rỗng,trong đổ thủy nhân ,hai đầu bịt đồng,không ai biết.
Khi cân hàng bán cho người ta thì dốc cái cân vào đàng móc,khi cần hàng mua của ai,thì lại dốc cán cân vào đàng quả.Như vậy một cái cân vừa nặng,vừa nhẹ được và bao giờ phần lợi cũng về mình.Vì buôn bán điên đảo như thế, mà không bao lâu nhà ấy trở nên giàu có.Trời cho,lại sinh ra được hai đứa con trai,mặt mũi khôi ngô,học hành thông thạo.Thiên hạ ai nấy đều khen là nhà có đại hồng phúc.
Một hôm,hai vợ chồng ngồi bàn với nhau rằng:
-Nhà ta bây giờ giàu có hơn người nhiều,lại sinh được hai đứa con khôn ngoan,giỏi giang “một mặt người bằng mười mặt của”, thôi thì bây giờ ta đem phá bỏ cái cân điên đảo kia đi, để dành cái đức lại cho con về sau.
Bàn xong,hai vợ chồng thuận tình sửa cái lễ sám hối,trên thì cúng Phật,dưới thì cúng các ông bà ông vải.Rồi đem cái cân ra chẻ.Nhưng khi chẻ,thật ghê thay,lại thấy trong cái cân có đọng một cục máu đỏ hon hỏn.
Từ đó hai vợ chồng bảo nhau ăn ở tu nhân tích đức, tránh điều dữ,làm điều lành.
Nhưng cách đó vài năm,bỗng một hôm,một đứa con lăn ra chết.Và chẳng bao lâu, đứa kia cũng lăn ra chết nốt.
Hai vợ chồng kêu gào khóc lóc rất là thảm thiết,nghĩ rằng mình đã có bụng cải ác vì thiện mà trời không chứng quả.
Hai vợ chồng rầu rĩ,khổ sở,cứ ngồi than dài thở vắn trong mấy tháng trời,không buồn động đến việc gì nữa.Một đêm,hai vợ chồng cùng nằm mơ thấy có một ông Bụt đến bảo rằng:
-Hai vợ chồng mày hãy nên lo toan làm ăn tu tỉnh lại.Chớ vội ngồi vậy mà trách trời không có mắt! Trời thương chúng mày lắm đó! Trước trời thấy chúng mày buôn bán lọc lừa,trời đã sai hai con quỷ xuống đầu thai làm con để phá tan cho hết những của phi nghĩa chúng mày chắt bóp nhặt nhạnh bao nhiêu năm nay.May mà chúng mày sớm biết hối hận cải tà quy chánh,tránh dữ làm lành.Trời mới sai bắt hai con quỷ ấy về. Đừng thương tiếc chúng nó làm chi nữa.Chúng mày cứ ăn ở ngay lành rồi trời lại đến cho hai đứa con khác để ngày sau mà nhờ.
Hai vợ chồng biết thế, không thương khóc con nữa, lại làm ăn như cũ,và lúc nào cũng tâm niệm cố gắng làm nhiều điều từ thiện.
Quả nhiên sau lại sinh được hai đứa con trai khác.Hai đứa cũng hiền lành,tử tế, văn hay chữ tốt,và sau lớn lên làm cho cha mẹ được vẻ vang vui sướng cái cảnh về già.[24]
99. ĐẠI TIỆN
Kết thúc buổi giảng đạo,nhà sư trẻ bị một thanh niên trông rất nhanh nhẹn, thông minh,nhưng hơi tự kiêu chất vấn,Mục đích là thử tài vị sư trẻ như thế nào cho biết.Anh ta mới rẽ đám đông đi đến vị sư trẻ và hỏi:
-Theo sư nói thì phật ở khắp mười phương,vậy sư đi đại tiện ở phương nào?
Nhà sư biết thanh niên chơi xỏ mình liền trả lời:
-Này thanh niên,theo tôi phương nào không thắp hương thì đại tiện.
Thanh niên cảm thấy không ngờ nhà sư này qua bạo như thế, liền qua gót đi mất.
100. QUÍT DÀY CÓ MÓNG TAY NHỌN
Ngày xưa, có một nhà truyền giáo Tây phương đi ngang qua một làng nọ.Trong làng có một ngôi chùa cũ kỹ,trông có vẻ hiu quạnh.Trước chùa làng có trồng năm ba hàng dâm bụt làm cảnh cũng để làm hàng rào ngăn chặn sự phá phách của súc vật.Thấy cảnh chùa như thế, nhà truyền đạo bèn ngẫu hứng đề vào cổng chừa câu đối tặng nhà sư:
Trước cửa chùa có cây dâm bụt
Bụt không dâm sao nói Bụt dâm
Nhà sư trụ trì sau khi đọc xong vẫn mĩm cưới im lặng,không nói gì.
Một hôm, đi ngang qua đầu chợ,thấy trong nhà thờ mới xây dựng,tượng còn mới toanh.Nhân đó sư ta bèn viết tặng hai câu đối đáp lễ như sau:
Sau nhà thờ có con dê chúa
Chúa không dê sao nói chúa dê
Thiên hạ đi ngang qua,ai cũng lấy làm thán phục tài đối đáp của hai vị đạo cao đức trọng này.Họ bèn ngâm câu Kiều của Nguyễn Du để tự thưởng thức đồng thời cũng để tặng hai vị:
Vị mày quỷ quái tinh ma
Phen này kẻ cắp,bà già gặp nhau.[25]
CHÚ THÍCH
[1] Cáy là loại rạm,cua đồng nhỏ.
[2] Theo Truyện cổ tích Việt Nam của Nguyễn Bính.
[3] Nguyễn Đổng Chi,KTTCTVN,tập 1,tr.355,NXB.GD,2000.
[4] Nguyễn Đổng Chi,KTTCTVN,tập 1,tr.784,NXB.GD,2000.Theo lời kể của người Hưng Yên,Hà Đông và tạp chí Nam Phong.
[5] Theo Landes,sách đã dẫn.
[6] Nguyễn Đổng Chi,KTTCYVN,tập 1,tr.995,NXBGD,2000.Theo tạp chí Đông dương tập XIII,số 1 (1910).Một dị bản của truyện này như sau:Một nhà sư sang Tây trúc thỉnh kinh, đến bờ biển không có đò,nhờ có con rùa nổi lên chở đi.Dọc đường rùa dặn: -“Xin ông hỏi hộ với Phật tại sao tôi cứ phải ở nước mãi, khổ lắm!”. Sư ta nhận lời.Khi sư quay về lại được rùa đón chở. Đi được nửa đường,rùa hỏi về điều mình nhờ hỏi hộ.Sư đáp: - “À,quên!. Rùa giận,lặn mất.Vì thế kinh kệ ướt cả,may có con diều tha kinh lên phơi phóng.Do câu chuyện này người ta cho rằng rùa bị tội đội bia.Còn diều thì được biểu dương bằng cách ngậm phướng. (Bản khai của sách Hữu lập,sách Vĩnh Lại,sách Nhiêu Hợp đã dẫn ,tập 1).
[7] Nguyễn Đổng Chi,KTTCTVN,tập 2,tr.1285,NXB.GD,2000.Theo Lời kể của người Đáp Cầu trong Tạp chí Đông Dương (1904).
[8] Truyện Cổ tích nước Nam của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc,tr.23,tập 1,do Thăng Long xuất bản,in lần thứ 4 tại Sàigòn năm 1958.
[9] Truyện Cổ tích nước Nam của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc,tr.191,tập 1,do Thăng Long xuất bản,in lần thứ 4 tại Sàigòn năm 1958.
[10] Truyện Cổ tích nước Nam của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc,tr.123,tập 1,do Thăng Long xuất bản,in lần thứ 4 tại Sài gòn năm 1958.
[11] Nguyễn Đổng Chi,KTTCTVN,tập1,tr.492,NXB.GD,2000.Theo Landes.Sách đã dẫn.
[12] Nguyễn Đổng Chi,KTTCTVN,tập 1,tr.355,NXB.GD,2000.Theo Sơn cư tạp thuật.
[13] Nguyễn Đổng Chi,KTTCTVN,tập 1,tr.777,NXB.GD,2000.Theo Thực nghiệp dân báo (1929).
[14] Nguyễn Đổng Chi,KTTCTVN,tập 1,tr.355,NXBGD,2000.Dựa theo Đoàn Thị Điểm (Truyện Kỳ tân phả),Sử nam chí dị,và theo lời kể của người Hà Tỉnh,Bắc Ninh,Hà Đông.
[15] Nguyễn Đổng Chi,KTTCTVN,tập 1,tr.884,NXBGD,2000.Theo Landes,sách đã dẫn.
[16] Nguyễn Đổng Chi,KTTCTVN,tập 2,tr.1137,NXB.GD,2000.Theo Wiéger:Sách sơ yếu (Bạch thoại).Truyện kể (Để do người sưu tập tạm đặt).
[17] Trinh Nguyên (785-805) một niên hiệu nhà Đường (Trung Quốc).
[18] Nay là Đinh Bảng,huyện Tiên Sơn,tỉnh Bắc Ninh.
[19] Giáo Tuất:974.
[20] Nay thuộc Từ Sơn,Bắc Ninh.
[21] Tam giáo:Nho giáo,Phật giáo, Đạo giáo.
[22] Có truyền thuyết nói Lý Công uẩn là con chính thức của nhà sư Vạn Hạnh.Sư Lý Khánh Văn là em ruột sư Vạn Hạnh.
[23] Nguyễn Đổng Chi,KTTCTVN,tập 2,tr.153,NXB.GD,2000.Theo lời kể của người miền Bắc.
[24] Nguyễn Giao Cư,Phan Diên Vĩ,Sơn Hà, Truyện Cổ tích Việt Nam tr.122,NXB. ĐN,2003.
[25] Đoạn Kiều báo ân báo oán.