Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

77. Vòng ngọc quanh trán

04/03/201103:31(Xem: 6271)
77. Vòng ngọc quanh trán

MỘT TRĂM BÀI KINH PHẬT
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

PHẨM THỨ TÁM: CÁC VỊ TỲ-KHEO NI

VÒNG NGỌC QUANH TRÁN

Lúc ấy, Phật ở gần thành Xá-vệ, trong vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc. Trong thành có một người trưởng giả giàu có vô cùng, tên là Phất-sớ. Người ấy chọn được người vợ cũng thuộc dòng hào phú, cùng nhau chung sống rất ấm êm, hạnh phúc.

Không bao lâu người vợ có thai, rồi sinh được một bé gái xinh đẹp đoan trang. Khi sinh ra, trên trán tự nhiên có một cái vòng kết bằng những hạt ngọc quý. Cha mẹ thấy vậy vui mừng khôn xiết, mời các vị thầy tướng đến xem tướng cho con. Do có vòng ngọc bao quanh trán nên đặt tên là Chân Châu Man.

Ngày càng khôn lớn, tánh tình hiền từ nhân ái, hay thương xót những kẻ khốn cùng. Nhiều lần gỡ vòng ngọc trên đầu ra mà bố thí cho người đến xin. Cứ gỡ rồi thì lại sinh ra một vóng khác cũng giống như trước.

Bấy giờ ông trưởng giả Tu-đạt nghe ông Phất-sớ có cô con gái thông minh hiền đức, muốn đến hỏi về làm vợ cho con trai mình.

Khi Chân Châu Man nghe được việc ông Tu-đạt cho người đến cầu hôn, cô liền thưa với cha mẹ rằng: “Nếu cha mẹ thương con, trước khi cưới buộc họ phải có lời thề trước, rằng về sau hai vợ chồng sẽ cùng xuất gia theo Phật. Bằng không thì xin đừng nhận lời. Bởi con không tham muốn phú quý sang giàu nơi cõi trần, chỉ một lòng muốn xuất gia theo Phật thôi.”

Cha mẹ thương con không muốn trái ý, liền đến nói với ông Tu-đạt ý nguyện của con gái mình. Ông Tu-đạt hoan hỷ lắm, thuận theo lời ấy, liền tiến hành ngay việc cưới xin.

Vợ chồng sống với nhau chưa bao lâu, cả hai đều sinh lòng nhàm chán việc thế tục, liền đưa nhau đến chỗ Phật cầu xin xuất gia. Phật bảo Chân Châu Man rằng: “Lành thay đó, tỳ-kheo ni!” Tức thì, tóc trên đầu tự nhiên rụng sạch, áo cà-sa hiện ra nơi thân, nghiễm nhiên thành một vị tỳ-kheo ni oai nghi đầy đủ. Lại bảo người chồng rằng: “Lành thay đó, tỳ-kheo!” Tức thì, râu tóc tự nhiên rụng sạch, áo cà-sa hiện ra nơi thân, thành một vị tỳ-kheo.

Chuyên cần tu tập, chẳng bao lâu cả hai đều được chứng quả A-La-hán, đủ Ba trí sáng, Sáu phép thần thông, Tám môn giải thoát, khắp cõi trời người ai gặp cũng đều kính trọng, ngưỡng mộ.

Bấy giờ, chư tỳ-kheo thấy vậy liền thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Vị phu nhân Chân Châu Man này, trước đây đã tạo phước đức như thế nào, mà nay khi sinh ra trên đầu tự nhiên có vòng ngọc quý, lại được gặp Phật, xuất gia chưa bao lâu đã được đắc đạo?”

Phật bảo chư tỳ-kheo: “Các ngươi hãy chú tâm lắng nghe, ta sẽ vì các ngươi mà phân biệt giảng nói. Về khoảng giữa Hiền kiếp này, xứ Ba-la-nại có vị Phật ra đời hiệu là Ca-diếp, cùng với chư tỳ-kheo hội nơi vườn Lộc mà thuyết giảng giáo pháp, độ thoát chúng sanh.

Có người trưởng giả tên là A-sa-la, muốn cho mọi người đều phát tâm cúng dường Phật và chư tăng, liền có ý nghĩ rằng: “Ta sẽ đích thân đi khuyến hóa hết thảy nhân dân trong thành.” Nghĩ vậy rồi, liền tâu lên đức vua xin được làm việc ấy. Vua ưng thuận.

Ông trưởng giả A-sa-la liền cưỡi một con voi trắng lớn, đi khắp trong thành, khuyến hóa nhân dân góp phần cúng dường Phật với chư tỳ-kheo tăng.

Có người phụ nữ kia đang đeo một chiếc vòng kết bằng những hạt ngọc rất quý trên trán, gặp ông trưởng giả khuyến hóa liền cởi vòng ấy ra mà cúng dường.

Người chồng đi xa về thấy trên trán vợ không có vòng ngọc quý, liền hỏi rằng: “Em đã mang vòng ngọc quý đưa cho ai vậy?” Vợ đáp: “Ông trưởng giả A-sa-la đi khuyến hóa nhân dân trong thành cúng dường Phật với chư tỳ-kheo, em đã lấy vòng ngọc ra cúng dường rồi.” Người chồng nghe vậy liền hoan hỷ, khen ngợi.

Người vợ ấy, cúng dường vòng chuỗi ngọc đeo trán rồi, phát lời nguyện rằng: “Nhờ công đức này, nguyện trong đời vị lai tôi chẳng sinh vào các đường ác. Khi sinh ra trong chốn trời người, có vòng ngọc quý ấy sinh ra cùng tôi.”

Phật lại dạy rằng: “Người cúng dường vòng ngọc quý đang đeo trên trán hồi thuở ấy, nay là tỳ-kheo ni Chân Châu Man. Do công đức cúng dường vòng ngọc, nên nay được gặp Phật, xuất gia thành đạo quả.”

Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/10/2010(Xem: 3840)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
16/10/2010(Xem: 3120)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
16/10/2010(Xem: 2939)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
16/10/2010(Xem: 2773)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
15/10/2010(Xem: 3210)
Một danh tướng về già muốn tặng thanh kiếm báu của mình cho một tướng quân ở xa. Ông giao trọng trách đó cho một gia nhân, cũng là một tay kiếm xuất chúng. Cẩn thận như vậy, ông vẫn không yên lòng, nghĩ rằng kiếm sĩ này chưa chắc đã đủ chín chắn để giữ kiếm không bị cướp dọc đường. Thanh kiếm không những quý về chất thép mà còn quý vì chuôi kiếm có nạm vàng và ngọc vua ban.
13/10/2010(Xem: 2608)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
13/10/2010(Xem: 4166)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
11/10/2010(Xem: 3189)
Không ngờ tôi lại có được duyên lành đi chung với Thầy Trụ Trì Chùa Tâm Giác một đoạn đường khá xa. Tôi vẫn thường hay đến chùa, vãn hay gặp Thầy nhưng lúc nào Thầy cũng „Phật sự đa đoan“ nên tôi có rất ít thì giờ gần gũi và tiếp xúc với Thầy nhiều. Chuyến đi này thật hữu ích cho tôi vô cùng, tôi đã nghe và thấm nhuần được rất nhiều điều về Giáo lý Phật Đà - một niềm tin mà tôi luôn luôn tôn thờ và say mê khi vừa mới lớn cho đến tận bây giờ và cũng nhờ Thầy mà đoạn đường đi về 260 km không còn xa vời vợi nữa.
07/10/2010(Xem: 3321)
Hiện nay, truyền thuyết Lương Sơn Bá-Chúc Anh Đài được lưu truyền dưới nhiều hình thức nghệ thuật khác như kể chuyện, ca dao, truyền kỳ, kịch, khúc nghệ, âm nhạc, v.v
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]