Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

55. Cô gái nghèo cúng Phật

04/03/201103:31(Xem: 6105)
55. Cô gái nghèo cúng Phật

MỘT TRĂM BÀI KINH PHẬT
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

PHẨM THỨ SÁU: CHƯ THIÊN CÚNG DƯỜNG

CÔ GÁI NGHÈO CÚNG PHẬT

Lúc ấy, Phật ở gần thành Xá-vệ, trong vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc. Trong thành có ông trưởng giả tên là Tu-đạt. Lòng ông chân thành mộ đạo, đã cúng dường, bố thí tài vật rất nhiều. Ông tự suy nghĩ rằng: “Như ta đây giàu có vô cùng, nên cho dù cúng Phật cả khu tinh xá Kỳ Hoàn, cho đến trăm ngàn lượng vàng, cũng chẳng lấy gì làm khó. Nếu ta có thể khuyên những nghèo khổ, bần cùng mà dành dụm chút ít tiền của dùng vào việc bố thí, cúng dường, điều đó mới thật là rất khó. Nhưng nếu làm được, tất sẽ được công đức rất lớn.”

Nghĩ như vậy rồi, liền đem ý nghĩ ấy mà tâu với vua Ba-tư-nặc. Vua cũng tán thành, liền sai người đi khắp trong thành đánh trống rao rằng: “Trong bảy ngày nữa, trưởng giả Tu-đạt sẽ cưỡi con voi trắng lớn mà đi quyên góp tiền của bố thí ở khắp mọi nơi trong thành, khuyến khích những người nghèo cố gắng tu hạnh bố thí, cho dù tài vật ít đến đâu cũng đều có thể mang ra bố thí, sẽ được phước đức vô cùng.”

Nhân dân trong thành khi ấy vui mừng nghe theo lời khuyến hóa của trưởng giả Tu-đạt, chen nhau mà góp tài vật để làm việc bố thí. Có người góp y phục, vải vóc, có người góp vàng bạc, châu báu, cho đến các thứ đồ trang sức hay vật thực. Ai nấy tùy theo gia cảnh của mà đều vui vẻ góp phần bố thí.

Bấy giờ, trong thành có một cô gái rất nghèo, làm thuê trong ba tháng mới dành dụm mua được một tấm vải, định may áo mặc vì áo cũ đã rách nát cả rồi.

Cô gái nghèo thấy trưởng giả Tu-đạt đi quyên góp tiền của trong dân chúng, liền hỏi người chung quanh rằng: “Ông trưởng giả ấy giàu có chẳng ai bằng, sao nay lại đói thiếu đến nỗi phải đi xin của người khác?”

Mọi người bảo cô rằng: “Ông ấy thật chẳng phải đói khổ, chỉ vì lòng thương muốn khuyến khích mọi người cùng làm việc bố thí tu phước, nên đi quyên góp lấy tài vật ấy để thỉnh Phật với chư tăng mà cúng dường.”

Khi ấy, cô gái nghèo nghe nói rồi thì trong lòng vui vẻ vô cùng, tự nghĩ rằng: “Ta đời trước chẳng biết bố thí tu phước, nên đến nay mới chịu cảnh nghèo khổ bần cùng như thế này. Nay nếu không biết lo tu phước, sợ rằng ngày sau còn khốn khổ hơn nữa.”

Rồi cô lại nghĩ: “Phật pháp ra đời ở thế gian là khó gặp. Ta nay rất muốn thỉnh Phật với chư tăng mà cúng dường, nhưng chẳng có chút tài vật nào, làm sao làm được? Trên người ta giờ đây lại chỉ có một tấm vải định dùng che thân, nếu góp vào để bố thí thì thân thể phải lõa lồ. Bằng nếu không bố thí, sau này tất chẳng còn hy vọng gì nữa. Thân ta đã cùng khổ thế này, trước sau cũng đến một nước chết mà thôi, vậy nay nên xả bỏ mà bố thí.”

Nghĩ rồi, cô liền lấy tấm vải ra, ngồi bên song cửa sổ, đợi ông Tu-đạt cưỡi voi đi ngang qua thì ném ra. Ông Tu-đạt nhận được tấm vải mà không biết ai gởi cúng, liền sai người vào nhà ấy mà hỏi, gặp cô gái nghèo ngồi trong cửa sổ, không một mảnh vải che thân, liền báo lại với ông Tu-đạt. Ông lên tiếng khen rằng: “Thật lành thay! Đáng khen lắm thay!” Liền cởi ngay mấy tấm áo quý đang mặc trên người cùng những đồ phục sức quý giá, sai người mang cho cô gái ấy. Cô nhận được rồi liền vui mừng nói rằng: “Ta nay phát tâm bố thí, liền được quả báo hiện tiền, huống chi là trong đời vị lai.”

Qua nhiều ngày sau, cô gái nghèo ây mạng chung, sinh lên cõi trời Đao-lỵ, tự suy nghĩ rằng: “Không biết trước đây ta tạo phước đức gì mà được sinh lên cõi trời này?” Liền tự quán sát, nhớ lại tiền thân là cô gái nghèo hèn cùng khổ, nhờ bố thí cúng dường một tấm vải mà được phước sinh lên cõi trời, liền hiện xuống thành Vương-xá, muốn báo ơn Phật với ông trưởng giả Tu-đạt.

Khi ấy, vị thiên tử này hiện thân trang nghiêm đẹp đẽ, mang theo những hương hoa, trân bảo từ cõi trời, đến cúng dường Phật và trưởng giả Tu-đạt. Lễ bái cúng dường xong, liền ngồi sang một bên nghe pháp. Phật thuyết pháp Tứ diệu đế cho nghe rồi, tâm ý liền khai mở, đắc quả Tu-đà-hoàn, liền lễ Phật rồi quay về cõi trời.

Sáng hôm sau, chư tỳ-kheo thưa hỏi Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Đêm qua có hào quang chiếu sáng ở chỗ Phật, chẳng hay đó là các vị Thích phạm, Chuyển luân thánh vương, hay hai mươi tám bộ quỷ thần đến nghe pháp?”

Phật nói: “Chẳng phải Thích phạm, thiên thần, tứ thiên vương đến nghe pháp. Ấy là cô gái nghèo nghe lời khuyên của ông Tu-đạt mà bố thí một tấm vải, nay được sinh lên cõi trời, lại đến cúng dường ta. Do đó mà có ánh hào quang ấy.”

Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/10/2010(Xem: 3782)
Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ. Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống, cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
16/10/2010(Xem: 3038)
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em
16/10/2010(Xem: 2856)
Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ.
16/10/2010(Xem: 2708)
Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm...
15/10/2010(Xem: 3101)
Một danh tướng về già muốn tặng thanh kiếm báu của mình cho một tướng quân ở xa. Ông giao trọng trách đó cho một gia nhân, cũng là một tay kiếm xuất chúng. Cẩn thận như vậy, ông vẫn không yên lòng, nghĩ rằng kiếm sĩ này chưa chắc đã đủ chín chắn để giữ kiếm không bị cướp dọc đường. Thanh kiếm không những quý về chất thép mà còn quý vì chuôi kiếm có nạm vàng và ngọc vua ban.
13/10/2010(Xem: 2512)
Có hai vợ chồng một ông già tên là Dã Tràng. Trong vườn họ có một hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy có một cặp vợ chồng rắn...
13/10/2010(Xem: 4085)
Vào Thứ Sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010, Ủy Ban Giải Nobel Hòa Bình Na Uy đã công bố giải Nobel Hòa Bình năm 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba. Lưu Hiểu Ba, sinh năm 1955 tại thủ phủ Trường Xuân của tỉnh Cát Lâm ở đông bắc Trung Quốc, là nhà tranh đấu bất bạo động cho tự do, dân chủ và nhân quyền tại Trung Quốc. Ông đã từng tham gia phong trào sinh viên đấu tranh trong biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sau đó liên tục bị sách nhiễu, quản chế tại gia và tù tội. Ngày 8 tháng 12 năm 2008, ông đã bị bắt vì cùng một số nhà tranh đấu dân chủ và nhân quyền Trung Quốc công bố Hiến Chương 2008 đòi xóa bỏ chế độ cai trị độc đảng để tiến tới một xã hội dân chủ cho Trung Quốc. Hiến Chương 2008 cho đến nay đã có hơn 8,500 người tham gia ký tên. Vì Hiến Chương 2008, Lưu Hiểu Ba đã bị chính quyền cộng sản Trung Quốc kết án 11 năm tù. Hiện ông vẫn còn ngồi tù ở Liễu Ninh, Trung Quốc.
11/10/2010(Xem: 3115)
Không ngờ tôi lại có được duyên lành đi chung với Thầy Trụ Trì Chùa Tâm Giác một đoạn đường khá xa. Tôi vẫn thường hay đến chùa, vãn hay gặp Thầy nhưng lúc nào Thầy cũng „Phật sự đa đoan“ nên tôi có rất ít thì giờ gần gũi và tiếp xúc với Thầy nhiều. Chuyến đi này thật hữu ích cho tôi vô cùng, tôi đã nghe và thấm nhuần được rất nhiều điều về Giáo lý Phật Đà - một niềm tin mà tôi luôn luôn tôn thờ và say mê khi vừa mới lớn cho đến tận bây giờ và cũng nhờ Thầy mà đoạn đường đi về 260 km không còn xa vời vợi nữa.
07/10/2010(Xem: 3247)
Hiện nay, truyền thuyết Lương Sơn Bá-Chúc Anh Đài được lưu truyền dưới nhiều hình thức nghệ thuật khác như kể chuyện, ca dao, truyền kỳ, kịch, khúc nghệ, âm nhạc, v.v
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]