Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

54. Liều mình quét tháp Phật

04/03/201103:31(Xem: 6299)
54. Liều mình quét tháp Phật

MỘT TRĂM BÀI KINH PHẬT
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

PHẨM THỨ SÁU: CHƯ THIÊN CÚNG DƯỜNG

LIỀU MÌNH QUÉT THÁP PHẬT

Lúc ấy, Phật ở gần thành Vương-xá, trong tinh xá Trúc Lâm. Vua Tần-bà-sa-la rất ngưỡng mộ Phật pháp, mỗi ngày ba lần cùng với các quan thuộc đến lễ bái Phật.

Về sau, vua mỗi ngày một già yếu, thân thể nhọc mệt chẳng thể đến lễ bái Phật hàng ngày được. Các quan đại thần liền tâu vua rằng: “Đại vương nên cầu xin một ít tóc và móng tay của Phật, mang về trong cung lập tháp thờ phụng, để ngày ngày chiêm ngưỡng, lễ bái được gần gũi hơn.”

Vua nghe theo, liền đến lễ Phật xin được thỉnh tóc và móng tay. Phật liền ban cho. Vua mang về lập tháp trong nội cung, hương đèn, hoa quả mỗi ngày ba lần dâng cúng, chí thành lễ bái.

Thời gian sau, thái tử A-xà-thế nghe lời xúi giục của Đề-bà-đạt-đa, giết vua đi mà lên ngôi, lại truyền khắp trong cung không ai được đến tháp ấy mà lễ bái, cúng dường hương đèn hoa quả gì nữa cả. Ai trái lệnh xem như là phạm tội chết.

Đến ngày rằm tháng bảy là ngày chư tăng tự tứ, có một cung nữ tên là Công Đức Ý, tự suy nghĩ rằng: “Đại vương ngày trước tạo lập tháp này để ngày ngày lễ bái. Nay đã lâu chẳng ai quét dọn, hương đèn, thành ra dơ nhớp, u ám. Ta nay nên liều bỏ thân này mà quét dọn, đốt hương đèn, dâng hoa cúng dường.”

Nghĩ vậy rồi liền vào tháp quét dọn sạch bụi bặm, đốt hương đèn lên sáng rực, lại dâng các thứ hương hoa cúng dường. Vua A-xà-thế khi ấy đang ở trên lầu cao, nhìn xa thấy trong tháp hương đèn sáng rực, liền sai người đến xem coi ai cả gan dám chống lệnh của vua. Người đi xem về thưa lại rằng đó là người cung nữ tên Công Đức Ý. Vua truyền dẫn đến để xét hỏi nguyên do.

Khi ấy, cung nữ Công Đức Ý đối trước mặt vua mà nói rằng: “Tháp ấy do đại vương ngày xưa tạo dựng, làm chỗ để quy ngưỡng, cúng dường. Nay gặp ngày lành, nên tôi quét dọn cho sạch sẽ và đốt hương đèn cúng dường.”

Vua A-xà-thế nghe lời ấy, liền hỏi rằng: “Ngươi có nghe lệnh cấm của ta chăng?” Công Đức Ý đáp: “Tôi có nghe. Nhưng đại vương ngày nay mới trị nước, chẳng hơn được tiên vương.”

A-xà-thế nghe vậy cực kỳ giận dữ, liền rút gươm mà tự tay chém chết Công Đức Ý. Nhờ công đức xả thân cúng dường tháp Phật, người liền được sinh lên cõi trời Đao-lỵ, có hào quang quanh thân chiếu sáng hơn một do-tuần.

Khi ấy, vua trời Đế-thích và chư thiên đều tụ họp lại để chiêm ngưỡng hào quang của vị thiên tử mới này, đều hỏi rằng: “Người tạo pháp lành gì được sinh về đây? Nhờ đâu mà có hào quang nơi thân thể sáng rực hơn hẳn chư thiên cõi này?”

Vị thiên tử ấy liền đọc kệ đáp rằng:

Đức Như Lai ra đời,
Như mặt trời soi sáng.
Chiếu rọi nơi u tối,
Làm cho đều sáng rỡ.

Gặp Phật sinh hoan hỷ,
Tâm xấu ác tự trừ,
Lành thay, đấng vô thượng,
Ruộng phước cho muôn loài.

Lòng thành tu phước đức,
Chẳng tiếc giữ thân mạng.
Dù bị giết nơi ấy,
Được sinh cõi trời này.

Vị thiên tử đọc kệ rồi, liền cùng với Đế-thích và chư thiên hiện đến cúng dường Phật, đủ các thứ hương hoa, trân bảo nơi cõi trời. Khi ấy, hào quang chư thiên chiếu sáng rực rỡ tinh xá Kỳ Hoàn. Các vị lễ Phật rồi đều yên lặng ngồi sang một bên.

Phật vì chư thiên thuyết pháp Tứ diệu đế. Vị thiên tử ấy nghe pháp rồi tâm ý liền được khai mở, đắc quả Tu-đà-hoàn, tự khởi lên ý niệm này: “Ta nhớ lại từ muôn kiếp đến nay, những thân mạng đã trải qua, nếu tích tụ lại thì xương trắng chất cao hơn núi, nước mắt khổ đau nhiều hơn biển lớn, chết đi sống lại chẳng biết đã bao lần. Nay thật là đã được thoát ly được vòng sinh tử ấy.”

Nghĩ như vậy rồi, chí thành lễ Phật mà quay về cõi trời.

Sáng hôm sau, chư tỳ-kheo thưa hỏi Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Đêm qua hào quang rực rỡ chiếu sáng khác thời nơi tinh xá này, chẳng hay đó là các vị Thích phạm, tứ thiên vương, hay hai mươi tám bộ quỷ thần đến đây nghe pháp?”

Phật nói: “Chẳng phải Thích phạm, thiên thần, tứ thiên vương đến nghe pháp. Ấy là người cung nữ của vua Tần-bà-sa-la, liều mình quét tháp Phật, bị vua hại chết liền sinh lên cõi trời Đao-lỵ, nay đến cúng dường ta. Do đó mà có ánh hào quang ấy.”

Phật thuyết nhân duyên được sinh lên cõi trời của người cung nữ Công Đức Ý, chư tỳ-kheo trong chúng hội có người đắc quả Tu-đà-hoàn, có người đắc quả Tư-đà-hàm, có người đắc quả A-na-hàm, có người đắc quả A-La-hán, lại có nhiều người phát tâm cầu quả Phật Bích-chi, cũng có người phát tâm cầu quả vô thượng Bồ-đề.

Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2014(Xem: 4639)
Hai kẻ thù đã lâu đời, hai chàng trai trẻ nhất thuộc hai dòng tộc võ sĩ đạo lâm chiến, đang rình rập nhau trong vùng hẻm núi dưới mé sông trong lúc bà con dòng họ đôi bên đang chém giết lẫn nhau trên phía đồng bằng. Mối hận thù nẩy sinh giữa hai chàng sâu đậm đến độ như muốn lộn mửa, và khi trông thấy nhau, mỗi chàng đều nguyện cầu: “Lạy Trời nếu con phải chết, xin cho con gây ra tử thương cho kẻ oán thù trước khi con lìa đời.”
18/10/2014(Xem: 43763)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4370)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4316)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4218)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6339)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4610)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4022)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 24917)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 23985)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]