Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

15. Thiên đế cúng Phật

04/03/201103:31(Xem: 6203)
15. Thiên đế cúng Phật

MỘT TRĂM BÀI KINH PHẬT
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

PHẨM THỨ HAI: CÚNG DƯỜNG ĐƯỢC THỌ BÁO

THIÊN ĐẾ CÚNG PHẬT

Lúc ấy, Phật ở tại thành Vương-xá, cùng với chư tỳ-kheo nơi tinh xá Trúc Lâm. Lúc bấy giờ, Đề-bà-Đạt-đa là người ngu si cực ác, kiêu căng, ganh ghét, mới xúi giục vua A-xà-thế ban hành chế lịnh chẳng đúng chánh pháp. Vua cho người đánh trống đi khắp nơi mà tuyên lệnh rằng: “Từ nay không cho phép nhân dân đến cúng dường nơi chỗ sa-môn Cồ-đàm nữa.”

Lúc ấy, trong thành có một người tin sâu nơi Phật, nghe lệnh cấm ấy rồi thì trong lòng buồn bã, âu sầu áo não, thảm thiết than khóc chấn động đến cả cung điện cõi trời của vua trời Đế-thích.

Đế-thích thấy cung điện của mình bỗng dưng chấn động, liền quán sát nguyên nhân mới biết việc Đề-bà-Đạt-đa xui vua cấm dân cúng dường Phật, khiến người kia khóc than buồn thảm chấn động cõi trời. Tức thời, Đế-thích liền hiện xuống, giữa nơi thinh không phát âm thanh lớn cho mọi người đều nghe rằng: “Ta nay sẽ đến cúng dường đức Phật với chư vị tỳ-kheo tăng.”

Nói lời ấy giữa thinh không rồi, Đế-thích liền đến nơi Phật ngự, cung kính lễ bái, thưa thỉnh Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Xin ngài nhận cho con được cung phụng, cúng dường Phật và chư tăng đến trọn đời.” Phật chẳng nhận lời.

Đế-thích lại bạch rằng: “Nếu ngài chẳng nhận cho con trọn đời cung phụng cúng dường, xin nhận cho được 5 năm cúng dường.” Phật cũng chẳng nhận lời.

Đế-thích lại bạch rằng: “Nếu ngài chẳng nhận cho con cung phụng cúng dường trong 5 năm, xin nhận cho được 5 tháng cúng dường.” Phật cũng chẳng nhận lời.

Thiên Đế-thích lại bạch rằng: “Nếu ngài chẳng nhận cho con cung phụng cúng dường trong 5 tháng, xin nhận cho được 5 ngày cúng dường.” Phật liền nhận lời.

Khi ấy, Đế-thích liền dùng thần lực hóa vùng tinh xá Trúc Lâm thành ra cung điện nguy nga đồ sộ giống như cung Tỳ-xà-da trên cõi trời, lại đủ các thứ trang nghiêm cúng dường như giường, ghế, đồ ăn thức uống, y phục, thuốc men... mỗi thứ vật dụng đều làm bằng vàng ròng sáng đẹp. Khi ấy, Đế-thích lại cùng với chư thiên cõi trời hiện xuống tự tay sắp đặt các món vật dụng, thức ăn thức uống, y phục, thuốc men... mà cúng dường Phật với chư tỳ-kheo tăng.

Bấy giờ, vua A-xà-thế đứng trên lầu cao nhìn về phía tinh xá Trúc Lâm, thấy hiện rõ đền đài cung điện, lại thấy Đế-thích cùng với chư thiên cõi trời tự tay sắp đặt các món vật dụng, thức ăn, thức uống, y phục, thuốc men... mà cúng dường Phật với chư tăng. Vua liền sanh lòng hối hận, giận dữ mắng nhiếc Đề-bà-Đạt-đa rằng: “Ngươi thật là người ngu si. Tại sao lại xúi giục ta ban hành chế lệnh chẳng đúng chánh pháp?” Nói lời ấy rồi, liền sanh lòng tin sâu nơi Phật.

Khi ấy quần thần liền tâu lên vua rằng: “Xin Đại vương ban bố chánh lệnh, cho nhân dân từ nay được tùy ý mà cúng dường Phật với chư tỳ-kheo tăng.” Vua liền ban lệnh xuống các quan, sai người đi đánh trống mà rao khắp nước rằng: “Từ nay cho phép nhân dân được tùy ý cúng dường Phật với chư tỳ-kheo tăng.”

Lúc ấy, Phật vì hết thảy mọi người mà thuyết pháp cho nghe. Nghe Phật thuyết pháp xong, trong chúng hội đều thấy tâm ý khai mở, nhiều người được đắc quả Tu-đà-hoàn, có người chứng quả Tư-đà-hàm, A-na-hàm. Lại có người ngay khi đó phát tâm vô thượng Bồ-đề nguyện được quả vị Phật, Thế Tôn.

Lúc bấy giờ, chư tỳ-kheo thấy việc như vậy liền thưa hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên phước báo nào mà có việc vua trời Đế-thích hiện đến cúng dường hôm nay?”

Phật bảo chư tỳ-kheo: “Các ngươi nên chú ý lắng nghe, ta sẽ vì các ngươi mà phân biệt giảng nói.

“Này Chư tỳ-kheo! Về thuở quá khứ, cách nay vô số kiếp, nước Ba-la-nại có Phật ra đời hiệu là Bảo Điện, cùng với chư tỳ-kheo đi giáo hóa khắp nơi, đến nước của một vị vua tên là Già-sí. Vua ấy nghe tin Phật đến thì liền cùng với quần thần đều ra nghinh đón, thỉnh Phật ở lại trong thành để cúng dường các món ăn uống, y phục, thuốc men trong ba tháng. Đức Phật liền nhận lời.

Lễ cúng dường rồi, Phật liền vì vua Già-sí mà thuyết pháp mọi lẽ. Vua nghe Pháp rồi phát tâm Bồ-đề, nguyện thành quả Phật. Khi ấy, đức Phật Bảo Điện liền thọ ký cho vua rằng: “Ngươi về sau sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni.”

Phật lại bảo chư tỳ-kheo rằng: “Vua Già-sí thuở ấy chính là ta ngày nay. Quần thần thuở ấy chính là tỳ-kheo các ngươi đó vậy. Nhờ nhân duyên cúng dường, phụng sự đức Phật Bảo Điện thuở ấy, nên trải qua bao kiếp lưu chuyển, ta chẳng bao giờ đọa vào các đường địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, thường hưởng những sự khoái lạc trong cõi trời, cõi người, cho đến ngày nay được quả vị vô thượng Bồ-đề. Cũng vì thế mà khắp trong cõi trời người, ai ai cũng muốn đến cúng dường ta.”

Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2014(Xem: 4780)
Hai kẻ thù đã lâu đời, hai chàng trai trẻ nhất thuộc hai dòng tộc võ sĩ đạo lâm chiến, đang rình rập nhau trong vùng hẻm núi dưới mé sông trong lúc bà con dòng họ đôi bên đang chém giết lẫn nhau trên phía đồng bằng. Mối hận thù nẩy sinh giữa hai chàng sâu đậm đến độ như muốn lộn mửa, và khi trông thấy nhau, mỗi chàng đều nguyện cầu: “Lạy Trời nếu con phải chết, xin cho con gây ra tử thương cho kẻ oán thù trước khi con lìa đời.”
18/10/2014(Xem: 43880)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4451)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4395)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4306)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6420)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4713)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4119)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 25472)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 24274)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]