Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

48. Xuất gia chẳng bỏ lòng tham

04/03/201103:31(Xem: 6138)
48. Xuất gia chẳng bỏ lòng tham

MỘT TRĂM BÀI KINH PHẬT
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

PHẨM THỨ NĂM: LÀM ÁC ĐỌA NGẠ QUỶ

XUẤT GIA CHẲNG BỎ LÒNG THAM

Lúc ấy, Phật ở gần thành Xá-vệ, trong vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc. Trong thành có một người trưởng giả tên Nhã-đạt-đa, giàu có vô cùng.

Một lần, ông trưởng giả này có dịp đến tinh xá Kỳ Hoàn, nhìn thấy đức Thế Tôn đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, hào quang rực rỡ quanh thân, liền sinh lòng kính ngưỡng. Được nghe Phật thuyết pháp rồi, ông phát tâm muốn xuất gia nhập đạo.

Khi ấy, ông về hội họp tất cả thân quyến, trình bày ý nguyện xuất gia của mình. Ai nấy đều hoan hỷ tán trợ. Ông liền đến tinh xá Kỳ Hoàn cầu Phật xin xuất gia. Phật bảo ông rằng: “Lành thay đó, tỳ-kheo!” Liền khi đó, râu tóc tự rụng, áo cà-sa hiện nơi thân, thành một vị sa-môn oai nghi đức hạnh.

Bấy giờ nhân dân trong thành nghe tin ông Nhã-đạt-đa giàu có vô cùng, nay bỏ nhà ra đi xuất gia nhập đạo, thì hết lòng ngưỡng mộ, tranh nhau cúng dường các thứ phẩm vật, áo và bình bát cho ông.

Khi ấy, ông tự sinh tâm phân biệt, thấy mình được nhiều phẩm vật cúng dường hơn mà phải chia đều với các vị tỳ-kheo khác thì khởi lòng tham tiếc, không muốn xả bỏ. Bởi vậy, ông mới mang giấu những y và bát mà người ta cúng cho mình đi, chẳng chịu chia cho những người đồng tu.

Do tâm tham lam đó, khi mạng chung ông phải sinh vào loài ngạ quỷ, lại quay trở về ngay mà bám giữ những y bát của mình.

Khi các vị tỳ-kheo đồng tu thấy ông đã chết, liền mở cửa phòng mà vào, định mang thi hài của ông đi an táng, đồng thời dọn lấy những y bát, liền nhìn thấy một ngạ quỷ thân hình như cây đuốc cháy, hình dáng thật khiếp sợ, ôm giữ lấy những y bát chẳng cho ai đến gần.

Bấy giờ, các vị tỳ-kheo liền đem mọi việc đến trình với Phật. Đức Thế Tôn liền cùng chư tỳ-kheo đến đó. Ngài bảo ngạ quỷ ấy rằng: “Ngươi chẳng biết xấu hổ hay sao? Ngày trước ngươi xuất gia nhập đạo, chẳng bỏ tâm tham lam, bám giữ vật chất lợi dưỡng, chẳng biết bố thí, nên mới sinh làm thân ngạ quỷ, hình mạo xấu xí. Nay sao chẳng biết tự hổ thẹn, lại quay về đây mà bám giữ lấy y bát.” Phật lại dùng nhiều cách dẫn dụ, giảng giải cho nghe về sự tai hại của tâm tham lam, là nguyên nhân đưa đẩy chúng sanh vào các đường ác.

Ngạ quỷ nghe Phật thuyết pháp rồi, tâm ý khai mở, sinh lòng hổ thẹn, liền xả bỏ y bát mà trao cho tăng chúng. Nửa đêm hôm đó, ngạ quỷ mạng chung, lại sinh làm loài ngạ quỷ phi hành, thân thể xinh đẹp đoan trang chẳng khác gì chư thiên cõi trời, lại có cả hào quang chiếu quanh thân, liền đến tinh xá Kỳ Hoàn mà lễ Phật, nghe Phật thuyết pháp, rồi hoan hỷ lễ bái mà đi.

Sáng hôm sau, các vị tỳ-kheo liền đến thưa hỏi Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Đêm hôm qua có hào quang chiếu sáng nơi tinh xá, chẳng hay đó là các vị Phạm thích, Tứ thiên vương, hay đại Bồ-tát từ phương khác đến nghe pháp?”

Phật dạy rằng: “Chẳng phải Thích phạm, chẳng phải thiên vương, quỷ thần, Bồ-tát. Ấy là trưởng giả Nhã-đạt-đa ngày trước, thoát thân ngạ quỷ, giờ thác sanh làm ngạ quỷ phi hành, đến đây lễ bái cúng dường ta. Vì vậy mà có ánh hào quang chiếu sáng như vậy.”

Phật thuyết nhân duyên này xong, chư tỳ-kheo trong chúng hội liền lìa bỏ lòng tham lam, sân hận, lánh sợ đường sinh tử, có người đắc quả Tu-đà-hoàn, có người đắc quả Tư-đà-hàm, có người đắc quả A-na-hàm, có người đắc quả A-La-hán, lại có nhiều người phát tâm cầu quả Phật Bích-chi, cũng có người phát tâm cầu quả vô thượng Bồ-đề.

Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2014(Xem: 4639)
Hai kẻ thù đã lâu đời, hai chàng trai trẻ nhất thuộc hai dòng tộc võ sĩ đạo lâm chiến, đang rình rập nhau trong vùng hẻm núi dưới mé sông trong lúc bà con dòng họ đôi bên đang chém giết lẫn nhau trên phía đồng bằng. Mối hận thù nẩy sinh giữa hai chàng sâu đậm đến độ như muốn lộn mửa, và khi trông thấy nhau, mỗi chàng đều nguyện cầu: “Lạy Trời nếu con phải chết, xin cho con gây ra tử thương cho kẻ oán thù trước khi con lìa đời.”
18/10/2014(Xem: 43764)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4372)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4318)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4219)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6340)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4611)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4022)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 24920)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 23988)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]