Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

91. Phật độ người hung ác

04/03/201103:31(Xem: 6362)
91. Phật độ người hung ác

MỘT TRĂM BÀI KINH PHẬT
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

PHẨM THỨ MƯỜI: CÁC NHÂN DUYÊN KHÁC

PHẬT ĐỘ NGƯỜI HUNG ÁC

Khi đức Phật vừa thành chánh giác, ngài muốn hóa độ cho các vị vua loài rồng, liền hiện thân xuống dưới chân núi Tu-di, hóa hình một vị tỳ-kheo, ngồi thiền dưới gốc cây.

Lúc ấy có con chim Kim-sí bắt được một con rồng con ở giữa biển, mang đến núi Tu-di thả xuống mà ăn thịt. Con rồng ấy còn chưa chết hẳn, mở mắt nhìn thấy vị tỳ-kheo ngồi thiền nơi gốc cây, liền thành tâm mà cầu khẩn, phát sinh lòng tin sâu vững nơi vị ấy.

Ngay khi ấy, rồng bỏ mạng. Do thiện tâm hướng đến Phật, nên thoát thân loài rồng, được sinh làm người, trong một nhà bà-la-môn ở thành Xá-vệ. Người bà-la-môn ấy tên là Phụ-lê, sanh được đứa con trai xinh đẹp, kháu khỉnh, liền đặt tên cho là Tu-bồ-đề.

Đứa trẻ ấy ngày càng khôn lớn, thông minh trí huệ ít ai bì kịp, chỉ có điều tính tình cực kỳ hung ác. Mỗi khi nhìn thấy ai cũng đều sinh lòng sân hận, chỉ muốn nhục mạ, gây hấn, thậm chí cho đến đối với súc vật cũng có lòng hiềm hận, oán ghét.

Do vì tánh tình như vậy, nên đến cha mẹ, thân thuộc cũng đều dần dần xa lánh, không muốn gặp gỡ. Trong lòng chán nản, liền bỏ nhà vào sống trong rừng sâu hẻo lánh. Nhưng cho đến sống ở nơi như thế, đối với cầm thú chim muông cũng sanh lòng giận dữ, oán ghét, thậm chí gió lay cây cỏ cũng làm cho tức giận, nên trong lòng chẳng lúc nào thấy vui.

Nơi ấy có vị thần núi, thấy vậy liền bảo Tu-bồ-đề rằng: “Ngươi nay bỏ nhà đến sống nơi chốn sơn lâm cùng cốc này, nếu không tu thiện thì có ích lợi gì, chỉ tự làm khổ lấy mình đó thôi. Nay có đức Phật Thế Tôn đang ở tinh xá Kỳ Hoàn, thường dạy chúng sanh bỏ ác tu thiện. Nếu ngươi đến đó tất có thể trừ được lòng sân nhuế, ác độc.”

Tu-bồ-đề nghe vị thần núi nói lời ấy bỗng sanh tâm hoan hỷ vô cùng, liền hỏi rằng: “Nơi ở của Thế Tôn, làm sao tìm đến được?” Thần núi nói: “Nếu ngươi muốn đi, chỉ việc nhắm mắt lại, ta sẽ giúp ngươi.”

Tu-bồ-đề nghe lời nhắm mắt lại, chỉ trong giây lát liền được thần núi mang đến tinh xá Kỳ Hoàn. Đến nơi, nhìn thấy đức Thế Tôn với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, hào quang chiếu sáng quanh thân, oai nghi rực rỡ thù thắng vô cùng, liền sanh lòng kính ngưỡng, hoan hỷ, chí thành lễ bái rồi chấp tay đứng sang một bên.

Phật liền vì Tu-bồ-đề mà thuyết dạy rằng: “Lòng sân hận, độc ác, ngu si, phiền não làm mất đi căn lành nơi chúng sanh, lại tăng trưởng thêm điều ác, nên phải lãnh chịu quả báo nơi địa ngục, khổ não không sao nói hết. Đến khi thoát được địa ngục, lại còn phải thọ thân rắn, rồng, la-sát, quỷ thần... trong tâm thường hiểm độc, tàn hại lẫn nhau.”

Tu-bồ-đề nghe Phật thuyết dạy, trong lòng kinh sợ, sanh tâm hối trách, hiểu ra rằng tự bấy lâu nay đã nuôi lấy ác tâm. Liền đối trước Phật chân thành lễ lạy sám hối. Ngay khi ấy chứng đắc quả Tu-đà-hoàn, liền vui mừng cầu xin xuất gia. Phật nói: “Lành thay đó, tỳ-kheo!” Tức thì, râu tóc tự nhiên rụng sạch, áo cà-sa hiện ra nơi thân, thành một vị tỳ-kheo oai nghi đầy đủ. Chuyên cần tu tập, chẳng bao lâu đắc quả A-La-hán, đủ Ba trí sáng, Sáu phép thần thông, Tám môn giải thoát, khắp cõi trời người ai gặp cũng đều kính trọng, ngưỡng mộ.

Chư tỳ-kheo thấy việc Tu-bồ-đề được Phật hóa độ, liền thưa hỏi rằng: “Bạch Thế Tôn! Chẳng hay tỳ-kheo Tu-bồ-đề trước đây tạo những nghiệp thiện ác như thế nào, mà nay tuy được thân người tâm thường sân hận, hung ác, nay lại được gặp Phật xuất gia đắc đạo.”

Phật bảo chư tỳ-kheo: “Các ngươi hãy chú tâm lắng nghe, ta sẽ vì các ngươi mà phân biệt giảng nói. Giữa Hiền kiếp này, xứ Ba-la-nại có Phật ra đời hiệu là Ca-diếp. Trong chúng hội của ngài có một tỳ-kheo thường đi khuyến hóa, cùng với chư tỳ-kheo đi cúng dường khắp mọi nơi, cho đến mười ngàn năm như vậy. Ngày kia, chư tỳ-kheo có chút việc bận rộn chẳng cùng đi theo, ông liền giận dỗi buông lời thóa mạ rằng: ‘Các ông thật là hiểm độc, khác nào loài rồng dữ.’ Nói rồi bỏ đi.

“Do nghiệp duyên đó, trong năm trăm đời phải sanh vào loài rồng dữ, tâm thường độc hiểm, ác hại chúng sanh. Nay tuy được thân người mà nghiệp xưa chưa dứt hẳn, vì vậy mà thường hay sân hận.”

Phật lại dạy rằng: “Tỳ-kheo buông lời ác khẩu ngày trước, nay là Tu-bồ-đề đó. Nhờ công đức cúng dường chư tăng, nên nay được gặp Phật xuất gia đắc đạo.”

Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2014(Xem: 4639)
Hai kẻ thù đã lâu đời, hai chàng trai trẻ nhất thuộc hai dòng tộc võ sĩ đạo lâm chiến, đang rình rập nhau trong vùng hẻm núi dưới mé sông trong lúc bà con dòng họ đôi bên đang chém giết lẫn nhau trên phía đồng bằng. Mối hận thù nẩy sinh giữa hai chàng sâu đậm đến độ như muốn lộn mửa, và khi trông thấy nhau, mỗi chàng đều nguyện cầu: “Lạy Trời nếu con phải chết, xin cho con gây ra tử thương cho kẻ oán thù trước khi con lìa đời.”
18/10/2014(Xem: 43764)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4372)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4317)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4218)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6340)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4611)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4022)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 24920)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 23987)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]