Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

VI. Hành Nghi

15/01/201618:16(Xem: 784)
VI. Hành Nghi

LUẬT CHO NGƯỜI MỚI XUẤT GIA

 

THÍCH HUYỀN VI

~~~~00~~~~

 

 

HỌC VÀ HÀNH LUẬT NGHI

PHẬT GIÁO

 

 

            Thuở xưa đại sư Liên Trì sưu tập các nghĩa thiết yếu trong Tạng Luật, chép thành hai mươi bốn môn oai nghi (1), để tiện cho người học đạo dễ ghi nhớ, hành trì lại suốt thông huân tập lâu thành tánh quen, đối với giới luật, chắc chắn không khuyết điểm nào.  Chẳng phải như các sa môn (2) trong đời nầy, tệ tập quá nhiều mà chỉ nêu ra vài điểm thì làm sao tường tận Luật Nghi !  Lại nữa, thời gian gần đây có nhiều cư sĩ (3) tân tiến, phát tâm mặc dù dõng mãnh, nhưng đối với luật nghi, phần đông chưa hợp theo chánh pháp (4).  Luận về người học Phật, chính họ phải tạo sự nghiệp “siêu phàm nhập thánh” (5); ai có đạo đức mới được người đời tôn kính trọn vẹn.  Nếu học và hành luật nghi chưa trọn vẹn, mà tự tu có được thân nghiệp ‘Phật Đạo’ không?.

            Chắc chắn là không.  Vì nhận thấy như thế, nên tôi cố gắng sưu tập những đặc điểm thường ứng dụng hằng ngày thuật lại thành hai mươi tư điều chương gọi là ‘Học và Hành Luật Nghi của Phật Giáo’.  Các hang tỳ kheo, sa di, ni cô, cư sĩ v.v… đều phải học tập và hành trì, duy có điều trong khi thực hành nên thận trọng điều nào phải hành đúng mức, điều nào không thích hợp hoàn cảnh và không lợi lạc.  Đây vì sợ văn phiền toái, nên chưa phân loại, chỉ mỗi điều chương nêu ra đặc tính, hy vọng các bậc trí cao tự mình phân biệt học tập và hành trì cho thích nghi hoàn cảnh!

 

 

            (1)        Oai nghi  :  Bonne tenue, manière distinguee, oai nghiêm và nghi tắc.  Ấy là cốt cách với cử chỉ đàng hoàng và có mực thước, khiến người kính trọng như oai nghi :  đi, đứng, nằm, ngồi v.v...

            (2)        Sa môn :  Sràmana (moine, monk), có nghĩa cần giả, người siêng làm điều thiện.  Tức giả :  người dứt bỏ các nghiệp ác.  Sa môn là thầy tu xuất gia theo đạo Phật.

            (3)        Cư sĩ  :  Upàsaka, laic, người ở tại nhà tu theo đạo Phật, không thích danh lợi.  Tu tập đúng theo giáo lý nhà Phật.

            (4)        Chánh pháp  :  đạo pháp chân chính, cao siêu, thanh thoát.  Chánh pháp có hai phần :  lý và thể.

            (5)        Siêu phàm nhập thánh :  vượt khỏi cảnh người phàm, vào địa vị thánh.  Bậc tu hành dứt sạch các mối tình phàm, chứng đặng trí tuệ thần thông.

 

 

 

HÀNH NGHI THỨ NHẤT

KÍNH   PHẬT

 

            Phàm là Sa môn hay Cu sĩ (Ni và nữ đều chung trong ấy) khi thấy tượng Phật, không luận là tượng đắp hay tượng vẽ, đều phải mặc áo lễ lạy, tối thiểu cũng phải xá chào, hoặc chấp tay; nếu ở trong chánh điện hay đi qua các chỗ thấy hình tượng Phật, phải cung kính lễ bái, lúc lạy nên thầm niệm bài kệ rằng :

                        Trong vũ trụ không ai bằng tượng Phật,

                        Cả mười phương cũng chẳng sánh bằng,

                        Trong thế gian các bậc đạo sư,

                        Không ai sánh cùng Như Lai cả.

                        Án phạ nhựt ra hộc (3 lần)

            Phàm bài kệ chỉ niệm một lần, chú phải niệm ba lần.  Các bài sau cũng đều như thế.

            Vào trong điện thờ tượng Phật, không được mang theo đồ vật, ngoại trừ kinh, tượng Phật  và các phẩm vật cúng Phật, vào trong chùa không được liếc ngó đông tây.  Sau khi lễ lạy mới được nghiên đầu chiêm ngưỡng.  Khi lễ bái, thầm niệm bài kệ rằng :

                        Đấng Pháp Vương (1) vô thượng,

                        Ba cõi không ai sánh bằng,

                        Vị đạo sư cõi trời, cõi người.

                        Đấng cha lành trong bốn loài (2),

                        Con nay được về nương tựa,

                        Dứt được nghiệp ba kỳ (3),

                        Xưng dương cùng tán than,

                        Ức kiếp không cùng tận.

            Phàm đi kinh hành nơi chánh điện, lúc nào cũng đi nhiểu bên mặt, không được đi vòng bên trái (trái mặt lấy chánh điện làm tiêu chuẩn) đi ba vòng (4), hoặc bảy vòng (5).  Đều phải đi thẳng nhìn ngay niệm Phật, không được luận nói việc đời.  Dĩ nhiên là nói Phật pháp, cũng chớ nói cao giọng.  Không được cười giỡn, không được thất lễ, không được khạc nhỗ, không được dực ghế nương vách.  Nếu có ho hay nhảy mũi phải lấy tay áo che miệng.  Phàm lễ lạy phải theo đúng nghi thức, năm vóc gieo xuống đất, đem hết lòng thành làm phép quán, không lễ lạy cấp bách.  Trong Kinh giáo có chỉ dạy bảy cách lạy (6), mỗi người phải biết.

            Phàm lạy Phật, lạp tháp, lạy Kinh, lạy bậc Đại Sa môn, đều phải đúng phép, đây không lặp lại.  Nếu ở mỗi chỗ, gặp thấy có tượng Phật, kinh Phật hoặc một chữ Phật rơi vào chỗ không sạch sẽ, phải mau mau hai tay  nhặt lấy để nơi sạch sẽ.  Nếu thấy người khác đối với kinh tượng Phật có sự mất lòng tôn kính, nên đến khuyên nói chánh nghĩa, khuyên họ cẩn thận !  Phàm có tượng Phật không nên để trong nhà, nếu để trong nhà thì người trong nhà phải giữ tâm cung kính, thường ngồi không nên nằm, dù nằm cũng không được nằm lâu, lại cũng không nên để đồ ô uế trong nhà có tượng Phật, bởi vì có tượng cũng như có Phật ở đó, làm sao không cung kính được.

            Thường thấy người đời, đối với nghĩa kinh Phật thì rất hâm mộ khen ngợi nhưng đối với hình tượng Phật phần nhiều xem là tầm thường.  Bởi vì nghĩ rằng pháp Phật không ở nơi kinh tượng, đâu có biết kinh tượng, kinh Phật chính là thành tựu được phẩm hạnh phước đức của mình, nếu ai đối với kinh tượng không tôn kính thì lý nhiệm mầu của Phật pháp từ đâu mà thâm nhập được?  Thế nên, không luận người nào đều phải tôn kính tượng Phật kinh Phật vậy.

 

1)      Pháp Vương  :  Dharmaraja.  Le roi de la Loi.  Vua pháp, một hiệu của Phật.  Đức Phật thâu hoạch tất cả các pháp, đem pháp ra mà thí cho chúng sinh.  Nên gọi Ngài là Pháp Vương.

2)      Bốn loai  :  Loài sinh con; loài sinh trùng; loài sanh ở nơi ẩm ướt; loài hóa sanh.

3)      Ba kỳ  :  Nói cho đủ là ba A tăng kỳ kiếp, tức là ba vô số kiếp, con số quá nhiều khó tính được.

4)      Ba vòng  :   Đi nhiểu ba vòng là để diệt trừ ba độc là tham lam, giận tức, si mê để được xem vô lậu học là giới, định, tuệ.

5)      Bảy vòng  :  Đi nhiểu bảy vòng là để diệt trừ bảy chi tội; sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói láo, nói lời thêu dệt, nói lưỡi đôi chiều, và nói lời hung ác; để được thất bồ đề phần.

6)      Bảy cách lạy  :  a) Ngã mạn lễ :  lạy cho có hình thức, nương theo vị thứ, không tâm cung kính, tâm theo cảnh ngoài, năm vóc không sát đất.  b). Xướng hòa lễ :  tâm không tịnh, thấy người thì tâm nhẹ làm lễ, người đi thì không lễ bái, vì tâm loạn nhưng miệng hòa.  c)  Thân tâm cung kính lễ  : nghe xướng tên Phật thì niệm Phật, thân tâm cung kính, tâm thành không lười biếng.  d)  Phát trí thanh tịnh lễ  :  Thông suốt cảnh giới Phật, tùy tâm hiện bày, lễ một Phật là lễ tất cả Phật, lễ một lễ là lạy cả pháp giới, vì pháp thân Phật dung thong vậy.  e)  Biến nhập pháp giới lễ  :  Quán thân tâm mình bình đẳng các pháp, từ xưa đến nay không lìa pháp giới, Phật với ta bình đẳng.  Nay lạy một Phật là lạy pháp giới chư Phật.  f) Chánh quán lễ  :  Lễ Phật, mình không vin Phật nào khác, vì tất cả chúng sanh có Phật tánh bình đẳng.  g)  Thật tướng bình đẳng lễ :   Sáu cách lễ trên có lạy có quán, tự tha khác nhau, duy có lễ nầy không phân biệt tự tha, phàm thánh nhất như, thể dụng không hai.  Thế nên Bồ Tát Văn Thù nói  :  “Năng lễ sở lễ tánh không tịch..”  Bảy cách lễ nầy.  Ba trước thuộc sự, bốn sau thuộc về lý.  Hành giả nên theo năm cách sau bỏ hai cách trước.

 

 

 

HÀNH NGHI THỨ HAI

KÍNH   PHAP

 

            Phàm là Sa môn hay Cư sĩ đọc tụng kinh pháp của Phật đều phải đốt hương thơm ngồi ngay thẳng, như thấy đức Phật vậy.  Không được nương dựa, tay nhơ không được cầm kinh tưọng.  Muồn đọc kinh trước phải ngồi yên tỉnh trong giây phút, thầm niệm bài kệ rằng :

                                    “Pháp Phật cao thâm rất mầu nhiệm,

                                    Trăm nghìn muôn kiếp khó gặp được,

                                    Con nay thấy nghe xin thọ trì,

                                    Nguyên hiểu Như Lai nghĩa chơn thật.”

            Niệm rồi mới chắp tay dở kinh, đọc kinh phải mỗi chữ hiểu được nghĩa, lãnh hội được ý, cùng tâm tương ưng, không được đọc tụng một cách cẩu thả.  Phàm đọc kinh phải mặc pháp y hoặc áo lễ, trên bàn trừ ngoài kinh sách cùng lư hương, đèn nến, không được để các vật tạp, trà bánh v.v….Dù là bút mực cũng phải để chổ khác.  Trên kinh có bụi bặm, phải dùng giấy sạch lau tẩy, không được dùng miệng thổi.  Khi đọc xong hay ngừng nghỉ, phải đem kinh sách để lại cho đâu vào đấy.   Hoặc khi đọc đến nửa chừng muốn ngừng, phải dùng giấy vàng làm dấu rồi xếp quyển kinh lại.  Không được xếp cong gốc kinh, không được để kinh lẩn lộn vào các vật khác.  Đọc đến giữa quyển kinh, nếu bị sanh tạp niệm, cũng nên gấp kinh lại, lúc nào vọng niệm hết mới lại dở kinh ra tiếp tục đọc tụng.  Nếu khách đến, hoặc có Thượng tọa đồng học đến, đều nên xếp kinh lại, sau đó mới đàm đạo.  Có kinh luật để trên bàn, không nên luận nói việc thế gian.  Không được cười giởn, không được nói cao giọng, không được khạc nhổ.  Nếu có ho hen phải dùng tay áo che miệng.  Nếu đọc kinh có các điểm hay chờ đọc kinh xong, dùng giấy bút ghi chép, không được ghi nơi đầu quyển kinh.  Nếu chép viết kinh luật, phải viết chữ ngay thẳng, bút

tích phải tinh vi, không nên theo ý viết tháo.  Lại không được để kinh trước sau không thứ tự hoặc không ngay thẳng.  Phàm kinh luật phải như pháp cung phụng.  Trong kinh Phạm Vọng nói : “Nếu Phật tử nào thường dung bảy món báu (1) vô giá, hương hoa và tất cả tạp bảo để làm hộp, làm đãy chứa đựng các kinh điển của Phật.  Nếu không như pháp cúng dường, phạm khinh (2) cấu tội”.

            Nếu kinh sách hư rách, phải chóng tu bổ khiến thường như mới.  Phàm cầm kinh tượng đều phải bưng hai tay, không được xách một tay.  Mình cầm kinh tượng, không được hướng vào người làm lễ, cũng không nên một tay xá vái và chắp tay, chỉ phải hai tay bưng kinh, cung kính để ngang trán.  Phàm kinh pháp bảo, không những kính kinh sách mà còn phải trọng kính pháp y (3), bình bát (4), tích trượng (5), v.v.. Ngoài ra còn có những pháp bảo không hình tướng rất nhiều, đây không đủ yếu tố liệt kê cho hết !

            Thường thấy các kinh sám ứng phú (6) trong chùa viện, phần nhiều đều thuộc vào loại ngụy soạn, dù có một hai kinh điển chánh lý, tùy chỗ ứng dụng mà bảo trì.  Lại nữa gần đây có các nhà tân học, xem kinh Phật thấy nghĩa lý sâu rộng, rất thích thú nghiên cứu, nhưng khi xem kinh thì lại nằm ngữa hay dựa ghế bàn, hoặc xem xong cuốn tròn như cái ống.  Những hành vi nầy đều không phải hành nghi của người học Phật, lại cũng chẳng xứng hợp với hang Sa Môn, Cư sĩ.  Hy vọng các Phật tử đem tâm khuyên nhắc, để tránh khổ báo về sau !

 

1)      Bảy báu vô giá  :  Ấy là vàng , bạc, ngọc lưu ly, ngọc pha lê, ngọc xà cừ, ngọc xích châu và mã não.

2)      Phạm kinh cấu tội  :  phạm lỗi nhẹ.

3)      Pháp y  :  Áo pháp.  Tiếng gọi chung ba pháp y của người xuất gia Phật giáo, theo tiếng gọi Casa.  Y năm điều.  Y bảy điều và Y chin điều.

4)      Bình bát  :  Patra, bol à aumône  :  thứ để đựng vật thực, khi nhà sư đi khất thực.  Khi Phật tại thế thường mang bình bát đi khất thực.  Gieo hạt giống lành cho chúng sinh.

5)      Tích trượng  :  baton de moine, gậy thiết.  Gậy có tra những vòng bằng thiết hay bằng đồng, nhà sư cầm đi khất thực hay đi du hóa.

6)      Ứng phú  :  là chỉ các kinh sách để cúng kiến, đám đình … phần nhiều là nghi lễ hậu hiền sáng chế.

 

 

 

HÀNH NGHI THỨ BA

KÍNH   TĂNG

 

 

            Phàm là Sa môn hay Cư sĩ khi thấy các bậc Trưởng lão, pháp sư, Đại đức phải thân đoan trang, đứng ngay thẳng kính chào.  Không được ngồi mà không đứng dậy, trừ khi tụng kinh, khi đau ốm, khi cạo tóc và khi làm các việc cần thiết.  Sau lưng không được nói lỗi các bậc Trưởng lão, Pháp sư, Đại đức.  Không được gọi thẳng tên của các bậc trưởng lão, phải xưng Trưởng lão trên chữ ấy, dưới chữ ấy, Hòa Thượng thượng gì, hạ gì, Pháp sư, Đại sư trên chữ ấy, dưới chữ ấy.  Nếu khi đối diện không nên nêu danh hiệu ra, chỉ có thể xưng hai chữ Trưởng lão, hoặc Pháp sư, hoặc Hòa Thượng hay Thượng Tọa, mình thì không xưng là hậu học.  Phàm qua lại thơ tín cũng thế, không được xưng mình là già nua, ngu si v.v..  Đối với các bậc Trưởng lão, Thượng tọa, mình nên xưng là đệ tử, mà không nên xưng là ta hay tôi, khó nghe.  Nếu đối với Ni chúng, tùy theo tuổi đạo mà xưng hô.  Thấy mấy vị tu tầm thường, thì phải xưng là thầy hay là sư, không nên gọi thẳng danh tự.  Nếu hỏi tôn hiệu, phải trả lời Bồ tát giới thượng gì hạ gì, không được nói Pháp danh, bởi vì người hỏi Pháp danh, theo bậc Thượng Tọa hỏi kẻ học hậu vậy.  Song tự mình thì xưng là hậu học, không được xưng là bất huệ, bất tài, bất nịnh v.v.  Phàm Sa di, Cư sĩ .. không được lén nghe bậc Đại Sa môn thuyết giới, cũng không được trộm nghe Tỳ kheo tụng giới kinh.

            Phàm vào nhà Tăng, không luận nhà nào, không được đường đột xông vào, phải đứng trước cửa khảy móng tay ba lần; bên trong lên tiếng cho vào thì mới được vào, không lên tiếng phải đi.  Khi vào được bên trong trước phải hướng về tượng Phật bái xá, sau hướng về Đại đức, xem trước khế kinh, sách vái chào, tức là hướng về Đại đức bái chào một cách cung kính!.

            Phàm khi thấy các Trưởng lão, Pháp Sư, Đại đức cũng như thấy Phật.  Nghi thức như nói trước sau, tức là thấy Tăng lữ tầm thường cũng phải chào hỏi như thấy Bồ Tát vậy.  Không nên khinh thị, dù không phải hào tăng, cũng nên cung kính, vì mang hình tướng Sa Môn.  Hơn nữa tung tích của các vị đó, cũng không phải nhục nhãn mà thấy rõ được.  Thế nên, Bồ Tát Thường Bất Khinh thấy tất cả tầng lớp người đều nói : “Các ông đều sẽ làm Phật, tôi không dám khinh các ông”.  Như thế, mỗi người đều biết.  Cư sĩ khi thấy Sa di, Tỳ-kheo (1), liền phải đứng dậy.  Sa di khi thấy Tỳ kheo, phải cung kính đứng dậy.  Ni chúng khi thấy đại Tăng, nên thành kính đứng dậy.  Cư sĩ khi thấy Tỳ-kheo ni cũng phải đứng dậy.  Thấy bạn đồng học thì ngồi đoan trang cũng được.  Phàm lễ lạy, các bậc Tôn túc, Đại đức, chỉ lễ khi các ngài ngồi, lúc các ngài đứng, nhưng khi các ngài đang tọa thiền, kinh hành, ăn uống, cạo tóc, tắm rửa, ngủ nghĩ thì không được hành lễ.  Nếu đóng cửa phải vào trong hành lễ, không được ở ngoài cửa hành lễ.  Phàm hỏi Phật pháp phải đắp y lễ bái, tối thiểu cũng phài xá chào, chấp tay đứng ngay thẳng, nếu bảo ngồi thì ngồi, lắng lòng lặng nghe, suy nghĩ cho thâm nhập.  Những lời Đại đức nói chưa xong, không được nói gấp, hỏi gấp.  Phàm Tăng Ni có lỗi lầm phải do một vị Sa môn cử tội trong giờ tữ tứ (2).  Cư sĩ không được nói lỗi của người xuất gia, nói lén sau lưng cũng thế.  Phàm đi giữa đường gặp các Đại đức, phải đứng một bên chờ, Đại đức đi qua rồi mình mới đi, không được hai bên đi xen lẫn.  Phàm đồng đi, phải nhường cho Đại đức đi trước và thay cho Đại đức mang các đồ vật.  Phải nhường cho Đại đức ngồi trên, ngồi trong buổi tiệc cũng thế!  Phàm thấy các Đại đức, không được chấp tay sau lưng, đi không được đưa tay, rung mình, không được ngồi chồm hổm, không được vừa đi, vừa nhảy, không nên vừa đi vừa chạy, trừ các việc gấp, không được khăn quấn cổ, trùm đầu, trừ khi có bịnh, không được liếc ngó hai bên, không được ngồi chỗ quá cao, không được cười giởn v.v…. Ngoài ra, trong Đại Luật còn nói rõ, ở đây ngại văn nhiều không chép hết !.

 

1)      Tỳ Kheo  :   Bhikshu, moine.  Vị tăng thọ giới cụ túc.  Tỳ-kheo có ba nghĩa :  Khất sĩ, Phá ác và Bố ma.

2)      Tự Tứ  :  Tức là tùy ý.  Đến ngày trưởng tịnh mười lăm tháng bảy ra hạ. Đại chúng cử tội :  thấy, nghe, nghi rồi sẳn sàng nhận lãnh để sám hối, cho thân tâm thanh tịnh.

 

 

 

HÀNH NGHI THỨ TƯ

CHÙA, VIỆN, PHẬT ĐƯỜNG

 

 

            Phàm Sa môn ở Chùa, Viện hay Phật đường, phải quét dọn trong ngoài cho sạch sẽ, không được để các đồ tạp nhạp.  Sớm chiều chuông trống phải biết rõ ràng, không được lầm lẫn.  Trước chùa hay Phật đường có đường tắc phải khai thông, không nên để quá hoang vu.  Hai thời cơm cháo phải thanh khiết, không nên thái quá, mà chẳng nên bất cập !  Điện thờ Phật, nhà để kinh phải thường dọn dẹp gọn gàng và thanh khiết; ngoại trừ pháp khí, hương đèn, không nên để các vật khác như hoa quả, tịnh thủy, cơm nước v.v.. Cúng Phật không được dùng mũi ngửi trước.  Không được loạn đánh chuông, trống kiền chùy không đúng lúc.  Khám thờ Phật, đèn cúng Phật phải dùng màn che và dùng chất pha lê chụp trên, tránh các loài trùng nhảy vào làm tổn thương nhơ nhớp.  Đồng thời phải săn sóc chu toàn, khiến tâm mắt ta thanh tịnh.  Tượng Phật kim thân phải hằng như mới đắp, không được để bụi bặm xâm nhập!.

            Thường thấy các tăng sĩ ở chùa hay Phật đường gần người thế gian, đối với tự thân họ rất là trang nghiêm, nhưng đối với chỗ thờ Phật thì quá bừa bãi, điện Phật thì bụi đất quá nhiều, tượng để không được nghiêm trang.  Hiện tuợng nầy phải sửa đổi; áo cà sa cũng nhuốm bụi bặm, hy vọng các bậc Sa môn, gắng mà tinh tiến hành đạo!

            Mai chiều thường phải tụng niệm, không nên bỏ bê.  Trước điện Phật phải hương thơm đèn sang, không được gián đoạn.  Khoản đãi tân khách phải theo nghi lễ, không được kiêu sa nịnh bợ.  Giáo huấn tín đồ phải theo thời khóa, không được giận hờn mắng nhiếc.  Không được chứa nuôi gà, vịt, lợn, mèo, không được tàng trử giáo, mác, gươm, súng, câu, lưới.v.v…tất cả dụng cụ hại sinh vật, làm tổn thương lòng từ bi.  Không được cho gởi phụ nữ thường trú (bên Ni trái lại).  Không được gặp người kém giáo hóa, không được làm các việc ứng phú (1).  Nếu nhà thiện tín thuần thành, vạn bất đắc dĩ phải đi, không đáp ứng thì thiện tín không đến chùa hay Phật đường nữa.  Song cũng không trở thành chuyên nghiệp.  Phàm thuê các người thợ, phải dự định ngày khởi công, nói rõ làm trong Phật đường hay chùa viện, thợ gắng ăn chay, cử sát sanh, biết niệm Phật càng tốt, chớ nên ăn thịt uống rượu, cho đến không được ca xướng, cười, mắng các việc!  Phải cung cấp tiền công cho thợ để trả thù lao cho các người ấy !  Bên ngoài chùa hay Phật đường không được trồng cây đào, cây lý, để tránh các lỗi khẩu thiệt.  Không được ăn ngũ vị tân (2) mà chẳng nên trồng các thứ ấy.  Không được sống theo tà mạng (3).

            Kinh Phạm Võng nói : “Nếu Phật Tử nào, dùng tâm ác vì lợi mà mua bán nam sắc, nữ sắc.  Tự tay làm các thức ăn, tự xay, tự giã, coi tướng nam nữ, giải mộng tốt xấu, nam thế nầy, nữ thế kia, chú thuật công xảo, điều động cách thức dạy chim ưng, hòa hợp trăm thứ thuốc độc, ngàn thứ độc dược, rắn độc, độc sanh kim ngân, độc trùng, đều không có tâm từ mẫn, không tâm hiếu thuận, nếu cứu người mà làm thì phạm Khinh cấu tội”.  Trong chùa hay trong Phật đường, ngoại trừ treo những lời cảnh tỉnh, sách tấn, không được treo nhiều chữ hoa, bức tranh.  Phàm có các đồ trang nghiêm, phải để nơi điện Phật, hay nhà tàng trử kinh.  Song cũng không được quá xa hoa.  Tóm lại đã gọi là chùa hay Phật đường phảì thanh tịnh trang nghiêm làm chủ yếu.  Lại nữa không được chứa nhiều tiển bạc, lúa thóc, các của báu quan trọng, khỏi lo sợ người ngoài phá phách.  Có thì nên nhiều thời gian, bố thí cho các người nghèo thiếu.  Không được thường dùng tiền bạc lúa gạo cho vay mược sanh lời, làm giàu danh dự cho am.  Không được dùng vàng, bạc, thịt, rượu giao hòa với quan địa phương và các kẻ vô giáo dục.  Không được dạy bảo đọc văn thơ, hoặc đáp lại thi văn.  Không được dùng kẻ lân cận nghèo thiếu sanh các hiềm khích.  Nếu gặp năm đói khát, hoặc tiết mùa đông và các việc ai tang, cần phải tùy sức mà cứu giúp.  Không được cùng dân gia kết giao làm cha mẹ, anh em, chị em.  Không được kia đây lẫn nhau đưa lễ vật, cùng nhà người dân qua lại, đưa đến chùa người khác cũng thế, trừ việc cúng dường các bậc trưởng lão.  Không được đưa hoa quả vào nhà người dân.  Không được cùng nhà người dân ăn mừng trừ tang điếu.  Nhưng trong chùa cũng không được tổ chức ăn mừng các lễ.  Nếu các ngày vía Phật, Bồ Tát, phải tập chúng diển nói giáo pháp của Phật, phát sách Phật.  Không được thu dụng trẻ con, dù là quyến thuộc, sanh nhiều rắc rối !  Không được bảo người hướng đến nhà giàu sang, hóa duyên và yêu cầu niệm kinh sám v.v…  Không được đứng với người học đời, không được gần với người khùng, người xấu, trừ những người dưỡng bịnh.  Các người dưỡng bịnh phải chọn thời gian giảng nói nhân duyên Phật pháp, không được chơi đờn, đánh cờ, ca xướng.  Không được bàn luận việc chánh trị, việc chiến tranh, việc kiện tụng, những việc phải quấy trong nhân gian, và tất cả việc ngoài đời.  Nếu không có việc gì phải qui tụ đồ chúng tham gia công việc trong ngoài chùa, Phật đường v.v…Luật nói nhân quả Phật pháp, không nên nhận lãnh đồ y vật của nữ lưu (bên Ni thì trái lại).  Không được phóng hỏa thiêu đốt chỗ núi rừng.  Kinh Phạm Võng nói : “Nếu Phật tử nào dùng tâm ác độc, phóng hỏa thiêu đốt núi rừng, đồng nội, phóng hỏa từ tháng tư cho đến tháng tám.  Nếu thiêu đốt nhà cửa của người khác, hoặc đốt thành ấp, tăng phường, ruộng cây và tất cả chỗ quỉ thần, quan vật, vật có chủ trông coi, không được cốt ý đốt, nếu ai cốt ý đốt phạm khinh cấu tội”.  Các đoạn trước tuy chỉ cho hàng Sa môn, nhưng trong tương lai Cư Sĩ cũng đến lúc ở chùa hay Phật đường tu tập, nên phải học hỏi trước !

 

1)      Ứng phú  :  đã giảng giải ở Kinh trước.

2)      Ngũ vị tân  :  Năm vị nồng  :  1.  Đại toán (tỏi);  2.  Cách thông (Hành);  3.  Từ thông (Hẹ);  4.  Lan thông (Hưng cừ, giống như kiệu) và 5.  Nung thông (Nén).  Người tu không nên ăn ngũ vị tân.

3)      Tà mạng  :  Ajirika, Manière de vivre perverse.  Cách sống tà vạy, làm nghề bất chánh để sống.  Làm việc chẳng theo chánh pháp để sinh sống.  Gọi là sống theo tà mạng.

 

 

HÀNH  NGHI  THỨ  NĂM

THỜ  THẦY

 

            Phàm Sa môn thờ thầy phải học và hành đúng theo trong chương thứ hai và thứ ba của môn oai nghi.  Đây không thuật lại !  Cư sĩ thờ thầy, người thật hành gần gủi thầy quá ít, hơn nửa nói suông vô ích.  Bởi vì thờ thầy tức là hầu hạ phụng dưỡng sư trưởng.  Có một hai vị tín đồ quy y phụng sự hầu hạ bực trưởng lão cũng có thể học và thật hành trong chương thờ thầy của môn oai nghi.  Thế nên, không cần thuật lại.

 

 

HÀNH  NGHI  THỨ  SÁU

THỜ  CHA  MẸ

 

 

            Phàm Sa môn thờ cha mẹ, không quan yếu các việc sớm thăm tối viếng, quạt nồng ấp lạnh, ăn no mặc ấm mà quan yếu ở chỗ làm sao cha mẹ thoát ly được biển khổ luân hồi sanh tử !  Điểm nầy đạo Nho cùng Phật giáo không đồng.  Người học Phật thấy cha mẹ phải thân đoan trang, đứng thẳng hay ngồi ngay, không được dựa ghế nương vách.  Rồi niệm bài kệ rằng :

                        “Việc hiếu cha mẹ,

                        Cầu cho chúng sanh;

                        Việc lành tới Phật,

                        Hộ nuôi tất cả.”

            Lúc thích nghi đem nhơn duyên Phật pháp phụng kính cha mẹ đều nương nơi bạn lành thuần thục, dùng giáo lý Phật khuyến hóa, khiến cha mẹ trồng căn lành.  Nếu không tín ngưỡng thì gặp lúc có phương cách cơ duyên, chẳng hạn như đau ốm, tai nạn, ai oán v.v..   Nếu cha mẹ thích dùng thịt rượu, thì nên than thở khuyến cáo than rằng : “Con thọ trì giới hạnh của Phật, ăn thịt thì hại sinh vật, uống rượu say, mê mờ tâm tánh, không nên tự uống ăn, cũng không được cùng người ăn uống !  Cúi mong song thân, hành theo giới hạnh của con, để cha mẹ được nhiều đức hạnh, toàn chúng sinh, sinh mệnh trường tồn !”.  Cầu mong như thế, chưa chắc đã được như ý nguyện.  Đến dịp lễ chúc thọ, lễ mừng sinh nhựt, nên đem chánh lý thuyết minh, y theo giáo pháp của Phật mà hành trì, khỏi hại sinh vật, nếu cha mẹ thọ mạng gần hết, phải mỗi ngày đem hiện tượng cảnh cực lạc nói cho cha mẹ nghe.  Nếu khi mạng chung nên thưa trước cho người nhà biết là chớ nên khóc kể, tang lễ nên cử hành trong thanh tịnh, trang nghiêm, cầu nguyện, dù khó khăn đến đâu cũng phải giữ tâm kỳ siêu độ.  Cốt yếu là không hại sinh mệnh cúng tế !  Còn gặp chú, bác, các vị niên trưởng cũng phải đoan trang nghiêm chánh, giảng giải nhơn duyên Phật pháp cho các vị ấy nghe.

 

 

HÀNH  NGHI  THỨ  BẢY

CƯ  GIA

 

            Cư sĩ ở tại nhà, mặc dù không làm hết việc Phật, song cũng chớ nên tạo them tội lỗi mới làm cốt yếu.  Thường thầm niệm bài kệ :

                        “Cư sĩ Bồ Tát tại gia,

                        Cầu cho tất cả chúng sanh.

                        Hiểu biết gia đình tánh không,

                        Thoát khỏi các điều bức bách”.

            Nếu dạy vợ con, đầu tiên nên giảng dạy đạo lý nhân quả, kế đó đem giáo pháp của Phật rộng lớn hiểu dụ, dùng cảnh vui cõi tịnh khai hóa cho vợ con an hem.  Thầm niệm bài kệ rằng :

                        “Vợ con tụ hội,

                        Cầu cho chúng sanh;

                        Oán thân bình đẳng,

                        Hằng lìa tham giận”.

            Nếu vợ con vừa tin, khuyên thọ năm giới (1) do Phật chế ra.  Trong gia đình có con gái, rất dễ giáo hóa.  Nên đem kinh sách phổ thông cho đọc, học đồng thời giải nói khiến chúng thâm nhập trong ruộng tâm thức (2).  Lại nữa, đương ở chỗ thanh tịnh, hoặc trên lầu nên thiết bàn Phật, nơi để kinh sách phải trang nghiêm thanh khiết, tiện cho việc mai chiều lễ tụng, nhất là con cháu trong nhà.  Hơn nữa người ở gần hay thân quyến nhìn thấy phát khởi thiện tâm.  Mỗi lần lên lầu, phải thầm niệm bài kệ rằng :

                        “Lên trên lầu các,

                        Cầu cho chúng sanh;

                        Thăng lầu chánh pháp,

                        Thấy suốt tất cả”.

            Phàm mướn công nhân, phải trước định ngày khởi công, rồi tuần tự khuyên nhắc họ, phương pháp niệm Phật, tránh sự sát sanh, kiêng uống rượu say sưa, lại cũng không nên dùng lời dâm ô nói chuyên hay đờn ca xướng hát v.v.. Nhưng cư sĩ chính mình luôn gìn giữ oai nghi, trong sạch, đoan chính.  Không giận hờn, không mắng nhiếc, không uống rượu, không sai lời, không chơi giởn với trẻ con.  Không nên cầm kỳ, đánh bạc, không nên gần gũi nữ sắc.  Gặp lúc bà con hành động bất hợp pháp, cũng chớ nên theo thời giận mắng, phải nhắc nhở họ.  Có các việc vui đưa đến, phải dùng tiền của bố thí cho những kẻ nghèo hèn.  Trong lúc bố thí, thầm niệm bài kệ rằng:

                        “Nếu có bố thí,

                        Cầu cho chúng sanh,

                        Tất cả hay xả,

                        Tâm không ái trước”.

            Liền thỉnh giảng sư hoặc tự mình diễn nói các vấn đề thiển cận trong Phật pháp và những việc nhơn quả.  Gả con gái không cần nữ trang nhiều; nên đem tiền của giao phó cho bà nội trợ, trước phải giải rõ, hoặc lập cứ ước, nói rằng tài sản nầy, mỗi thời gian chi phí bao nhiêu, dùng bao nhiêu cho việc nhà, dùng bao nhiêu cho việc ấn tống kinh Phật, hay làm các việc từ thiện xã hội.  Cưới dâu không cần của tiền giàu mạnh.  Đến kỳ “hỷ sự” nên mời thân tộc xa gần đến, tiệc ăn thì dùng đồ chay, giảng nói giáo pháp của Phật, bố thí kẻ nghèo, ấn tống kinh sách.  Nếu gia đình có dư, thì phải tự chi dụng, như người thưòng, còn dư lại để làm việc từ thiện công ích, tuyên dương giáo pháp của Phật trang nghiêm chùa tháp.  Nếu cư sĩ rất giàu, thì đem tài sản ấy giao cho bạn lành, kiến tạo nhà cư sĩ công cộng, hoặc xây dựng tùng lâm, tịnh xá, học viện v.v..Và làm các việc chẩn tế, giúp cô nhi quả phụ, tu kiều bồi lộ, tuyên dương các việc Phật pháp.

            Xét đến các việc cứu tế chúng sanh, cần phải châm chước, không nên làm cho người có tánh biếng lười !  Thuở xưa có ông Tế Hương thật là giàu có, đem tài sản giúp cho đền miếu, cúng kiến khiến người thân tộc trông nom…  Mỗi năm thu lợi bao nhiêu, sau người thân tộc làm nghịch, việc thu huê lợi không còn, không làm nên sự nghiệp.  Lại sinh ra kiêu mạn khác thường, lâu quá không đủ thuật mưu sinh, như thế sinh ra trộm cướp.  Lúc ấy không có phương pháp nào cứu vãn được !  Người xưa đã nói : “Làm nhơn đức lại bị quả báo bất nhơn”;  ấy là hàng người nói trên.  Thế nên việc bố thí, cần phải liệu lượng người thọ thí cốt yết là chớ để họ tạo nhiều ác nghiệp.  Chẳng làm được như vậy, tốt hơn dùng của tiền để làm trợ duyên cho công cuộc hoằng dương chánh pháp, cảm hóa lòng người, khiến cho thế giới thanh bình, công đức kia rất là vĩ đại!

            Trong nhà không được tích trử dao gươm, súng đạn, câu, lưới v.v… tất cả những khí cụ hại vật thương tử.  Phàm cùng với thân tộc, kia đây biếu quà qua lại, trước phải cho ý kiến là không nhận quân huyết hay lụa là, hoặc các vật tổn thương khác.

 

1)      Năm giới  1.  Không sát sanh.   2.  Không trộm cướp.   3.  Không tà dâm.   4.  Không nói dối.   5.  Không uống rượu.

2)      Tâm thức :   1.  Nhãn thức,  Nhĩ thức,  Tỷ thức,  Thiệt thức,  Thân thức,  Ý thức,  Mạt na thức, và   A lại da thức (tàng thức).

 

 

HÀNH   NGHI   THỨ   TÁM

ĐÃI  KHÁCH

 

            Phàm sa môn, cư sĩ tiếp đãi tân khách, trừ ngoài các việc đã hỏi đáp theo ý kiến xã giao, tiếp đó là nên tổng quát đem nhơn quả thiện ác trực tiếp nói chuyện với khách.  Xin miễn đàm luận việc chánh trị, chiến sự, việc kiện cáo và các việc tạp thoại vô ích trong thế gian.  Trong nhà ngoài có những câu cáo bạch :  “Gia đình chúng tôi học Phật, không đàm luận việc đời, không dùng thịt rượu, không dám ca xướng, không tổn thương sinh vật, không dùng bói toán, không xem tướng mạng, không phụng sự tà giáo.  Vì sợ khinh mạn tân khách, nên đặc biệt mới có cáo bạch nầy”.   Đãi khách cơm rau, phải dùng chay lạt, không nên giết gà, hại cá.  Trong trường hợp vạn bất đắc dĩ (như cha mẹ, anh em chưa hiểu Phật pháp) mua đồ người ta làm sẳn trong chợ, không thấy họ giết, không nghe họ giết, không nghỉ họ giết để cho mình bồi dưỡng.  Đãi khách như thế thì cho công nhân ăn cũng vậy.  Muốn hướng dẫn khách đi du ngoạn, trước đến xem Kinh, sách, chỗ thờ Phật kế đó đi xem vườn rừng, lầu các, phong cảnh v.v…Ngoài ra, nên đưa khách xem những câu tỉnh thế trong các Kinh Luật.  Trong các nơi quan trọng trong nhà cũng nên có những khẩu hiệu thức tỉnh lương tâm.  Khách nếu cần vật chi, hoặc muốn tìm việc, tìm người v.v..  thừa cơ hội ấy xin thưa với khách :  Ông có hay niệm Phật, hay kiêng sát sanh và hành Phật pháp không ?  Đã thật hành thì tốt, chưa thật hành thì không sao !  Khi đàm luận không nên khen mình chê người, không được nói lưỡi đôi chiều, phát giác việc phải quấy của người.  Không được khuyến khích các việc chơi cờ, ca xướng cùng các việc bài bạc..  Khi khách ra về, đem các thứ Kinh, sách, tràng hạt để tặng lưu niệm.   Nếu thấy các Hòa thượng trưởng lão đến hay các Đại đức đến phải lễ lạy tiếp rước, lại bảo con, cháu và người trong gia đình phải ra lễ nghinh.  Khi các ngài về cũng tác lễ tiễn đưa.  Trong kinh Phạm Võng nói :  “Nếu Phật tử nào thấy các vị Pháp sư đại thừa đồng học, đồng kiến, đồng hành đến vào phòng tăng, nhà cửa, thành ấp, hoặc xa từ trăm dặm, nghìn dặm đến, liền phải rước đưa đủ lễ, bái lạy cúng dường, mỗi ngày ba thời cúng dường, giường tòa, cung cấp, các việc cho Pháp sư, tất cả đồ cần dùng, thường thỉnh thuyết pháp ba thời, mỗi ngày lễ bái ba thời, không bao giờ sanh tâm giận tức, tâm não phiền, vì Phật pháp quên mình, thỉnh thuyết pháp không biết mệt.  Nếu không làm như vậy Phật tử nầy phạm khinh cấu tội”.

 

 

HÀNH   NGHI   THỨ   CHÍN

ĐỌC   SÁCH

 

            Phàm Sa môn, cư sĩ đọc sách phải phân biệt các loại sách tà chánh, thiên, viên.  Các loại sách trong thế gian, như :  sách xem số mạng, sách coi tướng, sách binh bị, sách bói sú, sách địa lý, sách đạo tiên, sách thiên văn, sách đồ sấm, cho đến các sách ngoại đạo trai công, sách giáng loạn, sách lư hỏa, sách đơn điền, sách huỳnh bạch, sách thần kỳ, sách quỉ quái, phù thủy, tây du, phong thần, ngụy truyện, tài tử và các loại tiểu thuyết cận đại, đều không được xem.  Cho dù xem kinh Phật cũng phải lựa chọn chơn, ngụy.  Loại nào thuộc về chánh kinh mới được đọc tụng; cũng không được trước lựa các bài sám ứng phú đạo tràng (1) học tập.  Nếu người nào có trí lực dư, muốn biết nội giáo, ngoại giáo sâu cạn thì nên xem các loại sách Trung tây, Tôn giáo, Lịch sử, Triết học, song cũng chỉ xem lược qua, không được sanh tâm tưởng học tập.  Nếu vị nào sớm đã thông suốt kinh Phật, phát tâm độ hết chúng sanh, muốn hợp cơ duyên chúng sanh, không rành các loại sách kia không thể được.  Ấy cũng nên xem qua các sách cho biết.  Song muốn phân tách phải trái, chánh tà thì phải lấy kinh Phật làm tiêu chuẩn.  Các em “vị thành niên” không thể không biết các loại sách sử phổ thông của quốc dân thì không có liệt kê ở đây.

 

1)      Ứng phú đạo tràng :  Nơi làm đám, tán tụng, lễ nhạc Phật giáo, sớ điệp v.v.  gọi là ứng phú.

 

 

HÀNH   NGHI   THỨ   MƯỜI

LÀM  QUAN

 

            Cư sĩ làm quan, không được vì nước đi sứ, hội hiệp các việc chiến tranh.  Trong Kinh Phạm Võng nói : “Hàng Phật tử không vì lợi dưỡng sanh tâm ác độc, thông nước xứ mạng quân trận hội hiệp, phát khởi chiến tranh, giết hại vô lượng chúng sanh, hàng họ Bồ Tát còn không được vào trong quân trận qua lại, huống chi cố ý làm giặc trong nước.  Nếu ai cố ý làm phạm khinh cấu tội”.  Lại nữa, không được phi pháp chế hạng.  Như trong kinh Phạm Võng nói : “Nếu Phật tử nào đều dùng tín tâm thọ giới, hoặc Quốc vương, Thái tử, trăm quan, bốn bộ đệ tử, tự giữ phần cao quí, phá diệt giới luật Phật pháp sang tác pháp chế, chế cho bốn bộ đệ tử (1) của ta, không cho xuất gia hành đạo, cũng lại không cho tạo lập hình tượng.  Phật pháp Kinh luật chế lâp thống lãnh đại chúng, an tịch ký tăng.  Bồ tát, Tỳ kheo đứng dưới đất, cư sĩ ngồi trên cao, lộng hành các việc phi pháp, như binh nô thờ chủ.  Bồ tát nên thọ lãnh đồ cúng dường của tất cả mọi người, thế mà trái lại làm quan đi sứ, làm không đúng pháp, đúng luật.  Nếu Quốc vương, trăm quan, những người hảo tâm thọ giới pháp của Phật, chớ làm những tội phá rối ngôi Tam Bảo, nếu ai cố ý làm phá hại chánh pháp, phạm khinh cấu tội.”

            Luận về cư sĩ làm quan, đã có thế vị, tự phải thực hành phương pháp giáo hóa.  Nên ta lời bố cáo : “Ai muốn học Phật, phụng trì chánh pháp, thì không nên ăn thịt, uống rượu, không nên đến tiệc đãi rượu, không thọ tư hữu, không ức chế thị phi, không vọng thưởng phạt, phàm làm dân quân, thảy đều đủ biết”.  Khi khởi làm đồ án gì, đợi thương lượng hai bên, sau khi đồng ý, liền đem Phật pháp khai đạo, trước nhơn sau quả đều khuyến thị, hiện nay và về sau phải biết quả báo, y theo pháp của Phật, phép của nước làm lương dân an thiện.  Phàm khi thấy khách trừ ngoài ý muốn hỏi đáp xã giao, đều nên đem Phật pháp nói với người khách.   Những người viên chức, phải trong mỗi ngày chủ nhật dùng nhân duyên Phật pháp khai đạo, khuyên mỗi viên chức đều phụng hành, tránh các sự dối trá.  Phàm quân quan đối với binh sĩ cũng nên hành động như thế.  Một mặt khiến tâm trí thuần nhứt, mặt khác khỏi não loạn quốc dân.  Phàm quan chức bề trên đối với cấp dưới, trước hết xem qua chức vụ, rồi hỏi các vị đó có hay y theo Phật pháp mà thực hành không ?  Thực hành thì ban chức trái lại thì thôi !  Phàm đi ra ngoài phải làm xong đồ án, thấy cấp dưới nên chỉ bảo, liền đem Phật pháp giáo hóa cho họ.  Đối với những người thân thương, trừ ngoài chánh vụ quốc gia xã hội đếu nhắc khéo cho họ đàm luận Phật pháp, tặng sách Phật cho họ đọc, khiến kia đếu phụng hành.  Phàm thời gian tại chức nên khuyên viên chức địa phương phần lớn phải làm công ích từ thiện.  Khi bổ nhiệm đến, phải dự trước soạn một bài văn Phật học, ban bố cho địa phương.  Nếu lúc từ nhiệm, bổn phận chính yếu, trừ ngoài ứng dụng, nên khuyên người lân cận ấn tống kinh Phật.  Bởi vì nhân sinh ở đời, cốt yếu phải thật hành chí nguyện của mình không cần đem tài sản trao cho con cháu, con cháu có khả năng, tự quyết mưu sanh chánh nghiệp.  Chẳng như vậy trao cho tài sản làm tổn hại đức độ con cháu.  Thử xem nhơn trọng của đời, thọ đi nghiệp của tiền nhân mà biếng nhác, phế nghiệp, bại gia, vong thân, thật là đáng tiếc.!

            Hoặc nói, người học Phật mà đang lúc làm quan chức, nếu gặp có tội phạm phải xử tử hình, thì phải làm sao ?  Đáp :  Gặp phải việc xử tội tử hình, nếu trường hợp cứu được thì nên tìm cách cứu; muôn lần tìm cách cứu nhưng không cứu vãn được, thì khuyên nhắc nhở họ để khi họ tử hình khỏi bị tổn thương lòng từ.  Bởi vì đoạn được một mầm xấu có thể kiện toàn trăm mầm tốt, để mà thức tỉnh mọi người.  Thuở xưa đức Phật ở trong thời quá khứ gặp một người ác, trói chặc trăm kẻ thiện, định mang ra giết !  Đức Phật thấy thế rất lấy làm “bất mãn” mới tự nguyện xả thân trả quả báo, liền đem người ác kia ra giết, để cứu trọn một trăm người thiện.  Ấy thật là lòng đại từ duy nhất vậy.  Đâu có thể đem lòng thương của phụ nữ, nữ nhơn mà toan làm Phật pháp ư ?  Lại nữa, phải tới chỗ hình phạt để mà thương lượng với người giám ngục diễn giảng nói giáo pháp của Phật, đau khổ, buồn rầu đâu có ích gì !  Cũng như những năm gần đây ở Triết giang thường tuyên giảng Phật pháp cho các người giám ngục.  Sau đó các phạm nhơn đều được sự giáo hóa của giám ngục !

(1)    Bốn bộ đệ tử  :  1.  Tỳ kheo.   2.  Tỳ kheo ni.   3.  Ưu bà tằc và   4.  Ưu bà di.

HÀNH   NGHI   THỨ   MƯỜI   MỘT

KINH   THƯƠNG

 

            Sự kinh doanh thương mại của cư sĩ, đã không quá lao nhọc, lại rất tự do, chính vì đó mà y theo đường chánh là Phật sự.  Nhưng không được buôn bán giả trá, không được buôn bán giá quá cao, không được dùng hai cân (cân già, cân non), không được trốn quan thuế, không được dối trá người già kẻ trẻ, không được kinh doanh nghiệp đồ tể, không nên kinh doanh nghiệp bán rượu, không nên kinh doanh nghiệp ca xướng, không nên kinh doanh các nghiệp nuôi gà đánh cá v.v… không được mua bán trai gái, nô tỳ; không được mua bán dao, lưới, các dụng cụ giết hại chúng sanh v.v…Khi mướn nhân công làm việc phải giảng nói đạo lý y theo hành vi của Phật mà làm, nếu không như vậy thì không nên mướn.  Phàm dạy các người thương mãi, thường đem giáo pháp của Phật khai đao, tránh các vụ gian xảo, trốn thuế v.v…Các đồ buôn bán phải ghi sổ, mã hiệu rõ ràng không được chiết khấu, khách hàng không bằng lòng mua, họ bỏ đi, không được sanh tâm giận hờn.  Buôn bán đắc hàng, không được sanh lòng tham.  Món hang quá ngày giờ, mình phải nói rõ, không được che dấu dối trá, không đươc buông lung trong việc thương mại, không được mắc nợ quá nhiều, tâm địa tự nhiên thanh tịnh, không được ngụy tạo buôn bán, không nên dối trá khinh thường, thiên tánh cũng phải rõ ràng.  Nếu được như thế, mặc dù kinh doanh thương mãi, cũng không bị lòng tham câu thúc và được tự lợi, lợi tha !.

 

 

HÀNH   NGHI   THỨ   MƯỜI   HAI

NÔNG   VỤ

           

            Hàng cư sĩ thi hành việc nông không nên nhọc tâm suy nghĩ, điểm chính là phải y theo lời Phật dạy mà ra làm việc nông, chỉ phải tế nhị cày bừa, không được giết hại trùng kiến.  Nếu tình cờ có lầm lẫn sát hại, phải liền niệm Phật, niệm chú vãng sanh, để giúp cho các loài kia được vãng sanh.  Sau khi trở về nhà, tối lại hướng về bàn Phật thành tâm sám hối để khỏi tái phạm.  Khi gieo giống, nên niệm bài kệ rằng :

                        Gieo vật vô tình,

                        Cầu cho chúng sanh,

                        Trồng các căn lành,

                        Nảy mầm Bồ Đề.

            Phàm khi cắt cỏ nên niệm kệ rằng :

                        Cắt các cỏ loạn,

                        Cầu cho chúng sanh,

                        Trừ các phiền não,

                        Chứng pháp thanh tịnh.

            Phàm lúc bừa cỏ nên niệm bài kệ rằng :

                        Ta nay bừa cỏ trừ nghiệp ác,

                        Tất cả chúng sanh tự trốn lánh;

                        Nếu ở dưới bừa tan nát hình,

                        Nguyện người tức thời sanh cõi tịnh.

                        Án dật đế luật ni tóa ha (3 lần).

            Khi thu hoạch, nên niệm bài kệ rằng :

                        Thu lúa thóc nầy,

                        Cầu cho chúng sanh,

                        Phước huệ đầy đủ,

                        Thọ pháp tịnh lạc.

            Nếu gặp lúc nắng hạn, phải ở trong nhà tụng kinh thinh võ, hoặc Kinh Hoa Nghiêm.  Nếu trồng cầy rừng, chở các gai gốc, phải niệm kệ rằng :

                        Trồng cây rừng nầy,

                        Cầu cho chúng sanh;

                        Trừ tâm giận tức,

                        Lớn cây bồ đề.

            Phàm thúc dục trâu cầy, không được đánh mắng, nói dạy rằng các người phải phát tâm bồ đề.  Nhà có con cháu, phải thường dạy răng, không được bắt cá mò tôm, tư chúng cũng không được phóng hỏa đốt núi rừng !  Tội đồng như trước.

 

 

HÀNH   NGHI   THỨ   MƯỜI   BA

LÀM   CÔNG

 

           

            Cư sĩ làm công, công việc làm đã nhứt định, không hy vọng việc nghi khác, chính phải y theo lời Phật dạy mà hành trì, duy có thân và tay đều phải siêng năng làm việc nhưng tâm địa luôn luôn sáng suốt, phải niệm Phật, trì chú, tham thiền, quán tưởng ở trong giờ lao động, chính yếu phải dụng công.  Bởi vì thân và tay đã trở thành thói quen, như may y phục, dệt vải lụa v.v.. tuy không chú ý nơi công việc, nhưng cũng không mất thân và tay đang làm việc.  Duy có một điều là phải dụng ý, như phối hợp thuốc thang cắt may quần áo v.v….thì không thể không chú y.  Điểm nầy ở trong mai chiều thật hành liên tục chắc chắn được.  Quán sát việc đời có phần dễ, nếu mỗi việc đều chuyên tâm; chẳng qua đối với người làm công, vì không có sự lo lắng sâu xa.  Khi các công nhân tụ hội làm việc, như hái trà, bẻ củ ấu làm bông vải v.v.. đều ở trong lúc làm việc nên đàm luận Phật pháp và niệm Phật v.v…Nếu công ty quá đông người, rất tốt là kết thành Liên Xã niệm Phật, liên lạc cảm tình, lâu lâu người chủ thấy việc làm quá hay, tâm cũng nhơn đó mà thọ những lời cảm hóa.  Tôi khi ở đất Châu Hoàng, thấy các phụ nữ ở đó làm công trong một nhà, đều đồng có tiếng niệm Phật nghe thấy, hết lòng quá trọng.  Thông thường các nơi khác họ theo phong tục, gặp nhau nói những lời dâm ô, ca xướng cho vui tươi.  Ít theo tục lệ nhơn đức.  Trong mỗi nơi khác biệt; cần phải đề cao khen ngợi như chỗ hành động của phụ nữ Châu Hoàng thì không có ác tâm, cũng quyết giáo hóa trở thành người nhân đức trong làng !.

 

 

HÀNH   NGHI   THỨ   MƯỜI   BỐN

LÀM   VIỆC

 

 

            Phàm Sa môn cư sĩ làm việc không được nhìn đại chúng làm nhọc mà ta ngồi yên.  Không được để người làm việc khó mà ta việc dễ; không được người nhiều việc ta lại ít; không được người trước ta sau, cố ý kéo dài; không được người nặng nề, ta quá nhẹ việc.  Trừ sức lực không cho phép không được chậm sớm mất thời gian, không được hồ đồ ô nhiểm.  Các đồ vật phải quí trọng, không được tự ít liệng bỏ, phàm rửa rau, phải rửa nước ba lần.  Múc nước phải rửa tay thật sách; phàm dùng nước phải xem xét có vi trùng hay không, nếu có, phải dùng lụa mỏng lược qua mới dùng.  Nếu mùa đông giá lạnh, không được lược nước quá sớm, phải đợi mặt trời mọc.  Phàm nhen lửa trong bếp, không được nhen củi mục hay củi tươi.  Phàm làm đồ ăn không được để dính bụi trong móng tay nhơ.  Khi đổ nước nhơ, không được cao tay đổ tạt giữa đường; phải cách đất một vài tấc từ từ đổ đó.  Lúc quét đất, không được quét ngược gió, không nên nhóm đất bùn, để sau cánh cửa.  Khi giặt áo trong phải bắt bỏ rận lớn, nhỏ rồi mới giặt.  Tháng mùa hạ dùng nước xong phải úp chậu xuống, nếu để ngửa liền sanh vi trùng; không được đổ tạt nước sôi trên mặt đất.  Tất cả gạo bún, rau trái v.v… không được để bỏ bừa bãi, phải gia tâm qúy tiếc.  Phàm rửa tay và làm  các việc đều phải thầm niệm bài kệ rửa tay như sau :

                                    Dùng nước rửa tay,

                                    Cầu cho chúng sanh;

                                    Đặng tay trong sạch,

                                    Thọ trì Pháp Phật.

                                    Án chủ ca ra gia tóa ha (3 Lần).

 

            Kệ rửa mặt :

                                    Lấy nước rửa mặt,

                                    Cầu cho chúng sanh,

                                    Đặng sạch cửa pháp,

                                    Hằng không nhiểm nhơ.

                                    Án lam tóa ha (21 lần)

 

            Kệ súc miệng :

                                    Súc miệng luôn lòng sạch

                                    Ngậm nước trăm hoa thơm

                                    Ba nghiệp hằng thanh tịnh

                                    Đồng Phật đến Tây phương

                                    Án hám án hản tóa ha (3 lần)

 

            Kệ rửa chân  :

                                    Nếu khi rửa chân

                                    Cầu cho chúng sanh

                                    Đầy đủ sức thần

                                    Chỗ đi không ngại

                                    Án lam tóa ha (3 lần)

 

            Kệ nhăm nhành dương :

                                    Khi nhăm nhành dương

                                    Cầu cho chúng sanh

                                    Tâm kia đều tịnh

                                    Tiêu các buồn rầu

                                    Án A mộ gia; di ma lệ, nhĩ phạ ca ra

                                    Tăng du đà nễ bát đầu ma, câu ma ra

                                    Nhĩ phạ, tăng du đà ra đà ra đà ra, tố

                                    Di ma lệ, tóa phạ ha (3 lần)

 

            Kệ tắm Phật :

                                    Tôi nay tắm gội các Như Lai

                                    Trí sạch trang nghiêm công đức nhóm

                                    Chúng sanh năm trược khiến lìa nhỏ

                                    Đồng chứng pháp thân tịnh Như Lai.

 

 

HÀNH   NGHI   THỨ   MƯỜI   LĂM

LỄ   TỤNG

 

            Phàm sa môn hay cư sĩ niệm tụng, phải mỗi chữ liền liền tiếp nối.  Một bản đồng tiếng, không được mỗi câu gián đoạn, không được cao thấp, trúng trật, đều phải theo tiếng Phạn, không được tụng tiếng lạ giọng khác, trong ấy phải theo phép tắc.  Phải yêu cầu các vị Đại Đức chỉ dạy cho phương pháp tụng niệm, dần dần thuần thục.  Không được lễ tụng chưa đúng mà không chịu học hỏi.  Nếu xướng tiếng Phạn lại phải tinh tập.  Không được đến thời lễ tụng làm mất oai nghi.  Bởi vì nếu không học tập thường khiến cho người đồng tụng động chánh niệm.  Phàm xử dụng pháp cụ không được khinh trọng mất tiếng vang, không được đánh pháp cụ loạn động.  Phàm niệm tụng không được liếc ngó đông tây.  Đi kinh hành, không được trước, sau quá xa hay quá gần, không được đi lệch tả hữu, không được dọc theo đường nhổ nước miếng, phải dự bị khăn tay giải quyết…Phàm lễ lạy phải đồng lạy đồng đứng, không được trước sau.  Khi chào hỏi phải cúi đầu đến nửa chừng, không nên thái quá và bất cập.  Phàm chấp tay, không được mười  ngón so le, không được trống chính giữa, phải ngang ngực cao thấp đúng chỗ, không được dùng ngón tay móc trong lỗ mũi.  Lễ tụng xong, thứ lớp tuần tự ra đi, không được trước sau lẫn lộn!.

 

 

HÀNH   NGHI   THỨ   MƯỜI   SÁU

TỌA   THIỀN

 

 

            Sa môn hay cư sĩ khi tọa thiền trước phải nới giậy lưng, buông giày dép, mặt y phục rộng rãi, dùng bồ đoàn để ngồi.  Khi ngồi phải thầm niệm bài kệ.

 

                                    Ngay mình vững ngồi

                                    Cầu cho chúng sanh

                                    Ngồi tòa bồ đề

                                    Lòng không cố chấp.

                                    Án phạ tất ra, a ni bát la ni, ấp

                                          Đa gia tóa ha (3 lần)

 

            Sau đó dùng lưng bàn chân trái để lên bắp vế chân mặt, rồi dùng lưng bàn chân mặt để lên bắp vế chân trái; hoặc để dưới, gọi là bán già.  Sau dùng bàn tay mặt để trên lòng bàn tay trái, cho hai ngón cái tiếp nhau.  Khi ngồi lưng thật thẳng, xương sống thẳng như tấm vách, đầu hơi cúi một chút, khiến cho cần cổ thong thả, môi răng đều ngặm hai mắt nhắm 1/3 (một phần ba) quán tâm nhìn xuống, chánh thân đoan tọa, không được thiên tà, không được di động, không được dựa lưng, không được khịt mũi.  Lúc tọa thiền, hoặc quán sổ tức, hoặc trì chú, hoặc niệm Phật, hoặc làm phép quán, hoặc tập định, hoặc nghỉ câu thoại đầu, do mỗi người tự chọn, pháp kia rất nhiều, không thể liệt nói hết ở đậy.  Khi tọa thiền xong, phải trước mở mắt, lấy bàn tay chà xát thật nóng áp lên nơi nào cảm thấy khó chịu, kế đó chà mạnh trong cơ thể, rồi sau buông xả hai chân, đứng dậy sửa sang y phục.  Nếu cần nên ngồi lại dây lát rồi mới đứng dậy ra đi thong thả.  Nếu cùng chúng đồng ngồi thiền, không nên đánh khánh, không được trước mở mắt.  Trong lúc ngồi ho hen, ợ ngáp, đều phải dùng tay áo che miệng.

 

 

HÀNH   NGHI   THỨ   MƯỜI   BẢY

THỌ   THỰC

 

            Phàm sa môn hay cư sĩ thọ thực, trước phải chấp tay, khởi làm năm phép quán niệm :  Một là tính công minh nhiều hay ít, lường chỗ người khác mang đến.  Hai là so sánh đức hạnh của mình, hoàn toàn hay khuyết điểm mà thọ của cúng.  Ba là ngửa vọng tâm, lìa các lỗi lầm, tham lam là số một.  Bốn là chánh chuyên thuốc hay, trị lành bịnh gầy ốm.  Năm là muốn thành đạo nghiệp, nên thọ đồ ăn nầy.  Khi ăn không được nói chuyện; nếu có khách đến phải giữ yên lặng, ăn xong sẽ tiếp.  Khi ăn không được cười nói, không được ăn quá chậm và quá mau, không được thân dựa trên ghế.  Không được đi chà bàn chân, không được ngồi chồm hỏm, phải đoan thân chính ngồi, không được dùng đồ ăn cho người ngồi gần và trích bỏ cho chó.  Không được nheo mày chê đồ ăn dở, không được dùng móng tay gải trên đầu, khiến vật rơi đến người ngồi gần, không được phun đồ ăn đến người gần, không được nhai đồ ăn có tiếng, không được khua chén đủa, bát v.v…có tiếng động.  Trong đồ ăn có sâu sia, phải lén che dấu, chớ cho người ngồi gần thấy.  Như muốn gỡ đồ ăn trong răng hay xỉa răng, phải mấy tay che miệng.  Không được thấy đồ ăn ngon sinh lòng tham buông miệng ăn, không được vắc đồ ăn xa ném vào miệng, không được làm rơi rớt cơm đồ ăn, không được búng má mà ăn, không được húp đồ ăn có tiếng, không được dùng lưỡi liếm đồ ăn, không được nắm bóp tan đồ ăn, không được tay nhơ mang đồ ăn.  Trên ghế không được để chén bát lộn lạo, phải để ngay thẳng, không nên để rau luộc quá lòng thòng.  Ăn rồi, không được lấy ngón tay vét chén bát ăn, không được ngậm đồ ăn nói chuyện vừa đi,  không ở tại trai đường theo chúng ăn, không nên thêm đồ ăn, không được khiến người tiếp đưa chén bát, trừ ra liên hệ đến các bậc tôn trưởng hoặc già bệnh, làm người khách cũng thế.

            Đoạn trên chuyên chỉ các đồ ăn tầm thường trên ghế bàn mà nói về vấn đề thọ thực; nếu ở nơi trai đường Tùng Lâm theo đại chúng ăn thì phải y theo môn oai nghi thứ năm về chương Tùy Chúng Thực.  Đây không lập lại sợ phiền.!

 

 

HÀNH   NGHI   THỨ   MƯỜI   TÁM

NGỦ   NGHỈ

 

 

            Phàm Sa Môn, cư sĩ ngủ nghỉ, không được nằm ngửa, nằm sắp và cũng không được nằm nghiêng bên tả, phải co bàn tay mặt gối đầu, tay trái để xuôi theo đầu gối, nằm theo hông bên mặt mà nằm.  Gọi là ngủ kiết tường.  Lại phải nằm chỉ một đơn, không được cùng người khác nằm dù là cư sĩ, vợ chồng cũng không nên nằm chung một đơn.  Đến giờ ngủ, không nên suy nghỉ quá nhiều… suy nghỉ thì ngủ không yên.  Trước phải tỉnh tọa trong giây lát, rồi thầm niệm bài kệ (có phía sau).  Ngồi khi nào cảm thấy muốn ngủ sẽ nằm nghiêng bên hữu mà ngủ.  Lúc ngủ không cởi áo trong, không được cười nói lớn tiếng, phải thầm niệm bài kệ (có phía sau).  Nếu tình cờ có chiêm bao, nên biết đó là triệu chứng tâm trì giới chưa kiên cố, vậy phải cẩn thận !  Trời chưa sáng, phải dậy sớm, thức dậy tỉnh tọa ít lâu, rồi muốn xuống đơn ra khỏi nhà, trong  khi ấy, phải thầm niệm bài kệ, chú (có phía sau) để phòng ngừa tán loạn, tăng trưởng bồ đề.  Phàm mang đồ bất tịnh, không được đi ngang qua trước các tôn tượng và trước pháp đường !

 

            Kệ ngồi trên giường  :             Nếu trải giường ngồi

                                                            Cầu cho chúng sanh

                                                            Mở bày pháp lành

                                                            Thấy tướng chơn thật..

 

            Kệ ngủ nghỉ :              Đến khi ngủ nghỉ

                                                Cầu cho chúng sanh

                                                Thân đắc yên ổn

                                                Tâm không loạn động

 

            Kệ thức dậy sớm :                  Ngủ nghĩ mới dậy

                                                            Cầu cho chúng sanh

                                                            Tất cả trí giác

                                                            Khắp nhìn mười phương

 

            Kệ nghe chuông :        Nghe tiếng chuông

                                                Buồn rầu nhẹ

                                                Trí huệ lớn

                                                Giác ngộ sanh

                                                Lìa địa ngục

                                                Khỏi hầm lửa

                                                Nguyện thành Phật

                                                Độ chúng sanh

                                                Án già ra đế gia tóa ha (3 lần)

 

            Kệ mặc áo :                             Khi mặc áo trên

                                                            Cầu cho chúng sanh

                                                            Đặng căn lành tốt

                                                            Đến bồ pháp kia

 

            Kệ mặc quần :             Lúc mặc quần dưới

                                                Cầu cho chúng sanh

                                                Mặc các căn lành

                                                Đầy đủ hổ thẹn

 

            Kệ buộc giây lưng :                 Sửa áo buộc giải

                                                            Cầu cho chúng sanh

                                                            Kiểm điểm căn lành

                                                            Không cho tan mất…

            Kệ xuống giường :      Sớm mai giờ dần thẳng đến tối

                                                Tất cả chúng sanh tự xa lánh

                                                Nếu ở dưới chân nát thân hình

                                                Nguyện người liền sanh về cõi Tịnh

                                                Án dật đế luật ni tóa ha (3 lần)

 

            Kệ giở chân :                           Nếu chân cử động

                                                            Cầu cho chúng sanh

                                                            Ra biển sanh tử

                                                            Đủ các pháp lành !

                                                            Án địa rị, nhựt rị tóa ha (3 lần)

 

            Kệ ra nhà :                   Khi ra khỏi nhà

                                                Cầu cho chúng sanh

                                                Sâu vào trí Phật

                                                Hằng ra ba cõi.

 

 

HÀNH   NGHI   THỨ   MƯỜI   CHÍN

VÀO   ĐẠI   CHÚNG

 

 

            Phàm Sa Môn, Cư sĩ vào trong đại chúng đồng ở, đồng làm việc, không được trông chỗ ngồi.  Trong đại chúng ai có mất oai nghi phải dấu điều quấy, bày việc tốt.  Không được dấu nhẹm những sự khó nhọc của người khác, khoe công lao của mình.  Phàm ngủ không được ngủ trước người, dậy không được dậy sau  người.  Phàm rửa mặt không được dùng nhiều nước, chà răng nhổ nước phải cúi đầu đem nước xuống, không được phun nước làm nhơ người, không được hỉ mũi khạc nhổ lớn tiếng.  Không được ở nơi đại tiện, bửu tháp, trong nước sạch, đất sạch nhổ nước miếng , hỷ mũi, phải đến chỗ thanh vắng.  Trong tay cầm đồ vật, không được một tay chào người.  Không được cười nhiều, nếu cười lớn tiếng và ợ ngáp phải lấy tay áo che miệng.  Không được đi nhanh, không được đem đèn bàn Phật riêng đến chỗ mình dùng, khi dùng đèn phải có bóng hoặc giấy che, chớ cho loài trùng nhảy vào.  Không được nghe kêu mà không lên tiếng, phàm nghe kêu phải dùng tiếng niệm Phật mà đáp, không được yên lặng hay cằn nhằn.  Y phục của mỗi người, không có màu sắc sặc sở.  Nên mặc màu đà, màu lam, màu vàng, dài ngắn tùy theo đại tăng chế.  Khi đắp y phải chắp hai tay ngang hông, không được để tay sau lưng.  Phàm đi đứng , ngồi đều không được nương dựa.  Không được treo bát trên đầu gậy, để trên vai mang đi, không được buông tay đi giữa đường, phải mang giày dép cẩn thận.  Không được phóng ý tự tiện; không được chạy rong trong chúng.  Không được nói nhiều; không được kéo giày guốc có tiếng.  Không được lén lấy của thường trú Tam bảo dùng riêng.  Không được luận  nói các việc phi Phật pháp.  Không được nhơn việc nhỏ mà tranh chấp.  Nếu việc lớn khó nhịn phải bình tâm hòa khí mà luận biện.  Không được như thế thì đối với người khác động khí phát thô không phải là đệ tử của Phật vậy.  Phàm thấy người khác lạy Phật, không được đi ngang qua trước đầu người kia.  Người đang xem kinh không được đi qua trước ghế người kia !

            Phàm nghe giảng kinh pháp, phải đến sớm, y phục chỉnh tề, hai tay bưng tập kinh, xem bằng thẳng tới, ngồi phải đoan trang nghiêm chính, không được ho khạc lớn tiếng, nếu ho hen ợ

ngáp phải lấy tay áo che miệng.  Nghe pháp, phải nghe rồi suy nghỉ, suy nghỉ rồi thực hành; không được chuyên ghi các lời danh ngôn để giúp cho việc đàm luận; không được vào tai ra miệng.  Nếu có nghi vấn điều chi phải đợi giảng xong mới thưa hỏi.  Bưng kinh sách đến bên ghế trên pháp tòa, hướng lên thưa hỏi, rồi trình bày các nghi vấn, giải đáp xong, lễ chào lui ra !

            Phàm ngồi chung quanh lò sưởi, không được cạy đất nhơ trong móng tay bỏ vào lửa, không được hong hơ giày tất.  Phàm tắt đèn phải hỏi người đồng phòng có dùng đèn nữa hay không?  Không dùng mới quạt tắt, không được dùng miệng thổi.  Trong phòng có người ngủ, không được khua vật có tiếng vang và nói cười lớn tiếng!

            Phàm vào trong nhà tắm, cởi áo, mặc áo từ từ thong thả, phải tiểu dải trước, không được dùng nước nóng làm dơ người gần.  Không nên nhờ người chà lưng; không được cùng người nói cười; không được tự ý tắm lâu, phòng ngại cho người sau.  Khi tắm phải thầm niệm bài kệ :

                        Tắm gội thân thể

                        Cầu cho chúng sanh

                        Thân tâm không nhơ

                        Trong ngoài sạch sẽ!

                        Án bạt chiếc ra não ca tra tóa ha (3 lần)

            Phàm vào nhà cầu, khi muốn đại, tiểu tiện phải đi liền, chớ để bên trong bức bách.  Phải thay đổi giày dép; không được mang giày dép sạch vào nhà cầu.  Vào nhà cầu phải gãy móng tay ba lần, khiến cho người bên trong biết, không được hối thúc khiến người trong ra.  Khi đi cầu thầm niệm bài kệ rằng :

                                    Khi đại, tiểu tiện

                                    Cầu cho chúng sanh

                                    Bỏ tham, sân, si,

                                    Dứt trừ pháp tội !

                                    Án ngận lỗ dà gia tóa ha (3 lần)

            Không được cầm cỏ vẽ xuống đất, không được cúi đầu dòm xuống, không được ráng hơi có tiếng động; không được cách vách cùng người nói chuyện, không được nhổ nước miếng vào vách.  Ra vào nhà cầu gặp người, không được làm lễ, phải nghiên mình tránh.  Không được đi dọc đường vừa đi vừa buộc lưng quần.  Nếu tiểu dãi phải vén khéo y phục, không được mặc pháp y đi tiểu dãi.  Đại, tiểu tiện xong, phải rửa tay cho sạch; chưa rửa tay không được cầm nắm đồ vật.

 

 

HÀNH   NGHI   THỨ   HAI   MƯƠI

THĂM   BỊNH

 

 

            Phàm làm Sa môn hay cư sĩ thấy người đau ốm, phải nhín thời giờ thăm hộ người bịnh.  Kinh Phạm Võng nói : “Nếu Phật tử thấy tất cả người đau ốm, thường phải cung cấp nuôi dưỡng như Phật không khác.  Trong tám món phước điền, thăm viếng người đau phước điền thứ nhứt.  Nếu cha mẹ, sư tăng, đệ tử bịnh, các giác quan không đầy đủ, trăm thứ bịnh khổ não đều phải cung cấp nuôi dưỡng khiến cho mau lành, nhưng người thọ Bồ Tát giới đem tâm giận tức, không chịu săn sóc bịnh nhơn, cho đến các nơi tăng phường, thành ấp, đồng rộng, núi rừng giữa đường xá, thấy người bịnh mà không giúp đỡ, phạm khinh cấu tội”.  Khi thăm viếng bịnh, phải thầm niệm bài kệ rằng :

                        Thấy người đau ốm.

                        Cầu cho chúng sanh;

                        Biết thân không tịch,

                        Lìa saư tranh cãi.

                        Án thật rị đa, thật rị đa, quân tra rị,

                                    Tóa phạ ha (3 lần)

            Niệm xong, dùng lời khéo léo an ủi người bịnh, khuyên người bịnh niệm Phật cho thật nhiều.  Nếu bịnh nhân cần dùng món gì, phải biết sức lo lắng giúp đở, cho người bịnh mau lành.

 

 

HÀNH   NGHI   THỨ    HAI   MƯƠI    MỐT

TỊCH     CƯ

 

 

            Phàm làm Sa Môn hay cư sĩ ở nơi thanh vắng, trong phòng liêu, cần phải nghiêm túc, không được buông lung tự tiện.  Không được ăn phi thời, trừ già bịnh.  Không được hút thuốc, uống rượu.  Ngoài y bát, hành lý; không được sắm các đồ chơi, đồ để xem cảnh v.v… Không được mặc y phục tơ lụa; không được chế y phục bằng da thú, trừ nơi quá lạnh.  Xưa có vị cao tăng, quanh năm mang một đội giày cỏ, gần đây cũng có ít vị trọn đời chỉ mặc một áo nạp.  Thế nên, phàm đệ tử Phật đều sống đạm bạc; không nên sơn vẽ chạm trổ trên giường lớn, trong phòng trừ ngoài một chiếc giường, một cái ghế; không được chứa nhiều đồ vật; không nên treo quá nhiều tranh phong cảnh, trừ các câu cảnh tỉnh nên treo.  Không được mặc y phục có hình ảnh trước sau; không được vẽ trên chỗ nằm.  Không được tu tập công phu ngoại đạo, không được tập quyền thuật; không được tập họa đồ, ngoại trừ họa hình tượng Phật; không được mang gởi tài vật, của quí v.v…. Khi cạo tóc, phải thầm niệm bài kệ :

                                    Cạo bỏ râu tóc,

                                    Cầu cho chúng sanh,

                                    Xa lìa phiền não,

                                    Vắng lặng rốt ráo.

                        Án tất điện đô man đa ra, bạt đà gia ta bà ha (3 lần)…

 

 

HÀNH   NGHI   THỨ   HAI   MƯƠI   HAI

ĐI   RA   NGOÀI

 

 

            Phàm Sa môn cùng cư sĩ, không có việc gì không được đi ra ngoài.  Nếu có việc đi ra ngoài, không được chạy rong chơi, không được đu đưa cánh tay.  Không được hai người nắm tay mà đi, không được để ý liếc ngó người khác đi.  Không được vừa đi vừa nói cười.  Không được nam nữ, tăng ni trước sau lẫn nhau mà đi.  Không được cùng người say người khùng trước sau lẫn nhau mà đi.  Không được cố ý xem liếc người nữ, không được liếc mắt khắp xem nữ nhơn; nữ ni xem nam tăng cũng thế !  Phàm gặp các bậc tôn trưởng, phải đứng cung kính chào hỏi.  Phàm gặp các người diễn kịch, làm trò huyễn thuật, đấu chiến, tranh hơn, vui mừng, hội hợp, cờ bạc v.v..phải thẳng mình đi ngay, không nên dừng lại quan sát, không được cố ý xem xét !  Phàm gặp các bậc quan phủ và binh lính, phải lánh xa đó.  Phàm thấy tất cả sinh vật, phải trước khởi lòng từ.  Kinh Phạm Võng nói : “Thấy tất cả chúng sanh nên xướng rằng :  Chúng sanh các ông, cần phải thọ tam quy, trì thập giới.  Nếu thấy trâu ngựa, lợn dê, tất cả loài súc vật, khởi tâm ứng miệng nói :  Các ngươi là loài súc sanh, nên phát tâm bồ đề v.v..”

            Phàm vào trong chợ, không được ngồi nơi quán rượu, không được ngồi hàng bán thịt, không được đi cản đường.  Ngoại trừ các vị Bồ Tát tự mình mọi việc thu xếp, phát tâm đặc biệt muốn vào các nơi kia để mà giáo hóa thì không hạn cuộc.  Phàm mua các đồ vật, không nên tranh giành giá rẻ, không hợp ý mình thì xin rút lui.  Nếu vật mình đã mua rồi, dù xấu cũng không nên đổi lại, khiến người bán sanh tâm buồn giận.  Nếu bị họ mắng phải phương tiện lánh đi, không nên phân bua cãi vả.  Nếu bị trẻ con giỡn mắng, phải đi nơi khác, không được giỡn mắng lại.  Nếu nghe có chỗ nguy hiểm, không được mạo hiểm đi qua.  Nếu ngồi xe ngựa, phải cẩn thận chú tâm, khuyên người nhớ niệm Phật !

            Phàm Cư sĩ đến nhà người, trừ ngoài việc vấn đáp thiết yếu, không được nói nhiều, không được cười nhiều, phải một lòng niệm Phật.  Nếu các người biết mình có học Phật, đặc biệt để ý đến hỏi đạo, thì phải dùng chánh lý rộng đáp, nên đem pháp lành khai đạo, như pháp niệm Phật, ngăn sát sanh v.v.. Không được như vậy, chớ chỉ bảo nhiều, phải cẩn thận mà hướng dẫn.  Nếu Sa Môn đến nhà người, hoặc đến nhà thế tục thăm bà con đều phải giữ môn oai nghi, trong chương thứ mười tám, trong ấy đã nói rõ, đây không thuật lại.  Phàm vào chùa, viện, trước hết phải vào khách đường, phải chào hỏi hay đảnh lễ sư tri khách hoặc sư Trụ trì, thấy các ngài liền phải lễ bái.  Nếu mình là Tỳ-kheo, tùy nghi chào hỏi, sau đó mới vào câu chuyện.  Vào cửa chánh, không được đi chính giữa, phải theo đi bên hữu hay bên tả, đi bên hữu phải bước chân bên hữu trước, đi bên tả phải bước chân bên tả trước.  Không được cố ý lên đại điện đi rong.  Nếu ở trong đại điện lễ Phật, không được đứng chính giữa, không được tự tiện đánh khánh.  Nếu muốn tham quan các chỗ trong chùa phải có người hướng dẫn, không được tùy ý loạn hành, nhìn phía đông, ngó phía tây, không được tùy ý ra vào !

            Phàm vào chùa Ni, không được đến một mình, không được cùng với Ni chỗ vắng ngồi chung.  Không được vì Ni cạo tóc.  Chư Ni vào chùa Tăng cũng thế !  Ni thấy Tỳ-kheo phải lễ lạy, Tỳ kheo chỉ hỏi han mà thôi.  Ni thấy Cư sĩ chỉ chấp tay niệm Phật (A Di Đà Phật).  Phàm muốn đi xa phải cùng với thiện hữu, không được đi với bọn bất lương.  Mặc dù chỗ gần cũng thế.  Phàm hàng Phật tử đi xa, phải cần thiện tri thức, quyết tâm dẹp bỏ con đường sanh tử luân hồi, không nên quan sơn ngoạn thủy, kiểu như đi du lịch thấy biết rộng rãi để khoe khoang với người đời!  Đi giữa đường nhìn thấy cảnh vật đều phải thầm niệm các bài kệ thuộc phẩm Tịnh Hạnh, Kinh Hoa Nghiêm (văn nhiều đây không chép).  Khi thấy sự vật phải liên tưởng chỗ mình đến và nơi mình trở về, bản thể kia như thế nào, do đâu mà thành đạt, lúc nào tiêu diệt.  Quán sát cùng tột, quyết có chỗ ngộ.  Lúc trở về, chỉ nên thuật lại các cảnh giới giữa đường mình cảm ngộ, không nên khoe khoang chỗ thấy cảnh đẹp, người xinh và các việc quá hứng thú !

 

 

HÀNH   NGHI   THỨ   HAI   MƯƠI   BA

VIỆC   TANG   CHẾ

 

 

            Phàm trong gia đình Cư sĩ có tang chế, nếu gặp cha mẹ, hoặc bà con gần mạng chung, trước lúc chưa mạng chung, xem người chết về lúc nào, dự cáo người trong nhà biết.  Phải dọn quét phòng nhà, đốt hương ở trong, toàn gia niệm Phật.  Hằng đem phong cảnh Tịnh độ nói cho người bịnh nghe, nếu hơi gần tắt, người trong nhà không niệm đến ba thời, năm thời mới nên thôi dứt.  Nếu người chết hơi nóng chưa hết, không nên hóa trang và không nên dùng tay xoa.  Khi nào hơi ấm hết, sau đó mới hóa trang, tẩn liệm, không được thiêu công cứ, đốt giấy tiền.  Khách đến thăm, mời họ niệm Phật.  Nhứt luật không sát sanh tế lễ.  Nếu ở gần có bậc Sa Môn tịnh giới, phải thỉnh đến tụng Kinh, niệm Phật càng nhiều càng tốt.  Chẳng như vậy, hàng Cư sĩ tự cùng với bà con, tắm gội đốt hương, ở trong nhà thờ một tượng Phật, tự lễ, tự tụng hết sức gia công.  Bởi vì người chết cùng với tâm linh của thân quyến, rất là tiếp cận, y theo tập tục, muốn thỉnh Tăng đạo vậy.  Ngoài ra chiếu theo thường thức, phải gia tâm có vài lời thông bạch, nói : “Nhà lạnh việc tang, toàn tuân theo Phật chế, không giết sinh mạng, không dùng huân huyết, không đốt giấy tiền; như nhờ việc gì, ngoài sự đốt hương niệm Phật, không dám phiền việc gì đến người khác”.  Nếu có khai đường cúng tế, dùng Nho lễ cũng được, nhưng không nên sát sanh làm cốt yếu.  Phàm có tân khách đến dự, nên dùng trà đãi, thay vì rượu ngon.  Ngày khai đường, phải tuyên bố trước, đây là một giảng đường, thỉnh vị nào hay nói Phật pháp, ở trong đó diễn giảng bao nhiêu thời, tân khách đều ngồi nghe, bà con trong nhà đều ngồi nghe; nếu không có giảng sư diễn giảng, Cư sĩ tự giảng cũng được.  Chỉ có người chết, nếu là bậc lớn trong hàng Cư sĩ, thì cư sĩ không được tự đứng trên đài, phải ở dưới đài, đứng ở chính giữa, hướng lên trên mà nói, người trong nhà hoặc ngồi kiết già hay bán già, khiến các tân khách đều sanh tịnh cảm.  Lại nữa, trong nhà không nên dùng trống chiêng ồn náo, phải dùng pháp loa (Ốc lớn để thổi) làm hiệu lệnh, dùng kèn hòa với tiếng nhạc buồn, trước cửa treo một tràng phan dài, trên đầu phan dùng vải hay giấy, máng một tượng Phật tiếp dẫn.  Khi phát dẫn, có thể cầm nó đi trước.  Những người tân khách đưa linh, có thể không dùng màu trắng, mỗi người nên để trên vai một hoa sen : xanh, hồng, biếc, trắng đều được, bất tất phải dùng màu trắng.  Nếu dùng màu trắng thì phải đặt trên miếng lụa trắng vẽ sáu chữ :  Nam  Mô  A  Di  Đà  Phật, khiến nhiều người thấy niệm Phật, trợ lực vãng sanh.  Giữa đường gặp người điếu cũng thế.  Đều dự trước in một lời văn Tịnh độ, thuyết minh lý do kia.  Trên quan tài nên để hoa sen, giữa có tượng Phật đứng tiếp dẫn, thay đổi theo tập tục thường dùng hình hạt trắng, song trong con đường dài, cũng xưng danh hiệu Phật, như xướng lễ, hương ca, phải là âm vận kéo dài, hợp sáu chữ thành một phần chuông, tránh sự niệm trước sau so le.  Đưa đến trên núi, đồng thanh niệm một biến kinh A Di Đà, xưng niệm danh hiệu Phật, một thời gian mới giải tán.

 

 

HÀNH NGHI THỨ HAI MƯƠI BỐN

 

TRONG THIỀN ĐƯỜNG

 

 

            Phàm Sa môn ở trong thiền đường, trong tập này không đề cập đến, vì trong tập Môn Oai Nghi đã có chỉ rõ, nên đây không thuật lại. Xem trong Môn Oai Nghi “Nhập Thiền Đường tùy chúng đệ thập” là có đủ tất cả.

 

Hết

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567