Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 2 - TU TRÌ - chương 1 - KHUYÊN NGƯỜI ĐỜI GẮNG TU

10/12/201821:11(Xem: 2289)
Phần 2 - TU TRÌ - chương 1 - KHUYÊN NGƯỜI ĐỜI GẮNG TU

Phật Giáo Thánh Điển Linh Sơn

Thích Huyền Vi

~o~

 

 

Phần Thứ Hai  -   TU  TRÌ

 

KHUYÊN NGƯỜI  ĐỜI GẮNG TU

 

Chốn bụi hồng, sóng biển dời man mác,

Nhẫn nhục hiền hòa lạc sống thung lung,

Đến nơi đâu tùy duyên ứng vô cùng,

Sống an phận thỉ chung tròn năm tháng.

 

Cần ngưng nghĩ tu tâm mình trong sáng,

Chớ chấp tìm chí dạng lỗi tha nhân,

Cẩn thận an sống thoát não phiền trần

Chịu nghịch cảnh phù vân lo hành thiện.

 

Cung ứng ắt giây lìa gương vẫn hiện,

Lưỡi cương đao nguy biến dễ đau thương,

Gieo họa do miệng lưỡi chẳng lo lường,

Tạo nhiều lỗi gánh đoạn trường nóng khổ.

 

Vượt phải trái, ta, người, an lạc độ,

So đó đây tranh luận khổ mà chi?

Đời xưa nay tất cả khó toàn tri,

Chốn huyễn mộng tìm gì thường chơn lạc.

 

Cần kiệm sống chẳng ngại hao tiền bạc,

Xưa nay nhường người khá dễ tương duyên,

Dương liễu xanh theo xuân thắm diễm huyền,

Lại đón gió thu truyền hoa lá rụng.

 

Giấc vinh hoa mộng tàn cảnh khổ chung !

Phú quý đều kíp rụng tợ sương mai,

Sinh bịnh già chết dễ mấy ai thay ?

Vị chua ngọt đắng cay mình vẫn nhận.

 

Người đời có xảo thông mưu mấy bận,

Nghiệp duyên kia số phận đã an bày;

Tham, sân, giả dối địa ngục môn khai,

Công bình chánh thật bày thiên lạc cảnh.

 

Gương loài xạ vì hương tai khó tránh,

Tầm vì tơ bất hạnh sớm vong thân,

Tể thuốc hay nên uống dưỡng tâm thần

Hai thang nọ thêm phần hòa khí lực.

 

Thuở còn sống phí tâm theo vạn thức,

Phút hơi tàn sự thực nắm tay không,

Chấp hợp tan theo vui khổ chất chồng,

Vòng phú qúy cùng thông đời vướng bận.

 

Dừng ý tưởng tranh cường tương chiến trận,

Trăm năm đời son phấn hí trường thôi,

Sát na tàn đâu danh vọng cao ngôi ? ? ?

Hồn u mộng trở mồi tìm xứ thật.

 

 

                        ~%%~

Phần Thứ Hai  -   TU  TRÌ

 

CHƯƠNG MỘT  -  PHÁT  TÂM

 

 

 

Mục  I   -   Qui  Y  Tam  Bảo

 

  1. Ngũ Giới, Tam Quy:

 

            Ông Cấp Cô Độc trưởng giả hỏi : “người mới học đạo, trước hết phải theo chí hướng nào?”   -  Đức Phật trả lời : “Trước hết tập giữ năm giới, tự mình phải hướng về ngôi Tam Bảo.  Những gì là ngũ giới ?  Một là phát triển lòng tử, giữ lòng nhân đức không giết hại chúng sinh.  Hai là thanh liêm, giữ gìn giá trị con người không bao giờ trộm cắp.  Ba là trinh lương, trong sạch không nhiễm tà hạnh.   Bốn là thành tín, tránh không nói lời dối trá và năm là sáng suốt, chí khí không loạn.  Thế nào gọi là tam tự quy ?  Một là quy-y-Phật, vô thượng chánh chân.  Hai là quy y-Pháp, dùng tự mình ngự trị tâm.  Ba là quy chúng, ở trong thánh chúng, chỗ lãnh thọ rộng lớn; cũng như biển cả, không vật gì chẳng bao trùm”.

(Trích kinh Diễn ĐẠo Tục Nghiệp, trụ 7, tờ 23, bên trái).

 

  1. Ba tự quy :

 

            Mình trở về nương tựa Phật của mình, cầu cho tất cả chúng sinh; thể nhập hiểu rõ đạo lớn, phát lòng vô thượng.  Mình trở về với pháp tánh của mỉnh, cầu cho chúng sinh, đi sâu vào tạng kinh để trí huệ của mình được như biển cả.  Mình trở về nuơng tựa với tằng tự tánh; cầu cho chúng sinh, thống lý đại chúng, tất cả không ngần ngại.

(Trích kinh Hoa Nghiêm  :    Avatamsakasùtra, phẩm Tịnh Hạnh, thứ 6, thiên 7, tờ 29 bên trái).

 

  1. Tam quy của Bồ Tát tại gia :

 

            Đức Phật bảo : “Trưởng giả !  Bồ Tát tại gia phải quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, đem công đức tam bảo nầy, hồi hướng đạo vô thượng , chánh chân.

            Trưởng giả !  Thế nào gọi là Bồ Tát tại gia quy y với Phật ?  Ta muốn được thành như thân Phật, 32 tướng để trang nghiêm thân mình; duy trì căn lành nầy, hiển lộ 32 tướng trượng phu; nhờ tăng trưởng công hạnh nầy, siêng năng tinh tấn.  Trưởng giả !  Ấy là Bồ Tát tại gia qui y với Phật.

            Trưởng giả !  Thế nào gọi là Bồ Tát tại gia qui y với Pháp ?  Nghĩa là vị ấy phải cung kính pháp và người thuyết pháp.  Vì pháp, muốn đắc pháp, ưa giáo pháp rất an lạc, trợ giáo pháp, trụ giáo pháp, trì pháp, hộ pháp, kiên trụ nơi pháp, khen ngợi giáo pháp, trụ trong chánh pháp, tằng pháp, cầu pháp, lấy pháp làm sức mạnh tu hành, thí pháp, phục vụ chánh pháp.  Ta sau khi thành bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác sẽ đem chánh pháp bình đẳng bố thí cho tất cả trời, người, a tu la, trưởng giả.  Ấy gọi là Bồ Tát tại gia qui y với Pháp.

            Trưởng giả !  Thế nào gọi là Bồ Tát tại gia qui y với Tăng ?  Trưởng giả !  nếu bị Bồ Tát ấy thấy các bậc Tu đà hoàn (1), Tư đà Hàm, A La Hớn và cùng phàm phu, hoặc thấy Thinh văn thừa; thảy đều kính thuận, hoan hỷ tiếp đón, nói những lời khôn khéo, đi quanh bên mặt các vị đó.  Rồi suy nghĩ như thế nầy :  chúng ta khi chứng đặng đạo vô thượng chánh chân, vì lợi ích tăng trưởng công đức lành cho hàng Thinh Văn mà diễn nói chánh-pháp; mặc dù sanh tâm cung kính nhưng trong lòng không bao giờ trụ trước.  Trưởng giả :  Ấy gọi là Bồ Tát tại gia qui y với Tăng.

            Lại nữa, nầy Trưởng giả !  Bồ  Tát tại gia, thấy Như Lai rồi, thật hành luôn luôn suy nghĩ đến sự giác ngộ.  Ấy gọi là qui y Phật.  Nghe giáo pháp rồi, tu tập suy nghĩ chánh pháp.  Ấy là qui y Pháp. Thấy các vị Thinh Văn tăng của Như Lai rồi, nhưng không quên mât tâm bồ đề.  Như thế là qui y tăng.

            Lại nữa, nầy Trưởng giả !   Nếu Bồ Tát nguyện cùng với chư Phật ra làm việc bố thí vô tướng.  Ấy gọi là qui y Phật.  Giữ gìn chánh pháp ra làm các việc bố thí.  Ấy gọi là qui y Pháp.  Đem công đức bố thí nầy, hồi hướng đạo vô thượng.  Ấy là qui y Tăng.

(Trích kinh Đại Bửu Tích  :  Mahàratnakutà sùtra, quyển thứ 28, hội Úc Già Trưởng Giả, địa 5, tờ 7, hai bên).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Tu Đà Hoàn  :  Bốn danh từ nầy gọi là bốn quả Thinh Văn, dịch là :  quả Dự Lưu, quả Nhứt Lai, quả Bất Hườn và quả Ứng Cúng.

 

 

  1. Thật hành ba quy y:

 

            Bạt Đà Hòa (1) bạch với Phật rằng : “Các vị Ưu bà di (2) nghe nói pháp tam muội muốn học tập phải làm thế nào ?”  -  Đức Phật nói :” Ưu bà di muốn học pháp tam muội, phải giữ gìn năm giới, tự qui y ngôi tam bảo.  Những gì là ba ?  Tự qui mạng Phật, qui mạng Pháp, qui mạng ty-kheo tăng, không được đi con đường khác, không được bái tế thiên thần, không nên thọ quỉ vật, cũng không nên xem ngày tốt xấu.

(Trích kinh Ban Châu Tam Muội, phẩm Tứ Bối, huyền 9, tờ 26, bên mặt).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Bạt đà Hoà  :   Bhadrapàla dịch là Hiền Hộ, tên của Bồ Tát tại gia.
  2. Ưu bà di  :   Upàsika  dịch là thanh tín nữ.

 

 

  1. Trùng trong thân sư tử :

 

            ….Nầy Đại Vương ! sau khi ta diệt độ, trong đời vị lai, bốn bộ đệ tử, các vị quốc vương, thái tử, vương tử, chính là những người duy trì và hộ trợ ngôi tam bảo, nhưng ngược lại, nếu không khéo cũng chính là những kẻ phá diệt Tam Bảo.  Cũng như các vi trùng trong thân sư tử, tự đục khoét nhiễu hại sư tử, chớ không phải các loài vi trùng bên ngoài….

(Trích kinh Nhơn Vương Bát Nhã, quyển hạ, phẩm Chúc Lụy, nguyệt  chín, tờ 3, bên mặt).

 

Mục  II  -   Quy Y Phật:

 

  1. Mỗi thế giới chỉ có một đức Phật:

 

            Trong một đoàn thương buôn, không bao giờ có hai người chỉ đạo.  Trong mỗi quốc gia chẳng khi nào có hai vị vương.  Trong một cảnh giới (1) của Phật không có hai vị giáo chủ bao giờ.

(Trích kinh Tăng Nhất A Hàm :   Ekottaràgama sùtra, phẩm Lực, phần hai, thứ 38, trắc 2, tờ 57, bên mặt).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Một cảnh giới Phật :  Thế  giới của đức Phật đang giáo hóa vậy.  Hoặc xưng là một Phật độ.  Hoặc cũng gọi là cõi nước của Phật.

 

 

  1. Một lời nói xả giới:

 

            Nói một lời rồi, gọi là xả giới.  Thế nào gọi là nói một lời gọi là xả giới ?  Nghĩa là dùng lời nói ra ‘tôi bỏ Phật Pháp Tăng’.  Ai nói như thế gọi là xả giới.

(Trích kinh Thập Tụng, quyển thứ 48, phẩm một của pháp Tăng nhứt, trương 6, tờ 19, bên trái).

 

  1. Phật độ người muôn đời:

 

            Phân biệt thiện ác có năm đường, mỗi người làm lành tạo ác không giống nhau, sự giận tức, si mê có kẻ nhiều người ít.  Con đường về cõi trời phải thuận tiện, thường cùng kẻ làm lành lánh dữ.  Thế nào gọi là năm con đường ?  Ấy là đường về cõi trời, đường tới cõi người, đường vào quỉ đói, đường làm súc sinh, đường xuống địa ngục nê-lê (1) thái sơn.

            Những ai không được cứu độ trên con đường đời, sinh tử lo rầu không chấm dứt, cứ bị qua lại trong năm đường, không bao giờ giải thoát được.  Người hiền đức có trí huệ, nhàm chán cảnh lo rầu; nếu gặp được minh sư thì tôn thờ học hỏi, không đủ duyên gần gũi thầy hiền thì lúc nào cũng phải nhớ lời thầy đã dạy.  Rồi đem những lời ấy chỉ dạy cho kẻ khác bỏ ác tu thiện, vạch ra con đường độ đời.  Cha mẹ dù có dưỡng dục, chịu cảnh già bịnh, chết, cũng chỉ một đời mà thôi.  Chư Phật độ đời, muôn kiếp không cùng tận.  Người hiền kẻ trí phải nên suy nghĩ chính chắn.

(Trích kinh Phân Biệt Thiện Ác Sở Khởi, túc 6, tờ 82, bên mặt).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Nê-lê   :  Naraka  dịch là địa ngục.

 

 

  1. Thờ Phật có ba hạng:

 

            Có ba hạng người thờ Phật :  một là đệ tử của ma thờ Phật; hai là nhân thiên thờ Phật; ba là đệ tử Phật thờ Phật.  Sao gọi là đệ tử ma thờ Phật ?  Đức Phật nói :  Tuy thọ giới pháp của Phật, nhưng tâm thường thích nghiệp tà; tin có tà ma xuất nhập, không tin chánh chân; không biết đối phó khi gây tội ác, mượn danh thờ Phật, thường cùng tà giáo hành động, chết phải đọa vào địa ngục vô trạch, chịu khổ nhiều đời; từ địa ngục ra đi đầu thai làm quyền thuộc tà ma, dua nịnh yêu mị, khó có thể độ cho họ giải thoát.  Những hạng người ấy, đời trước nhờ có chút phước dư, tạm được một thời gian nào đó thấy được chánh đạo, nhưng tâm ý mờ mịt khó mà lãnh hội giáo lý; nên ưa thích đường ma, trở lại con đường tà kiến, mãi mãi không dứt.  Ấy gọi là đệ tử ma thờ Phật.

            Thế nào gọi là nhơn thiên thờ Phật ?  Họ thọ trì năm giới, thật hành phương pháp thập thiện, đến chết không bao giờ úy phạm.  Lúc nào họ cũng tin có tội phước, hể gieo nhân nào thì hưởng quả nấy; sau khi mạng chung, thần thức liền sanh các cõi trời.  Ấy là vị nhơn thiên thờ Phật.

            Thế nào gọi là đệ tử của Phật thờ Phật ?  Các vĩ nầy phụng trì chánh giới, học rộng kinh luật, chuyên tâm tu trì thượng huệ.  Biết khổ trong ba cõi, tâm không bao giờ đắm trước, lúc nào họ cũng cầu đường giải thoát, hằng ngày thật hành tứ vô lượng tâm và phương pháp lục độ; thương xót chúng sinh, muốn cứu giúp tất cả muôn loài, không ham tiếc thân mạng, biết là chết  có đầu sinh, cầu lợi ích phước đức lâu dài, không bị tà nghiệp lôi cuốn.  Ấy là đệ tử Phật thờ Phật.

(Trích kinh Phân Biệt  :   Vibhajya sùtra, túc 8,tờ 45, bên trái).

 

Mục   III   -   Quy Y Pháp

 

  1. Dùng Pháp cúng dường:

 

            Các vị Đại Bồ Tát tu hành trí huệ đến bờ bên kia, đối với chánh pháp cũng đã thấu triệt.  Do đó, nên các Ngài dùng Pháp cúng dường Như Lai, đem các công đức tu hành cúng dường Như Lai, như thật tu hành cúng dường Như Lai, làm lợi ích an lạc cho tất cả chúng sinh, gìn giữ ủng hộ tất cả pháp lành cho chúng sinh, khéo hay giáo hóa tùy thuận chúng sinh, thật hành đường lối của Bồ Tát, lời nói cùng việc làm không bao giờ chống trái nhau; thân tâm làm việc đạo không biết mõi mệt, cầu đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.  Làm được như thế mới được gọi là cúng dường chư Phật, không phải chỉ dùng phẩm vật tư sanh mà gọi là cúng dường tối thắng.  Vì sao ?  Bởi vì pháp là thân Phật; nếu cúng dường pháp tức là cúng dường Phật.  Các đức Phật Thế-Tôn đều nhờ như thật tu hành mà đến, đều vì lợi ích an lạc cho chúng sanh.  Các Ngài hộ các thiện pháp kia, luôn luôn tùy thuận chúng sinh.  Nếu không như thế trái hẳn bổn nguyện, giải đải, trốn tránh nhiệm vụ không thể nào thành tựu tâm Bồ đề……

(Trích kinh Thắng Thiên Vương Bát Nhã, quyển thứ hai, phẩm Niệm Xứ, nguyệt 8, tờ 69, bên mặt).

 

  1. Phật là cha, Pháp là mẹ:

 

            Tội ác còn có cha mẹ :  si mê là ác cha, ái dục là ác mẹ.  Phước thiện cũng có cha mẹ : 37 phẩm trợ dạo (1) trong kinh là thiện cha, sáu pháp ba la mật là thiện mẹ.  Lại còn có một hạng cha mẹ đặc biệt nữa : Phật là cha, Pháp là mẹ.  Y theo lời Phật dạy, xét theo chánh pháp mà hành.  Ấy là cha mẹ thật hành….

(Trích kinh Mạ Ý, túc 8, tờ 9, bên mặt).

LƯỢC GIẢI:

 

  1. 37 phẩm trợ đạo  :  4 niệm xứ, 4 chánh cần, 4 như ý túc, 5 căn, 5 lực, 7 giác chi và 8 chánh đạo.  Gọi chung là 37 phẩm trợ đạo.  Đây là hành trình đến nơi hoàn toàn giác ngộ.

 

 

  1. Thế nào gọi là Phật pháp:

 

            Pháp vị cam lồ gọi là Phật pháp.  Pháp an ẩn gọi là Phật pháp.  Pháp không hí luận (1) gọi là Phật pháp.  Pháp không quá ác gọi là Phật pháp.  Pháp không kiết sử (2) gọi là Phật pháp.  Phương pháp xuất yếu (3) gọi là Phật pháp.  Pháp vô bố úy gọi là Phật pháp.  Pháp không phân biệt gọi là Phật pháp.  Pháp không chấp tự tha gọi là Phật pháp.  Pháp không chê bai gọi là Phật pháp.  Pháp làm nhà cửa, làm nơi nương về, làm chỗ châu quận, làm việc thủ hộ gọi là Phật pháp.  Pháp điều phục tịch tịnh gọi là Phật pháp.  Pháp tự tịnh vô cấu, chiếu minh gọi là Phật pháp.  Pháp chánh hướng chánh thú gọi là Phật pháp.  Pháp khéo điều phục không có các vọng tưởng, gọi là Phật pháp.  Pháp khéo giáo hóa khéo hướng đạo tùy nghi độ đời gọi là Phật pháp.  Pháp tự thuyết, thuyết tha gọi là Phật pháp.  Phương pháp đúng phép điều phục các ngoại đạo gọi là Phật pháp.  Pháp hàng phục các ma chướng gọi là Phật pháp.  Phương pháp đoạn vòng sinh tử gọi là Phật pháp.  Pháp chánh niệm gọi là Phật pháp.  Trụ nơi pháp niệm xứ (4) pháp chánh đoạn (5) gọi là Phật pháp.  Nhờ pháp thần túc (6) đoạn các nghiệp ác, gọi là Phật pháp.  Nhờ các căn (7) quán thân tâm nhẹ nhàng gọi là Phật pháp, vì tin đứng đầu.  Pháp ngũ lục (8) gọi là Phật pháp, vì không thể chiếc phục.  Các pháp giác (9) gọi là Phật pháp vì thứ lớp giác ngộ.  Pháp chánh đạo (10) gọi là Phật pháp, vì chánh lưu nhập.  Pháp tam muội gọi là Phật pháp, vì cứu kính tịch tịnh.  Pháp trí huệ gọi là Phật pháp, vì quán xuyến các pháp thánh giải thoát.  Pháp chân đế gọi là Phật pháp, vì không giận tức.  Các pháp biện (11) gọi là Phật pháp, vì pháp, từ và nghĩa, cũng như lạc thuyết không ngăn ngại.  Hiểu rõ pháp vô thường (12), khổ, vô ngã gọi là Phật pháp, vì nó phá chấp tất cả các pháp hữu vi.  Pháp không gọi là Phật pháp vì nó hàng phục tất cả các ngoại đạo.  Pháp tịch tịnh gọi là Phật pháp, vì nó đưa đến cảnh giới Niết-Bàn.

            Pháp Ba La Mật gọi là Phật pháp, vì nó đưa đến bờ bên kia.  Pháp phương tiện gọi là Phật pháp, vì nhiếp thủ việc lành.  Pháp từ (13) gọi là Phật pháp, vì không lối về trí.  Pháp bi gọi là Phật pháp, vì không bức thiết.  Pháp hỷ gọi là Phật pháp, vì diệt sự hý luận.  Pháp xã gọi là Phật pháp, vì chỗ làm xong.  Pháp thiện gọi là Phật pháp, vì diệt được tâm kiêu mạn.  Pháp không đoạn ngôi Tam Bảo gọi là Phật pháp, vì phát tâm bồ đề.  Tất cả pháp an lạc không khổ não gọi là Phật pháp, vì không cầu các hữu vi….

(Trích kinh Đại Phương Quảng Bữu Hiệp, quyễn trung, vũ 10, tờ 48, bên trái).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Không hí luận  :  hí luận là những luận lý hư vọng không thật.
  2. Kiết sử  :  tên khác của phiền não, ràng buộc thân tâm, sai sứ tâm thân vậy.
  3. Xuất yếu  :  con đường thiết yếu để xuất ly sinh tử vậy.
  4. Niệm xứ  :  Bốn niệm xứ, quán thân, quán tâm, quán thọ và quán pháp ….
  5. Chánh đoạn  :  Tứ chánh đoan…
  6. Thần túc  :  Tứ thần túc.
  7. Các căn  :  pháp ngũ căn  :  tín, tấn, niệm, định và huệ.
  8. Ngũ lực  :  năm sức mạnh thúc đẩy ngũ căn.
  9. Pháp giác  :  Pháp thất giác chi.
  10. Chánh đạo  :  pháp bát chánh đạo, tóm xưng 37 phẩm trợ đạo.
  11. Các pháp biện  :  bốn vô ngại biện tài, pháp, từ, nghĩa và lạc thuyết biện tài, tự tại, vô ngại vậy.
  12. Vô thường, khổ, vô ngã  :  các hạnh vô thường, tất cả đều khổ, các pháp vô ngã.  Gọi là ba pháp ẩn, tiêu chuẩn Phật pháp phân biệt với ngoại đạo.  Ngoài ra thêm Niết-bàn tịch tịnh.  Gọi là 4 pháp ấn.
  13. Pháp từ, pháp bi, pháp hỷ, pháp xã:  bốn pháp nầy gọi là tứ vô lượng tâm.  Xả bản xưa dịch là hộ, xưng là tứ đẳng……

 

 

  1. Pháp thế gian khó tin:

 

            Nầy Xá Lợi Phất, các thiện nam cùng thiện nữ  !  Nếu ai có tin, cần phải phát nguyện, nguyện sinh về nước cực lạc kia.  Xá Lợi Phất !  như ta nay khen ngợi công đức khó nghĩ bàn của chư Phật; các đức Phật kia cũng xưng tôn công đức không thể nghĩ bàn của ta, nói lời như thế nầy :  “Phật Thích Ca Mâu Ni hay làm các việc rất khó, ít có; thướng ở trong thế giới Ta Bà, đời ác năm trược.  Ấy là kiếp trước (1) kiến trược (2) phiền não trược (3), chúng sinh trược (4), và mạng trược (5) chứng đặng quả vị Vô Thưọng Chánh Đẳng Chánh Giác, vì tất cả chúng sinh  nói pháp khó tin trong thế gian”.  Nầy Xá Lợi Phất  !  ta sống trong đời dữ năm trược, làm các việc rất khó nầy, chứng đặng bậc Vô Thượng Chánh Biến Tri, vì tất cả chúng sinh trong thế gian, nói pháp khó tin nầy.  Thật là rất khó…..

(Trích kinh A-Di-Đà  :  Amitabhasutra, địa 10, tờ 73, bên mặt).

 

LƯỢC GIẢI

 

  1. Kiếp trược  :  đời ác trược nghĩa là thời thiên tai, địa biến v.v…tương tục phát khởi.
  2. Kiến trược  :  do các ác kiến, tà kiến đua nhau phát khởi.
  3. Phiền não trược  :  tức là thân tâm bị vọng động.
  4. Chúng sinh trược  :  tức là các ac nghịch chúng sinh tăng thịnh.
  5. Mạng trược  :  mạng người giảm dần dần không trường thọ.y

 

 

Mục  IV   -   Quy Y Tăng

 

  1. Cúng dường tỳ-kheo :

 

            Đức Phật nói  :  Nếu các tỳ-kheo, y theo giáo pháp của Phật xuất gia; tất cả trời, người, a-tu-la đều phải nên tứ sự cúng dường.”

(Trích kinh Địa Tạng Thập Luận).

 

  1. Tượng Vương Xả thân cho người mặc Pháp y :

 

            Nầy các thiện nam ! thuở đời quá khú có vị quốc vương ở nước Ca-Xà (1), tên là Phạm Thọ (2), sắc chỉ vị Chiên Trà-La (3) : “Có đại tượng vương, tên là Thanh Liên Mục, đầy đủ sáu ngà, ở bên cạn núi Tuyết, ông nên đến đó nhổ lấy các ngà voi mang về !  Nếu trái mệnh lệnh, gia đình ông năm người, quyết định không thể sống còn.”  Lúc bấy giờ Chiên Trà La, vì bảo vệ thân mạng, tay cầm cung tên; mặc áo cà sa đỏ, đối diện hình tượng oai nghi của vị Sa Môn; trực chỉ khu rừng nằm bên cạnh núi Tuyết, đến thẳng chỗ tượng vương.  Lúc ấy voi mẹ nhìn thấy vị Sa Môn giả dạng, xa xa đi đến tay cầm cung tên, sợ hãi ruỗi chạy đến vị tượng vương nói rằng : “Đại tượng vương ! tôi vừa thấy có người đang cầm cung tên đi đến, trương cung muốn bắn vào, chúng ta hãy toan tính gấp, kẻo tính mạng chẳng còn.”  Tượng vương nghe rồi, liếc thấy một vị Sa Môn không râu tóc, mặc áo cà sa đỏ, liền nói với mẹ voi rằng :

 

“Người mặc áo Cà-Sa (4),

Tướng pháp tràng (5) của Phật.

Xem đó, lìa các ác;

Quyết không hại chúng sinh”.

            Lúc ấy mẹ voi dùng bài tụng đáp rằng:

“Tuy biết mặc pháp phục,

Nhưng tay cầm cung tên;

Là Chiên Trà La ác,

Chắc không có lòng từ”.

            Lập tức Đại tượng vương nói:

“Hởi ai nhìn tướng Cà-Sa,

Biết là gốc đạo chan hòa từ-bi;

Giờ đây ta phải quy y,

Xót thương sinh chúng viễn ly hồng trần.

Xin người chớ có nghỉ phần !

Phải nên hỷ xã đừng gần ác tâm !

Những ai mặc áo thiền lâm,

Độ người qua khỏi biển trầm tử sinh”.

            Khi ấy vị Chiên Trà La liền dùng tên độc, truơng cung bắn vào. Trúng trái tim của tượng vương.  Mẹ voi nhìn thấy thất thanh la hoảng, khóc lóc, sợ hãi, kêu trời trách đất, than thở rằng:

            “Kẻ mặc y phục từ bi,

            Phải nên theo Phật quy y mới là;

Uy nghi tịch tịnh vậy mà,

Ôm lòng ác độc như ma ba tuần !

Đành tâm sát hại, thương luân,

Khiến kia thân mạng dứt phần lục căn;

Oan nầy phải trả thật hăng,

Tượng vương thân mạng sắp băng cảnh trần”.

           Mặc dù giờ phút hết sức khổ đau, Tượng vương vẫn gắng gượng khuyên nhủ:

“Thà chóng xả thân mạng,

Không nên sinh tâm ác;

Kia tuy ôm lòng dối,

Cũng giống đệ tử Phật.

Người trí không vì mạng,

Phải giữ tâm thanh tịnh;

Vì độ các hữu tình,

Thường tập hạnh Bồ-đề”.

            Lúc bấy giờ Đại tương vương sinh tâm bi mẫn, hỏi người kia rằng : “Ông cần vật gì?”-  Vị Chiên Trà La đáp : “Tôi cần dùng các ngà của nhà ngươi”.  Tượng vương hoan hỷ, liền tự nhổ ngà trao cho vị Chiên Trà La và kệ rằng:

            “Ta dùng ngà trắng thí cho ông,

Không giận không oán tâm như không;

Nguyện đem phước nầy sau thành Phật,

Diệt trừ khổ bịnh, chúng sinh mong !”.

            Các thiện nam ! phải quán sát Tượng Vương đời quá khứ như thế, mặc dù thọ thân làm bàng sinh (6) nặng nề, vì cầu đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mà xả bỏ thân mạng không hối tiếc.  Cung kính tôn trọng người mặc áo Cà-Sa; mặc dù kia là kẻ oán, thế mà không trách không hận cũng không lưu tâm báo thù.

(Trích kinh Địa Tạng Thập Luận, quyển thứ tư, phẩm Vô Ý Hành, huyền 7, tờ 17, bên trái).

 

LƯỢC GIẢI :

 

  1. Nước Ca Xà  : Kasi, tên địa phương Ấn-Độ
  2. Phạm thọ  :  Brahmadatta dịch ý của Phạn ngữ.  Tên cổ vương trong kinh Bổn sinh.
  3. Chiên Trà La  :  Candala, giòng tôi hạ tiện ở Ấn Độ, hành theo nghiệp đồ tể, giết súc vật.
  4. Cà Sa  :  Kasàya, pháp y của Phật giáo để các sư mặc tu hành.
  5. Tướng pháp tràng :  Ca-sa là tướng pháp tràng giải thoát của chư Phật, tức là biểu thị mục tiêu giải thoát vậy.
  6. Bàng sinh :  tức là súc sinh, vì nó đi ngang, nên gọi là bàng sanh vậy.

 

 

Mục   V   -   Tín Tâm

 

  1. Lòng tin qua được sông mê :

 

Muốn thấy các chân thật,

Phải nghe giảng chánh pháp;

Hay xả trừ tham nhơ,

Ấy gọi là chánh tín.

Tin qua được sông mê,

Phước kia khó nghĩ lường.

(Trích kinh Xuất Diệu  :  Avadànasùtra, phẩmTín thứ 12, tạng 5, tờ 94, bên mặt).

 

  1. Đức tín cũng như lầu đài :

 

            Cũng như bên thành của nhà Vua, xây dựng lầu đài, địa điểm kiến trúc rất là kiên cố, không thể nào phá hoại; làm chỗ cho bên trong cư trú, làm nơi chế ngự, ngăn ngừa quan giặc bên ngoài.  Cũng như thế là đệ tử Phật phải có lòng tin kiên cố, tin sâu các đức Như Lai; gốc tin đã lập, không bao giờ theo Sa Môn phạm chí bên ngoài, hoặc là thiên ma, phạm vương cũng như thế gian khắc.  Đó gọi là đệ tử của Thánh nhơn đức tin vững như lầu đài, diệt trừ các ác nghiệp, thật hành các pháp lành vậy.

(Trích kinh Trung A Ham  :  Madhyamàgamasùtra, kinh Thành Dự thứ nhất, trắc 5, tờ 6, bên mặt).

  1. Tín là gốc đạo là mẹ công đức :

 

Tin là gốc đạo mẹ công đức,

Tăng trưởng tất cả các pháp lành;

Diệt trừ tất cả các nghi hoặc,

Thị hiện khai triển đạo vô thượng.

Tịnh tín ly cấu tâm kiên cố,

Diệt trừ kiêu mạn, tâm cung kín

Tin là kho báu pháp thứ nhất,

Là tay trong sạch thọ các hạnh.

Lòng tin hay lìa các nhiễm trước;

Tín giải vi diệu pháp thậm thâm.

Tin hay chuyển thắng thành các thiện,

Rốt ráo quyết đến chỗ Như Lai.

Thanh tịnh minh lợi các căn lành,

Sức tin kiên cố không thể hoại.

Tin hằng diệt trừ tất cả ác.

Tin hay đến được báu vô sư.

Tin nói pháp môn không chướng ngại,

Xả ly tám nạn (1) đặng không khó,

Tin hay vượt ra các cảnh ma,

Thị hiện đường vô thượng giải thoát,

Tất cả công đức không hoại diệt,

Xuất sanh cây bồ đề vô thượng.

Nuôi lớn tối thắng cửa trí huệ,

Tin hay thị hiện tất cả Phật,

Thế nên diễn nói thứ lớp hạnh,

Tin ưa tối thắng rất khó đặng;

Ví như hoa ưa đàm Linh Thoại (2),

Cũng như ngọc báu mầu tùy ý….

(Trích kinh Hoa Nghiêm  :   Avatamsakasùtra, phẩm Hiền Thủ Bồ Tát thứ 6, thiên 7,tờ 31, bên trái).

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Tám nạn  :  Không thấy Phật nghe Pháp bị 8 chỗ chướng nạn  :  Địa ngục, quỉ đói, súc sanh, bắc câu lư châu, trời Trường thọ, đui, điếc, ngọng, liệu, thông minh theo đời, sanh trước Phật sau Phật, chỗ không có Phật.
  2. Hoa ưa đàm  :  Udumdara dịch là hoa Linh Thoại, 3000 năm mới có một lần.

 

 

  1. Tin là gốc công đức:

 

            Nói về lòng tin, tất cả các hạnh lành do lòng tin chân chính đứng đầu, nó cũng là căn bản của các đức độ.

(Trích kinh Phạm Võng  :   Bràhmajàlasùtra, quyển thượng, lệ 1, tờ 3, bên mặt).

 

  1. Tin cùng giới:

 

            Vào trong biển Phật Pháp, lòng tin là căn bản.  Qua khỏi sông sinh tử, giới luật làm thuyền bè.

(Trích kinh Tâm Địa Quán, phẩm Yểm Xả thứ 4, vũ 2, tờ 60, bên mặt).

 

  1. Chỉ tin một pháp là báo ân Phật :

 

            Như Lai ứng đẳng Chánh giác, là vì tối thắng trong ba cõi, độ chúng sanh giải thoát con đường sinh tử, là bậc đại sư vô thượng.  Ân đức nầy khó trả; duy có một pháp có thể trả ơn Phật.  Nếu ai đối với Phật Pháp, tâm thâm tín không hoại lòng tin.  Gọi là báo ân Phật.  Đem thâm tín cúng dường, cũng đủ lợi ích cho mình.

(Trích kinh Chánh Pháp Niệm Xứ, quyển thứ 61, phẩm Quán Thiên, túc 4, tờ 25, bên mặt).

 

  1. Người có lòng tin không thiếu thốn :

 

            Tin là tối thượng thừa,

            Nhờ đó thành Chánh giác;

Thế nên tin các việc,

Người trí kính thân cận.

Tin là nhất thế gian.

Người tin không thiếu cùng;

Do đó, tin các pháp

Kẻ trí chánh thân cận.

Thiện nam tử không tin,

Khó sinh các pháp lành;

Cũng như hạt giống cháy,

Không thể sinh rễ, mầm.

(Trích kinh Đại Thừa Thập Pháp, địa 8, tờ 72, bên trái).

 

  1. Thành tín lìa 5 việc ác :

 

            Đại vương hỏi  : “Những gì gọi là thành tín ?” – Na Tiên nói : “Lòng thành tín giải quyết mối nghi của người.  Tín có Phật, tin kinh pháp, tin có tỳ-kheo tăng, tin có đạo của La Hớn; tin có đời nầy, tin có đời sau; tin hiếu với cha mẹ, tin làm lành được lành, tin gieo ác gặt ác; tin có thật về sau; tâm được thanh tịnh, xa lìa năm ác.  Những gì là năm :  Một là dâm dục,  hai là giận tức,  ba là thèm nằm, bốn là ca nhạc, năm là nghi ngờ.  Ai không bỏ năm ác nầy, tâm ý bất định.  Bỏ năm ác nầy, tâm thường thanh tịnh”.

            Tỳ-kheo Na Tiên nói : “Ví như Vua Giá Ca Việt (1), xe, ngựa, người tùy tùng lội qua sông làm nước đục, vua khát nước muốn có nước uống; vua có ngọc làm cho nước trong, ngọc ấy để vào nước, nước trở thành trong.  Vua có nước trong để uống”.  Na Tiên nói thêm : “Tâm người có 5 việc xấu, cũng như nước đục; các đệ tử Phật muốn qua khỏi con đường sinh tử, lòng người phải trong sạch, như ngọc châu bỏ vào nước.  Ai trừ được các ác, lòng thành tín trong sạch, cũng như ngọc châu sáng”.

            Đại vương nói rằng : “Lành thay, quí hóa thay”.

(Trích kinh Na Tiên Tỳ-kheo, quyển thượng, tạng 8, tờ 46, bên mặt và bên trái).

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Vua Giá Ca Việt  :  Cakravartiràja, dịch là vua chuyển luân, là vị hoàng đế thống nhất bốn châu thiên hạ vậy.

 

  1. Trực tâm là cõi tịnh của Bồ Tát:

 

            Tâm chân trực là tịnh độ của Bồ Tát;  Bồ Tát khi thành Phật, không theo chúng sinh, sanh đến nước kia.  Thâm tâm là tịnh độ của Bồ Tát.  Bồ Tát khi thành Phật đầy đủ công đức cho chúng sinh, sinh đến nước kia.

(Trích kinh Duy Ma Cật  :  Vimalakirti-nidesasùtra, phẩm Phật Quốc thứ nhất, huỳnh 7, tờ 15, bên mặt).

 

  1.   Lòng tin kiên cố của Bồ Tát :

 

            Đức Phật bảo Ngài A Nan : “Đại Bồ Tát khiến vô lượng, vô biên, vô số chúng sinh, tin có Phật tri kiến , tin Phật tri kiến rồi, không đắm trước sắc, không trụ trước thọ, tưởng, hành, thức.  Vì không đắm trước sắc, không trụ trước thọ, tưởng, hành, thức.  Các đại bồ tát ấy gọi là có lòng tin kiên cố”.

            “Lại nữa, nầy A-Nan !  đại Bồ Tát tin các đức Phật đã thuyết pháp đều là không tịch; tin đúng như thế.  Các đại Bồ Tát ấy, gọi là có lòng tin kiên cố”.

            “Lại nửa, A-Nan ! tin có trí Phật, liền nghĩ rằng : “Chúng ta cũng se thành tựu trí ấy, cũng không chấp trí ấy.  Thế nên, nầy A-Nan ! Đại Bồ Tát ấy, gọi là có lòng tin kiên cố”.

            “Lại nữa, nầy A-Nan ! Đại Bồ Tát nghĩ như thế nầy :  Như Phật, Thế-Tôn dùng pháp thí không thể nghĩ bàn hóa độ chúng sinh; chúng ta phải gắng học rồi dùng pháp thí không thể nghỉ bàn giúp muôn loài chúng sinh.  Đại Bồ Tát ấy, gọi là có lòng kiên cố”.

            “Lại nữa, A-Nan !  Đại Bồ Tát tâm sinh hoan hỷ; xả tất cả tài vật cho đến thân mạng vẫn đem bố thí, huống là các vật khác.  Tin tưởng thật hành bố thí như vậy, nhưng lòng không ỷ trước; khắp chốn cùng nơi, không sanh tâm sẻn tiếc; do nhân duyên ấy, hồi hướng đạo bồ đề, cũng không khỏi chấp có bồ đề.  Các đại Bồ Tát ấy, gọi là có lòng tin kiên cố”.

            “Lại nữa, nầy A-Nan !  đại Bồ Tát lòng tin trong sạch, không bao giờ khiếp nhược, đối với Phật, Pháp, Tăng, tâm thường thuần tịnh; gìn giữ sáu tình, không chỗ nào chúng mong muốn được, mà cũng không tin chúng sinh tính; đối với Phật, Pháp, Tăng sinh lòng tin kính; sau khi tin kính, tâm không bao giờ buông lung; phát tâm bồ đề, không đắm trước tướng của tâm; tin biết sáu cõi, khắp các thế giới v.v….Thế nào gọi là tin biết ? – Như nói thế giới nầy dùng các âm thanh, văn tự để mà diễn tả, đó là phương tiện đưa đến chân lý; tin hết các sự vật là vô thường, khổ, không, các pháp vô ngã, cũng tin thánh giới vô lậu, không phải là pháp hý luận, đủ các chánh định, tin tất cả chúng sinh có ngày diệt giới, tướng của chúng sanh cũng có ngày diệt tướng; dùng tâm không nương thấy chúng sinh tức là pháp giới; nhưng đối với pháp nầy, không chấp có pháp giới.  Vì sao ?  Bởi vì pháp giới tức là thế giới vô tâm của chúng sinh.  Đại Bồ Tát tin như thế, gọi là có lòng tin kiên cố”.

            “Tất cả chúng sanh không có trụ xứ.  Vì sao ?  Vì tự tánh vốn không; cũng lại không thấy hình tướng chúng sinh, nhận chân chúng sinh đồng có tướng Niết-bàn.  Vì sao thế ? – Vì ranh giới của chúng sinh vốn là không, thế nên liền thấy tướng ấy là Niết-bàn.  Nếu có ai hay tin các pháp như thế và khiến cho các chúng sinh tin được như thế.  Nầy A-Nan ! Đại Bồ Tát làm đưọc như thế, gọi là có lòng tin kiên cố”.

(Trích kinh Quảng Bác Nghiêm Tịnh Bất Thối Chuyển Luân, quyển thứ 2, dinh 3, tờ 4, bên trái và tờ 5 bên mặt).

 

  1.   Tin  hiểu Phật nói rất hy hữu :

 

            “Xá Lợi Phát !  Ví như có người lấy đá kết thành chiếc bè, từ bờ biển bên nầy sang bến giác bên kia, ý ông nghĩ sao ?  Việc ấy có hy hữu không ?”  -  “Rất là hy hữu, bạch Thế-Tôn !” – “Xá Lợi Phất !  Như Lai đã nói, tất cả các pháp, không sanh không diệt, không hình tướng, không hữu vi, làm cho người tin hiểu, thật là hy hữu”.

(Trích kinh Phật Tạng, quyển thượng, lệ 2, tờ 1, bên trái).

 

Mục  VI   -   Sám Hối

 

  1. Chí tâm sám hối :

 

“Tất cả biển nghiệp chướng,

Đều từ vọng tưởng sanh.

Nếu ai muốn sám hối,

Ngồi thẳng nghỉ thật tướng;

Các tội như sương mốc

Trời sáng hay tiêu trừ.

Thế nên phải chí tâm,

Sám hối sáu căn tình…”

(Trích kinh Quán Phổ Hiền Hạnh Pháp, dinh 4, tờ 73, bên mặt).

 

  1. Sám hối nghiệp ác :

 

“Xưa con đã tạo các nghiệp ác,

Đều bởi vô thỉ tham sân si,

Từ thân, miệng, ý, phát sinh ra,

Tất cả nay con xin sám hối”.

(Trích kinh Hoa Nghiêm  :   Avatamsakasùtra, phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, bài kệ thứ 40, Thiên 6, tờ 76, bên trái).

 

  1. Ở trong một pháp hai thứ không phạm :

 

            Ở trong giáo pháp của ta có hai hạng người không bị phạm tội :  một là bản tánh chuyên tinh, xưa nay không phạm tội; hai là phạm rồi biết hổ thẹn, bày tỏ tội lỗi ăn năn sám hối.  Hai hạng người nầy ở trong giáo pháp của ta.  Gọi là hạng người dõng mãnh thanh tịnh.

(Trích kinh Địa Tạng Thập Luận, quyển thứ 7, phẩm Sám Hối, huyền 7, tờ 30, bên trái).

 

Mục  VII   -  Cúng dường

 

  1. Phụ nữ nghèo thành tâm cúng một ngọn đèn :

 

 

            Một thuở nọ, đức Phật ở nước La Duyệt Kỳ (1), trong núi Kỳ Xà Quật (2).  Lúc ấy, vua A-Xà-Thế (3) thỉnh Phật, sau khi chứng trai đức Phật trở về Kỳ Hoàn.  Vua cùng với Kỳ-Bà (4) bàn luận; “ngày nay thỉnh Phật, ngài thụ trai xong, bây giờ ta phải làm gì thêm ?”  Ngài Kỳ-Bà tâu : “Chỉ có thắp lên nhiều ngọn đèn là việc cao quí vậy”.  Lúc bấy giờ nhà vua ra lệnh đem hàng trăm hộc dầu mè, thắp đèn thật sáng, từ cửa cung vua, cho đến tịnh xá Kỳ-Hoàn.

            Đồng thời có một bà cụ nghèo cùng, hết lòng thành kính, muốn cúng dường đức Phật thật nhiều nhưng không có tiền của; nghe nhà vua làm công đức ánh sáng, bà vô cùng cảm động; thân hành xin được hai đồng tiền, lập tức đến quán bán dầu, mua ít dầu về thắp đèn cúng Phật.  Chủ quán hỏi : “Bà cụ quá nghèo, chỉ xin được hai đồng tiền, tại sao không để mua đồ ăn?”  Bà lão đáp rằng :”Tôi nghe ai sanh ra được gặp Phật, thật là khó khăn, trăm kiếp mới được gặp một lần; tôi nay may mắn gặp đời có Phật, mà không được cúng dường, thực là vô phúc; hôm nay nghe thấy nhà vua tạo công đức vĩ đại, đồ sộ khó lường, cảm động đến tận đáy lòng tôi; mặc dù tôi thật là nghèo, không làm gì nhiều hơn, chỉ muốn thắp lên một ngọn đèn để hy vọng làm căn bản sáng suốt cho đời sau vậy”.  Lúc ấy, ông chủ quán bán dầu biết thâm ý của bà lão, cho thêm số dầu đáng giá hai đồng tiền, với hai muỗng dầu, đặc biệt ông cho thêm ba muỗng, cọng thành năm muỗng.

            Bà cụ hớn hở mang số dầu ấy đến trước đức Phật, thắp lên ngọn đền với tấm lòng chí thành chí thiết.  Bà tính số lượng dầu, chắc không đủ nữa đêm; mới tự phát nguyện rằng : “Nếu trong đời sau tôi đắc đạo như các đức Phật, số dầu nầy sẽ thắp sáng suốt đêm và yến sáng không dứt”.  Phát nguyện rồi làm lễ lui ra.

            Chỗ thắp đèn của nhà vua, hoặc có nơi tắt, hoặc có đoạn khô dầu, mặc dù có lính canh chừng, để ý từng phút từng giây.  Ngược lại một ngọn đèn của bà cụ đã đốt, yến sáng chối lòa, thắng diệu hơn các đèn khác, cháy đến sáng chưa tắt.  Yến sáng nhiệm mầu vô cùng tận.

            Đức Phật bảo tôn giả Mục Kiền Liên : “Giờ nầy đã sáng, nên tắt các ngọn đèn”.  Ngài Mục Liên vâng lời dạy, tuần tự tắt các đèn.  Các đèn đã được tắt, chỉ có đèn của bà cụ, ba lần quạt nhưng không tắt, ngài bèn lấy áo cà-sa để quạt mạnh, ánh sáng của đèn lại càng sáng thêm.  Phật bảo Mục Liên :”Thôi !  Đừng tắt ! Đây là công đức yến sáng của vị Phật tương lai, sức oai thần của ông không thể nào hoại diệt được”.

            Đại Vương nghe việc ấy hỏi Kỳ-Bà rằng : “Tôi làm phước đức đồ sộ như thế, nhưng đức Phật không cho tôi một quyết định (5); trái lại bà cụ chỉ thắp một ngọn đèn, mà được lãnh thọ các lời quyết định là nghĩa như thế nào?” Kỳ-Bà đáp:  “Đại vương ra lệnh đốt đèn tuy nhiều và loại dầu rất cao quí, nhưng vì không tận tâm chuyên nhất; không như bà cụ kia chú tâm nhất trí đối với đức Phật vậy.”

(Trích kinh A Xà Thế Vương Thọ Quyết, vũ 7, tờ 1, bên mặt).

 

LƯỢC GIẢI

 

  1. Nước La Duyệt Kỳ :  Răjagraha, thành Vương Xá.
  2. Núi Kỳ Xà Quật :  Gijjhakùta, Núi Linh Thứu…
  3. Vua  A-Xà-Thế   :  Ajàtasatru dịch là vị sinh oan.
  4. Kỳ-Bà   :   Jivaka.
  5. Quyết định  :   quả báo tương lai quyết định không hư dối…lời đoán trước.  Phật cho các người tu hành biết vậy.

 

 

  1. Bồ Tát bốn việc cúng dường Như Lai :

            Một hôm vua Hải Long hỏi đức Thế Tôn : “Nếu có người dùng hoa hương, tạp hương, chú hương, tàng lọng tràng phan, âm nhạc, y phục, ăn uống, đồ nằm, các thuốc men trị bịnh để cúng dường Như Lai, có nên cúng dường không?”  -  Phật trả lời : “Long Vương !  tùy theo trường hợp mỗi người được các loại nói trên; nhưng các loại cúng thí nầy chưa được rốt ráo.  Xa lìa các cấu trần, trồng sâu gốc đức cho đến giải thoát tâm niệm hiền thánh, không làm việc thất đức, không tu đến quả vị vô thượng.  Bồ Tát có bốn việc cúng dường Như Lai.  Những gì là bốn?  1.  Không bỏ đạo tâm, trồng sâu các cội đức.  2.  Mở rộng lòng thương, tập trung trí huệ cao thượng.  3.  Kiến lập đại tinh tấn để nghiêm tịnh cõi Phật và 4.  Thâm nhập pháp nhiệm mầu, tâm chứng được pháp vô sinh.  Ấy là bốn thứ tôn trọng Như Lai, là pháp cúng dường chư Phật vậy.

(Trích kinh Long Hai Vương, phẩm pháp cúng dường thứ 18, vũ 9, tờ 67, bên mặt).

 

  1. Nhân duyên vua Tịnh Phạn cúng Phật :

 

            Lúc bấy giờ vua Tịnh Phạn vì tôn giả Ưu Đà Di mà nói bài kệ rằng:

 

“Con ta bỏ nhà không ham vui,

Hoặc thiếu uống ăn hoặc thiếu nằm;

Cũng như hoa sen xanh tươi đẹp,

Để nó trên bờ sẽ bị khô…”

            Tôn giả Ưu Đà Di dùng bài kệ đáp rằng:

                                    “Như Lai thích sống các thần thông,

                                    Thường dùng thiền duyệt không đói khát;

                                    Bởi trụ tịch tịnh cảnh nhiệm mầu,

                                    Cũng như sen vàng thế cứng trong”.

            Lúc ấy Vua Tịnh Phạn lại nói kệ rằng:

                                    “Thái tử xưa ở tại hoàng cung,

                                    Trăm nghìn thể nữ thường vây quanh;

                                    Ngủ nghĩ thường nghe tiếng hát ca,

                                    Nương ở núi rừng có vui gì?”

            Tôn giả Ưu Đà Di dùng bài kệ đáp lại rằng:

                                    “Phật ở cảnh giới thắng giải thoát,

                                    Thâm tâm ý chí các thiền định;

                                    Trong oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi;

                                    Thường sinh hoan hỷ thường không khổ”.

            Lúc ấy Vua Tịnh Phạn lại nói bài kệ rằng :

                                    “Thái tử ngày xưa ở hoàng cung,

                                    Chăn êm nệm ấm muôn đồ đẹp;

                                    Trăm nghìn đèn đuốc thường sáng soi,

                                    Đêm về chưa từng biết có tối”.

            Tôn giả Ưu Đà Di dùng bài kệ rằng :

                                    “Mâu ni rộng tu hạnh thù thắng,

                                    Dùng bổn tâm lớn làm mền nệm;

                                    Tâm thường lợi lạc các hữu tình,

                                    Bất cứ cảnh nào không si độn”.

            Lúc ấy Vua Tịnh Phạn lại nói bài kệ rằng :

                                    “Xưa kia Thái tử ở thâm cung.

                                    Thọ dụng vui chơi nhiều khoái lạc;

                                    Hầu hạ hai bên thường nghinh đón,

                                    Riêng ở núi rừng có đặng chi?”

            Tôn giả Ưu Đà Di dùng bài kệ đáp rằng :

                                    “Như Lai sống trong cảnh thanh thắng,

                                    Thích ở những nơi hằng vắng lặng;

                                    Bình đẳng quan sát trong thế gian,

                                    Hằng được thiên long thường cung kính”.

            Lúc bấy giờ vua Tịnh Phạn lại nói bài kệ rằng :

                                    “Ngày xưa Thái tử ở cung vua,

                                    Tắm gội ăn chơi có kẻ hầu;

                                    Đồ xoa thượng hạng áp vào thân,

                                    Nương ở núi rừng đâu được gì?”

            Tôn giả Ưu Đà Di dùng bài kệ đáp lại rằng :

                                    “Mâu ni trì giới làm ao tắm,

                                    Thường rửa các ác sạch không nhơ;

                                    Hay giúp mình,  người đều trong sạch,

                                    Lìa các bụi nhơ lên bờ giác”.

            Khi ấy Vua Tịnh Phạn nói bài kệ rằng :

                                    “Thái tử đã mặc y thượng thặng,

                                    Kim tuyến trao dồi ngọc anh lạc;

                                    Chiên đàn hòa hợp hương hoa đẹp,

                                    Ở trong núi rừng đặng những gì?”

            Tôn giả Ưu Đa Di dùng bài kệ đáp rằng :

                                    “Mâu ni lấy thẹn làm thượng phục,

                                    Pháp giác phần, cũng như chuổi ngọc,

                                    Giữ giới thanh tịnh như xoa hương,

                                    Dùng nó trang nghiêm công đức thể”.

            Lúc bấy giờ vua Tịnh Phạn lại nói bài kệ rằng :

                                    “Chỗ ở Thái tử thưòng nghiêm cấm,

                                    Trăm nghìn dũng sĩ lo hộ vệ,

                                    Giữ gìn sức khỏe từng ly tí;

                                    Riêng ở núi rừng ai thủ hộ?”

            Tôn giả Ưu Đa Di dùng bài kệ đáp rằng :

                                    “Mâu ni đầy đủ mười sức trí                                         

                                    Với các sợ hãi tâm không động;

                                    Bóng từ che khắp các quần sinh,

                                    Sa môn pháp tử thường vây quanh”.

            Khi ấy Vua Tịnh Phạn lại nói bài kệ rằng :

                                    “Hay thay ! quí thay ! công đức Phật !

                                    Không lâu sẽ đến nghe pháp mầu.

                                    Nay xin trước thọ tôi cúng dường,

                                    Mang đem cơm thơm dâng Như Lai!”

(Trích kinh Phụ Tử Hiệp Tập, quyển thứ nhất, phẩm Tịnh Phạn Vương Mới Phát Tín Tâm, địa 10, tờ 16, bên trái).

 

  1. Tiêu diệt 7 nạn của quốc gia :

 

            Lại nữa, đại đức A-Nan, quán đảnh sát lợi vương v.v….(1), khi tai nạn phát khởi, như là :  nạn nhân dân bị bịnh dịch, nạn phương khác xâm lấn bức bách, nạn quốc nội phản nghịch, nạn tinh tú biến quái, nạn nhật thực nguyệt thực, nạn mưa gió phi thời và nạn quá thời hạn không mưa.  Lúc bấy giờ vua sát lợi quán đảnh nầy, phải cùng tất cả chúng sinh, khởi tâm từ mẫn, bỏ sự kiểm tỏa; y theo trước đã nói pháp thức cúng dường, cúng dường đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai kia.  Lúc bấy giờ vua Sát Lợi quán đảnh, dùng căn lành nầy, do đức Thế Tôn kia là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai có thắng nguyện xưa; cảnh giới nhà vua kia, liền được an ninh, mưa gió thuận thời, lúa mạ tốt tươi, cõi nước được giàu mạnh; chúng sinh trong cõi nước, không có đau ốm, yên vui thường sinh tâm hoan hỷ.  Ở trong cõi nước kia, cũng không có quỉ dạ xoa, la sát, tỳ xá xà v.v… các vị ác quỉ thần nhiễu loạn chúng sinh cũng không có; ngoài ra các ác tướng không bao giờ xuất hiện.  Vua Sát Lợi quán đỉnh kia, thọ mạng sắc lực đầy đủ, không có bịnh tự tại, đều được thêm nhiều lợi ích…

(Trích kinh Dược Sư Như Lai Bản Nguyện, huỳnh 4, tờ 86, bên trái).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Quán Đảnh Sát Lợi Vương  :  Quán đảnh :   Abhiseka, khi lên ngôi, dùng nước bốn biển lớn             rưới trên đầu, tờ ý tiêu biểu sự khánh chúc.

 

 

Mục   VIII   -   Tâm Bồ Đề

 

  1. Công đức của tâm bồ đề :

 

            Thiện nam tử :  Tâm bồ đề cũng như hạt giống hay sinh trưởng tất cả giáo pháp của chư Phật vậy.  Tâm bồ đề cũng như ruộng tốt; hay nuôi lớn pháp bạch tịnh cho chúng sinh.  Tâm bồ đề cũng như địa cầu; hay duy trì tất cả vật trong thế gian.  Tâm bồ đề cũng như nước lớn; hay rữa sạch tất cả phiền não cấu uế.  Tâm bồ đề cũng như gió lớn; đi khắp trong thế gian không chỗ nào ngăn ngại.  Tâm bồ đề cũng như lữa lớn; hay đốt tất cả các cũi chấp trước.  Tâm bồ đề cũng như mặt trời trong, soi khắp tất cả sự vật trong thế gian.  Tâm bồ đề cũng như mặt trăng tròn; chiếu soi trong mát các pháp bạch tịnh.  Tâm bồ đề cũng như đèn sáng hay tỏa ra các yến sáng chánh pháp.  Tâm bồ đề cũng như con mắt trong, thấy khắp tất cả chỗ nguy hiễm.  Tâm bồ đề cũng như con đường lớn; hay khiến được các thành đại trí.  Tâm bồ đề cũng như chánh tế; khiến chúng sinh lìa được các pháp tà. Tâm bồ đề cũng như xe lớn; chuyên chở cùng khắp các vị Bồ Tát.  Tâm bồ đề cũng như cửa ngỏ; mở mang tất cả hạnh Bồ Tát.  Tâm bồ đề cũng như cung điện; an trụ tu tập pháp tam muội.  Tâm bồ đề cũng như vườn tược; ở trong đó thọ lãnh các pháp an lạc.  Tâm bồ đề cũng như nhà cửa; an ổn tất cả các chúng sinh vậy.  Tâm bồ đề làm chỗ quy hướng; lợi lạc tất cả việc trong thế gian.  Tâm bồ đề làm chỗ nương tựa; các hạnh Bồ Tát đều nương theo đó.  Tâm bồ đề cũng như người cha nghiêm nghị; giáo huấn hướng dẫn các vị Bồ Tát.  Tâm bồ đề cũng như người me hiền; sinh trưởng các căn lành của Bồ Tát.  Tâm bồ đề cũng như nhũ mẫu; nuôi nắng, gìn giữ các Bồ Tát.  Tâm bồ đề cũng như bạn lành; thành tựu lợi ích tất cả các Bồ Tát.  Tâm bồ đề cũng nhu quân chủ; thù thắng hơn tất cả hàng nhị thừa.  Tâm bồ đề cũng như núi Thiết Vi (1); nhiếp trì tất cả các việc trong thế gian.  Tâm bồ đề cũng như núi tuyết lớn; trưởng dưỡng tất cả cây thuốc trí huệ.  Tâm bồ đề cũng như cây hương sơn; sản xuất tất cả công đức thơm tho.  Tâm bồ đề cũng như hư không; các công đức nhiệm mầu tỏa khắp rộng lớn vô biên.  Tâm bồ đề cũng như hoa sen; không bị nhiễm ô tất cả các pháp thế gian vậy……

(Trích kinh Hoa Nghiêm  :   Avatamsaka Sùtra, phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện thứ 35, thiên 6, tờ 58, bên mặt).

 

LƯỢC GIẢI :

                                                                                                            

  1. Núi Thiết Vi  :  Cakravàla.  Đây là triết thuyết nói về thế giới của Ấn Độ.  Dùng trung tâm thế giới là núi cao, gồm có 9 núi, 8 biển, thứ lớp thêm cao; núi có 9 lớp, trong mỗi núi kia có biển; núi Thiết Vi chính là núi cao nhất trong 9 quả núi đó.

 

  1. Thù Thắng của tâm bồ đề:

 

            Các thiện nam !  Tâm bồ đề được thành tựu công đức tối thắng vô lượng vô biên như thế.  Tóm lại, phải biết tâm ấy hòa đồng tất cả công đức trong Phật pháp v.v… Vì sao thế ?  Bởi vì tâm bồ đề sinh ra tất cả hạnh luân của Bồ Tát, ba đời, mười phương tất cả Như Lai cũng đều từ tâm bồ đề mà xuất sanh.  Vì thế, nên các thiện nam !  Nếu có ai hay phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thì sẽ sanh ra vô lượng công đức, nhiếp thủ con đường “Nhất thiết trí”.

(Trích kinh Hoa Nghiêm, phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện thứ 35, thiên 6, tờ 59, bên mặt).

 

  1. Ngọn đèn của tâm bồ đề:

 

            Các thiện nam !   Ví như một ngọn đèn, thắp ra thành trăm nghìn ngọn; gốc kia chỉ một ngọn đèn, không giảm, không hết.  Đại Bồ Tát tâm đang của các ngài cũng lại như thế : đốt khắp đèn trí của chư Phật trong ba cõi, nhưng tâm đăng kia không giảm không diệt.  Các thiện nam ! Ví như mang một ngọn đèn vào nhà tối trăm nghìn năm, tự nhiên bóng tối tiêu tan; phát khởi yến sáng khắp soi tất cả.  Đèn tâm bồ đề của các vị đại Bồ Tát cũng lại như thế, khi chiếu vào tâm vô minh hắc ám của chúng sinh, sẽ dứt tất cả các nghiệp (1) phiền não, các thứ chướng ngại từ vô lượng trăm nghìn muôn ức kiếp không thể nói đã tích tụ, phát sinh tất cả ánh sánh đại trí tuệ.

(Trích kinh Hoa Nghiêm  :  Avatamsakasutra, phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện thứ 36, thiên 6, tờ 61, bên mặt).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Nghiệp, phiền não :  nghiệp Karma có nghĩa là tạo tác.   Phiền não : Klesa là tác dụng mê hoặc về tinh thần vậy.  Do phiền não mà có nghiệp mê hoặc thân, khẩu, ý vậy.

 

  1. Oai lực của tâm bồ đề :

 

            Các thiện nam !  cũng như khi con sư tử chúa rống lên, các sư tử con nghe qua lòng thêm hăng hái mạnh mẽ; các loài thú khác nghe đến huyết mạch tiêu hao, tức thời nép phục !  Đức Phật cũng như sư tử chúa, tiếng thuyết pháp bồ đề đi vào nhất thiết trí, chúng ta phải biết cũng lại như trên :  Các vị Bồ Tát nghe qua trưởng dưỡng pháp thân, nuôi lớn công đức, bao nhiêu tà chấp chúng sinh khác, nghe qua đều thối tán, cũng như băng giá gặp mặt trời nóng.  Các thiện nam !  ví như có người, dùng gân sư tử để làm dây đàn; tiếng của nó rất là tiết tấu, các loại dây khác khó mà sánh kiệp.  Đại Bồ Tát cũng lại như thế, lấy Như Lai thân sư tử ba la mật, tâm gân bồ đề làm giây pháp nhạc; âm thanh nó hết sức siêu việt, tất cả ngũ dục nhẫn đến các dây công đức của hàng nhị thừa, thảy đều đoạn diệt.

            Các thiện nam !  Ví như có người dùng các loại sữa trâu, dê v.v… chứa đầy trong biển lớn; khi ấy lấy một giọt sữa sư tử gieo vào trong ấy, các loại sữa kia, nhất thời biến loạn.  Đại Bồ Tát cũng lại như thế : dùng sữa tâm bồ đề của Như Lai sư tử, rưới trong nghiệp phiền não từ vô thỉ, trực chỉ không ngăn ngại, thảy đều hoại diệt, trọn không trụ nơi giải thoát của Nhị Thừa.

            Các thiện nam !  Ví như loại chim ca lăn tần già (1) trong núi tuyết, khi còn nằm trong võ trứng vẫi có thể lực lớn; tất cả các loài chim, không có loài nào bì kịp.  Đại Bồ Tát cũng lại như thế :  Ở trong vỏ sinh tử; phát tâm bồ đề đã có công đức thế lực đại bi, hàng Thinh Văn (2), Độc Giác (3) không thể nào bì kịp…

(Trích kinh Hoa Nghiêm, phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện thứ 36, thiên 6, tờ 61, bên mặt).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Ca Lăn Tần Gìa  :  Kalarinka dịch là loài chim có tiếng hót lảnh lót nhất.
  2. Thanh Văn  :  Sravaka, dịch ý là những người nghe Phật nói Pháp mà ngộ đạo.
  3. Độc Giác  : Phật Bích Chi  :  Pratyeka-Buddha, không ai chỉ dạy, tự mình giác ngộ một mình, quán pháp sinh diệt, quán cây rơi lá rụng ngộ đạo.

 

  1. Phát tâm rất khó :

 

            A-Dật-Đa (1) ! Phải biết tất cả công đức của chư Phật, đều ở trong tâm ban đầu phát khởi điều phục.  Thế nên Bồ Tát trong thế gian rất là khó gặp, đức Phật cũng thật khó gặp.  Nầy A-Dật-Đa !  Ví như không có trâu bò thì không có đề hồ; cũng như vậy nếu có người phát tâm Bồ Tát thì hạt giống Phật không bao giờ dứt.  A-Dật-Đa ! Ví như có hạt giống thì có hoa thật, cũng thế, nếu có phát tâm Bồ Tát thì giống Phật không dứt.  Vì thế, nên biết phát tâm rất là khó; vì phát tâm quá khó, nên quả Phật cũng khó đặng.

(Trích kinh Hoa Thủ, phẩm Phát Tâm thứ 11, vũ 5, tờ thứ 12, bên mặt).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. A-Dật-Đa  :  Ajita dịch là Vô Năng Thắng, hiệu của Bồ Tát Di-Lặc.

 

  1. Làm Phật ở trong sơ tâm :

 

Đèn Phật ở trong đời,

Muôn ức kiếp khó gặp;

Như hoa ưu đàm bát,

Ba nghìn năm mới nở.

Phát tâm bồ đề sâu,

Người thật hành Phật đạo;

Đại Bồ Tát như thế,

Thế gian thật khó gặp.

Thế nên nếu có người,

Hay phát đại tâm nầy;

Người ấy sẽ làm Phật,

Trong chúng, như sư tử.

Sư tử rống tự tại,

Hay chuyển bánh xe pháp;

Thần thông Phật vô ngại,

Đều ở trong sơ tâm.

 

  1. Tâm Bồ Tát lìa năm sự sợ hãi :

 

            Lúc bấy giờ Di Lặc Bồ Tát, lại bảo Thiện Tài đồng tử rằng : “Các thiện nam ! ví như có người đặng thuốc vô úy xa lìa năm sợ hãi .  Những gì là năm ?  1.  Lữa không thể cháy.  2.  Độc không thể trúng.  3.  Dao không thể chém.  4.  Nước không thể trôi.  5.  Khói không thể xông.  Đại Bồ Tát cũng lại như thế, đặng “nhất thiết trí”, tâm thuốc bồ đề, lìa năm sự sợ hãi.  Những gì là năm ?  1.  Không bị tất cả lửa ba độc đốt.  2.  Không trúng độc ngũ dục.  3.  Không bị thương bởi dao mê hoặc.  4.  Không bị trôi nổi các cõi (1).  5.  Không bị huân hại các khói giác quán (2).

(Trích kinh Hoa Nghiêm, phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện thứ 36, thiên 6, tờ 59, bên trái).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Các cõi  :  cõi có nghĩa cảnh giới.  Đây có ba cảnh là cảnh dục, cảnh sắc và cảnh vô sắc.  Vì ở cõi mê gọi đó như giòng sông.  Qua đó tức là bờ Niết-Bàn bên kia vậy.
  2. Giác quán  :  bản mới dịch là tâm tư.  Suy nghĩ thường là giác, suy nghĩ kỹ là quán….

 

 

  1. Phát tâm đại thừa không phân biệt nam nữ :

 

            Các thiện nam ! người phát tâm đại thừa, không thấy nam nữ có sự sai khác.  Vì sao ?  Bởi vì tâm của người giác ngộ hoàn toàn, không ở trong ba cõi, nơi có phân biệt,có nam có nữ.

(Trích kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, quyển thượng, huỳnh 7, tờ 5, bên trái).

 

  1. Đạo tâm không nam nữ :

 

            Hiền giả Đại Ca Diếp nói : “Nữ nhơn cùng các phu nhân thật khó chứng đặng quả vị Vô Thượng Chánh Giác; không thể dùng nữ thân đặng thành Phật đạo”.  Bà Bửu Cẩm thưa Ngài Đại Ca Diếp rằng : “Tâm chí vốn thanh tịnh, người hành hạnh Bồ Tát sẽ thành Phật không khó.  Các người kia phát tâm đạo, thành Phật cũng như xem bàn tay.  Vừa mới phát tâm thông huệ thì liền nhiếp thủ tất cả Phật pháp”.  Bà lại thưa thêm với ngài Đại Ca Diếp rằng : “Lại như có chỗ đã nói : “Không thể dùng thân nữ đặng thành Phật đạo; thân nam tử cũng không thể được.  Vì sao ? Vì đạo tâm kia, không có nam không có nữ”.

(Trích kinh Hải Long Vương, phẩm nữ Bửu Cẩm Thọ, quyển thứ 14, vũ 9, tờ 64, bên mặt).

 

  1. Phá hoại tâm Bồ Tát thì đoạn diệt tất cả Phật pháp :

 

            Phát khởi tội ngũ vô gián (1), còn không thể phá hoại Phật pháp; nếu người ngào hủy hoại tâm Bồ Tát thì là đoạn diệt tất cả Phật pháp.  Nầy Xá Lợi Phất !  Ví như giết trâu bò thì là đã hoại diệt sữa tươi và sữa đặc….

(Trích kinh Hoa Thủ, phẩm Hoại Diệt thứ 26, vũ 5, tờ 46, bên mặt).

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Tội ngũ vô gián : Năm thứ tội dọa vào vô gián địa ngục  : tức là giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, phá hoại hợp tăng và làm cho thân Phật ra máu vậy.

 

  1.  Ba việc hiệu nghiệm của tâm Bồ Tát :

 

              Đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất : “Phải dùng ba việc của tâm Bồ Tát.  Những gì là ba ?  Một là hay xả tất cả vật sở hữu, nhưng không hy vọng quả báo; phải biết ấy là tâm chân thật của Bồ Tát.  Hai  là cầu pháp không có tham lẫn, thà mất thân mạng, nhưng không bỏ chánh pháp; ấy gọi là tâm chân thật của Bồ Tát.  Ba là không chống trái pháp thậm thâm, đem sức tín giải đối với Phật bồ đề, không sanh lòng nghi hoặc; ấy gọi là tâm chân thật của Bồ tát.  Dùng ba tâm nầy nghiệm xét các Bồ Tát”.

              “Lại nữa Xá Lợi Phất ! Lại có ba việc suy nghiệm tâm Bồ Tát, những gì là ba ? thường thường siêng năng tinh tấn, cầu pháp không mõi mệt.  Gọi là kinh tạng Đại Thừa Bồ Tát, nhờ kinh tạng ấy, tự tăng trưởng căn lành; cũng hay tăng trưởng căn lành chúng sinh.  Thường theo các vị pháp sư, cung kính cúng dường; nếu quá nghìn năm mới có thể được nghe tuơng ưng căn lành một bài kệ bốn câu, nghe rồi tùy thuận, không trái không nghịch, chẳng thối chẳng mất, theo dõi các vị pháp sư, gia tăng sự cung kính.  Thường tự trách lỗi của mình, ta vì đời trước bị tội cản ngăn sự truyền bá chánh pháp, không được nghe chánh pháp, không phải lỗi của các vị pháp sư; nay phải gần gũi thuận theo chư vị pháp sư, nay ta tất cả chướng pháp tội nghiệp, thảy đều tiêu diệt.  Ấy cũng gọi là tâm chân thật của Bồ Tát.  Thế nên phải biết, các vị Đại Bồ Tát, tâm thâm kính cầu pháp, theo dõi pháp sư; thì hay thành tựu tất cả Phật pháp”.

(Trích kinh Hoa Thủ, phẫm Nghiêm Hạnh thứ 22, vũ 5, tờ 38, bên mặt).

 

  1.  Chánh nhơn tịnh nghiệp :

 

              Lúc bấy giờ đức Thế Tôn bảo bà Vi Đề Hy : “Bà nay có biết không ?  Phật A-DivĐà ở cách đây không xa lắm; bà nên khấm niệm, quán sát nước Cực Lạc kia những người đã thành tựu tịnh nghiệp.  Nay ta vì các ngươi nói rõ các thí dụ, cũng khiến cho tất cả phàm phu ở đời vị lai, những ai muốn tu tịnh nghiệp sẽ được vãng sanh về cõi nước cực lạc phương tây.  Người muốn sinh về cõi nước kia, phải thật hành đủ ba việc phước (1):  một là hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng thờ các vị sư trưởng, lòng từ không sát sinh, thật hành mười nghiệp thiện.  Hai là thọ trì tam quy, đầy đủ các giới pháp, oai nghi không kém thiếu.  Ba là phát tâm bồ đề, tin sâu vấn đề nhân quả, đọc tụng kinh điển đại thừa, khuyến tiến các người tu hành.  Ba việc như thế gọi là tịnh nghiệp (2).  Đức Phật bảo thêm bà Vi Đề Hy rằng : “Bà nay biết không ?  Ba tịnh nghiệp nầy chính là chánh nhân trong sạch của chư Phật trong ba đời :  quá khứ, hiện tại và vị lai vậy.

(Trích kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, địa 12, tờ 78, bên mặt).

 

LƯỢC GIẢI :

 

  1. Ba việc phước : có thể hoàn thành ba thứ hạnh nghiệp của phước đức.  Đây chia thành ba thứ  :  thế phước, giới phước và hạnh phước vậy.
  2. Tịnh nghiệp  :  nghiệp dịch từ chữ Karma, nhờ nghiệp nầy đưa đến quả của tương lai.  Tịnh nghiệp tức là những nghiệp thanh tịnh, nghiệp tối thắng vậy.

 

Mục   IX   -  Thiện Tri Thức

 

  1. Thiện tri thức là người toàn phạm hạnh :

 

              Lúc bấy giờ ngài A-Nan, bạch Thế Tôn rằng : “Thiện tri thức tức là những người bán (nửa) phạm hạnh vậy; người dẫn đem đến con đường thiện, cho tới vô vi”.  Đức Phật bảo ngài A-Nan : “chớ nghĩ như vậy ! nói thiện tri thức mà cho những người bán phạm hạnh là không được ! Vì sao thế ?  Luận về những bậc thiện tri thức, tức là những người toàn phạm hạnh, cùng chung theo việc lành, tiến mạnh con đường tốt.  Ta cũng nhờ thiện tri thức thành bậc Vô thượng chánh chơn đẳng chánh giác, để thành đạo quả, độ thoát tất cả chúng sinh, không thể tính kể, đều được ra khỏi con đường sinh, già, bịnh, chết.  Nhờ phương tiện nầy mà nhận chân được những ngườ thiện tri thức là các bậc toàn phạm hạnh vậy.

(Trích kinh Tăng Nhất A Hàm  :  Ekottaràgamasutra, phẩm cứu chúng sinh cư , thứ 44, trắc 3, tờ 8, bên mặt).

 

  1. Không gặp minh sư không biết đại đạo :

 

              Ví như bốn loài chuột : một là chuột trong phòng.  Hai là chuột trong nhà.  Ba là chuột nơi đồng nội.  Bốn là chuột ở nhà xí.  Chuột trong phòng không thể ở nơi đất liền.  Chuột ở đất liền không thể ở trong phòng.  Chuột ở đồngnội, không thể ở trong nhà người.  Chuột ở trong nhà người không thể ở nơi đồng nội.  Chuột ở nơi nhà xí, không thể ra khỏi nhà xí, mà cũng không biết trong kho lẫm có nhiều lúa gạo vậy.

              Người cũng có bốn hạng :  bốn hạng ấy là gì ?  Hạng thứ nhứt tâm đoan ý chánh, trì giới không phạm, muốn đặng A La Hớn (1).  Hạng người thứ hai trì giới tinh tấn, muốn được quả Phật Bích Chi (2).  Hạng thứ ba trì giới học vấn, phát trí huệ rõ chân lý, nguyện độ tất cả, muốn được Phật quả.  Hạng người thứ tư gá danh làm đệ tử, không chịu kính giữ minh giới, không muốn học vấn, tâm ý do dự vì sợ không đắc đạo vậy.

              Học vấn mà không gặp được minh sư, đâu biết trong thiên hạ có đại đạo.  Cõi thuyền qua các ao suối, đâu biết trong thiên hạ có sông có biển.  Kinh điển Phật như sông biển, tất cả sách vở trong thế gian, đều do kinh Phật lưu xuất….

(Trích kinh Hằng Thủy, trắc 8, tờ 7, bên mặt).

 

LƯỢC GIẢI

 

  1. A-la-hớn   :  Arhan, dịch là ứng cúng, người có tư cách lãnh thọ người khác cúng dường.
  2. Phật Bích Chi  :  Pratyekabuđha, dịch là Độc Giác, bậc thánh giác ngộ, không thấy chỉ dạy.

 

 

  1. Cần cầu thiện tri thức :

 

              Thiện tài bạch rằng : “Thánh giả !  cúi mong ngài từ bi lân mẫn rộng lòng giảng nói ! Tôi phải làm thế nào để học hạnh Bồ Tát ? Phải làm thế nào thật hành hạnh Bồ Tát ? Làm thế nào phát khởi hạnh Bồ Tát ?  Làm thế nào quán sát hạnh Bồ Tát ?  Làm thế nào tăng rộng hạnh Bồ Tát ?  Làm thế nào thành tựu hạnh Bồ Tát ?  Phải làm thế nào khiến hạnh Phổ Hiền chóng đặng viên mãn ?”.

              Lúc bấy giờ Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi bảo Thiện Tài đồng tử rằng : “Hay thay ! quí hóa thay ! Thiện nam tử !  Nếu có chúng sinh hay phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, việc ấy rất khó.  Khi phát tâm rồi, lại muốn cầu thật hành hạnh Bồ Tát, càng thấy khó hơn.  Thiện nam tử ! Ông nay phát tâm cầu cho được đạo Bồ Tát, vì muốn thành tựu ‘nhất thiết trí’, phải nên siêng tìm chân thiện tri thức.  Thiện nam tử !  Cầu thiện tri thức chớ sinh lòng mõi mệt biếng nhác ! Gặp thiện tri thức chớ sinh lòng nhàm đủ !  Đối với thiện tri thức có lời dạy bảo phải gia tâm tùy thuận, không nên chống trái ! Đối với thiện tri thức khéo léo phương tiện, chỉ nên cung kính ! Chớ để ý các việc lỗi lầm !”.

(Trích kinh Hoa Nghiêm, phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện thứ 4, thiên 5, tờ 15, bên mặt).

 

  1. Siêng tìm thiện tri thức :

 

              Lại nữa, nấy thiện nam ! vì lý do chính thức, ông siêng tìm thiện tri thức :  đối với thân tâm, chớ sinh lòng mõi mệt.  Thấy thiện tri thúc chớ sinh lòng nhàm đủ; khi hướng về thiện tri thức chớ nên sợ nhọc, sợ khổ; gần gũi thiện tri thức, chớ ôm lòng thối chuyển; cúng dường thiện tri thức chớ cho gián đoạn; tùy thuận thiện tri thức dạy bảo, không nên trái nghịch; đối với thiện tri thức đã có công đức, không nên nghĩ lầm; nghe thiện tri thức diễn nói pháp môn xuất ly, nên sinh lòng quyết định; thấy thiện tri thức tùy thuận thật hành phiền não, chớ sinh lòng hiểm trách; đối với thiện tri thức được sinh ra thâm tín, không nên biến cải.  Vì sao ? Các thiện nam !  Bồ Tát nhờ thiện tri thức, nghe tất cả hạnh Bồ Tát; nhờ thiện tri thức thành tựu tất cả công đức Bồ Tát; nhờ thiện tri thức sinh ra tất cả đại nguyện Bồ Tát;  nhờ thiện tri thức dẫn phát tất cả căn lành Bồ Tát; nhờ thiện tri thức chứa nhóm tất cả pháp trợ đạo Bồ Tát; nhờ thiện tri thức khai phát tất cả pháp quang minh Bồ Tát; nhờ thiện tri thức thành tựu tất cả pháp môn xuất ly Bồ Tát; nhờ thiện tri thức tu học tất cả thanh tịnh giới Bồ Tát; nhờ thiện tri thức, an trụ tất cả pháp công đức Bồ Tát; nhờ thiện tri thức, thanh tịnh tất cả tâm tự tính Bồ Tát, nhờ thiện tri thức, phát minh tất cả tâm kiên cố Bồ Tát.

(Trích kinh Hoa Nghiêm, phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện thứ 33, thiên 6, tờ 47, bên mặt).

 

  1. Thân cận thiện tri thức :

             

              Lại nữa, thiện nam tử ! bậc thiện tri thức chũng như từ mẫu, vì xuất sanh tất cả chủng tánh Phật.  Bậc thiện tri thức cũng như đắng nghiêm phụ, vì có sự lợi ích rộng lớn đích thân phú chúc.  Bậc thiện tri thức cũng như nhũ mẫu; gìn giữ không cho tạo tác các ác nghiệp.  Bậc thiện tri thức cũng như giáo sư, vì chỉ các chỗ cần học của Bồ Tát.  Bậc thiện tri thức cũng như thiện đạo; vì hay khai thị pháp ba la mật rất sâu xa.  Bậc thiện tri thức cũng như lương y; vì hay điều trị các thứ bịnh phiền não.  Bậc thiện tri thức cũng như núi tuyết, vì hay tăng trưởng tất cả thuốc chủng trí vậy.  Bậc thiện tri thức cũng như vị dũng tướng; dứt trừ tất cả ý thức khủng bố vậy.  Bậc thiện tri thức cũng như vị thuyền trưởng, vì chỉ huy qua khỏi dòng nước dốc lớn của sự sinh tử.  Bậc thiện tri thức cũng như chủ nhà buôn, đưa đến châu thành nhất thiết trí vậy.  Các thiện nam !  ông nay nếu có thể khởi tâm niệm như thế, chánh niệm tư duy; sẽ được thân cận các bậc thiện tri thức.

(Trích kinh Hoa Nghiêm, phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện thứ 33, thiên 6, tờ 49, bên mặt.)

 

  1. Tất cả Phật pháp do thiện tri thức trưởng thành :

 

              Tất cả Phật pháp đều do sức thiện tri thức mà được viên mãn như ý.  Dùng thiện tri thức làm căn bản từ thiện tri thức đến.  Y theo thiện tri thức sinh; nương thiện tri thức trưởng, y thiện  

(Trích kinh Hoa Nghiêm, phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện thứ 33, thiên 6, tờ 49, bên trái).

 

  1. Do thiện tri thức mà thành tựu :

 

              Các thiện nam !  Bồ Tát nhờ thiện tri thúc thường hay tăng trưởng tất cả căn lành; ví như ở núi Tuyết, sinh trưởng có thuốc.  Nhờ thiện tri thức thành tựu các đồ dùng trong Phật pháp; ví như biển lớn, thâu nhận các dòng sông.  Nhờ thiện tri thức thành đạt các công đức lành; ví như biển lớn, sản xuất các đồ ngọc báu.  Nhờ thiện tri thức, tịnh tâm bồ đề, ví như lữa mạnh, hay luyện vàng ròng.  Nhờ thiện tri thức, vượt ra các khổ não ở thế gian; như núi tu di, vượt hơn biển lớn.  Nhờ thiện tri thức, không nhiễm các việc trong thế gian; ví như hoa sen, không nhiễm bùn nhơ.  Nhờ thiện tri thức, không thọ các ác pháp; ví như biển lớn, không chứa các thây chết.  Nhờ thiện tri thức, tăng trưởng bạch pháp; ví như mặt trăng sáng, dần dần tròn đầy.  Nhờ thiện tri thức, soi sáng khắp các pháp giới; ví như mẵt trời lên cao, soi thấu bốn châu thiên hạ.  Nhờ thiện tri thức, tăng trưởng đại nguyên; ví như cha mẹ, dưỡng dục trẻ con ……

(Trích kinh Hoa Nghiễm, phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện thứ 33, thiên 6, tờ 49, bên trái).

 

  1. Ơn thiện tri thức lớn hơn cha mẹ:

 

              Đức Phật dạy  :  “Chọn những người hiền theo học hỏi, những kẻ ác phải lánh xa; ta cùng thiện tri thức tương tùy, cho đến khi thành Phật.  Sa Môn đạo sĩ dạy người bỏ ác làm lành, khai thị chánh đạo; ơn lớn hơn cha mẹ.

(Trích kinh Thi Ca La Việt Lục Phương Lễ, trắc 10, tờ 82, bên hữu và tả).

 

  1. Người hy sinh khó làm được :

 

              Có 500 người, tự nói rằng ta sẳn sàng hy sinh.  Đức Phật nói : “Các ông sẽ hy sinh theo sau tôi”.   Các vị ấy nói : “Vâng ! Đức Phật liền đi vào trong lửa, 500 người đều đứng nhìn mà không dám đi theo.  Phật nói : “Người hy sinh thật là khó”.

(Trích kinh Tam Huệ, tạng 8, tờ 25, bên mặt).

 

Mục   X   -   Nghe Pháp

 

  1. Một lòng nghe pháp :

 

            Những người có lòng tốt ý lành,  nghe rõ giáo pháp của Phật, một lòng thính pháp.  Có người nghe một ngày được; có hạng không thể nghe một ngày được; có kẻ nghe nữa ngày được; có hạng không thể nghe nữa ngày được; có người nghe một thời gian được; có kẻ không thể nghe một thời gian được; có kẻ nghe nữa thời gian được; có người không thể nghe nữa thời gian được; có người nghe trong giây phút được, phước đức ấy không thể nghĩ lường, không bao giờ hoại diệt được.

(Trích kinh Kiên Ý, túc 8, tờ 12, bên trái).

 

  1. Lòng tin nghe pháp lẫn nhau làm nhân quả :

 

            Nghe người chánh pháp cũng có nhân; nhờ gần bạn lành.  Gần được bạn lành là cũng có nhân; ấy là tín tâm.  Người có lòng tin cũng nhờ có nguyên nhân.  Nhân có hai thứ : một là nghe pháp; hai là suy nghĩ nghĩa lý.  Các thiện nam !  Người có lòng tin, nhờ sự nghe pháp.  Người được nghe pháp, nhờ có lòng tin.  Hai pháp như vậy, cũng nhân, cũng là nhân của nhân, cũng quả, cũng là quả của quả.

(Trích kinh Đại Bát Niết Bàn, phẩm Sư Tử Hẩu thứ 28, dinh 6, tờ 36, bên trái).

 

  1. Những người trì pháp :

           

            Luận về các người trì pháp, không luận có nhiều sự tụng tập; nếu người nào ít được nghe, nhưng giữ đầy đủ hạnh pháp thân.  Ấy gọi là người trì pháp.  Nếu có kẻ dùng chánh pháp tự đem ra nuôi dưỡng, mặc dù chuyên nhiều nghĩa tụng tập, buông lung không theo chánh pháp; như chăn nhiều con trâu khác, không thể gọi là Sa Môn chân chánh.

(Trích kinh Xuất Diệu, phẫm Phóng Dật thứ 6, tạng 5, tờ 64, bên mặt và trái).

 

  1. Soi kia không tự sáng :

 

                              Hoặc có nghe nhiều ít,

                              Tự đại kiêu mạn người;

                              Như người mù cầm đuốc,

                              Soi kia mình không sáng.

(Trích kinh Pháp Cú Thí Dụ, phẩm Đa Văn thứ nhất, tạng 6, tờ 67, bên trái).

 

  1. Tụng nhiếu, nếu không khéo vô ích :

 

              Một thuở nọ, đức Phật ở nước Xá Vệ, vườn cây của Thái Tử Kỳ Đà và Cấp Cô Độc.  Lúc bấy giờ đệ tử của ngài Mục Liên cùng đệ tử của tôn giả A-Nan, cả hai cùng bàn luận :”Hai người chúng ta hãy tụng kinh lớn tiếng, xem ai hơn ai”.  Lúc ấy rất đông tỳ-kheo, nghe hai người nầy, mỗi người đều tranh luận về sự tụng niệm.  Nghe rồi liền đến chỗ đức Thế-Tôn, kính thành đảnh lễ, đầu mặt lạy sát chân, và an vị một bên.  Đoạn, số đông tỳ-kheo bạch với đức Thế-Tôn rằng : “Nay có hai vị bàn luận : Trong hai người, cùng tụng kinh điển, xem ai đặc biệt hơn.  Khi ấy đức Thế-Tôn bảo một tỳ-kheo : “Ông đến gọi hai người đó đến đây”.  Vị tỳ kheo bạch rằng : “Vâng ! Thưa Thế-Tôn ! Vị tỳ kheo y theo lời dạy của Phật lập tức đến chỗ hai người kia bảo với hai người ấy rằng : “Đức Thế-Tôn cho gọi hai ông”.  Kịp thời hai vị ấy  nghe tỳ-kheo bảo, liền đến chỗ đức Thế-Tôn cúi đầu đảnh lễ xuống chân Phật, và chấp tay nghiêm chỉnh đứng một bên.

              Lúc bấy giờ đức Thế-Tôn bảo hai người kia rằng : “Các ông quá mê chấp, thốt ra các lời nói : chúng ta cùng nhau tụng kinh, xem ai đặc biệt hơn”.  Hai vị kia bạch rằng : “Đúng như vậy !  Thế-Tôn !”.

              Đức Thế-Tôn bảo : “Các ông có khi nào nghe ta nói những việc cạnh tranh ấy không ? Nếu nói như thế đâu có khác gì các vị Phạm Chí”.  Các tỳ-kheo thưa rằng : “Chúng con không bao giờ nghe đức Thế-Tôn nói các việc ấy”.

              Đức Thế-Tôn nói : “Từ lâu, ta có khi nào cùng chư tỳ-kheo nói những phương pháp cạnh tranh hơn thua ư ?  Nhưng hôm nay ta phải nói pháp để hàng phục giáo hóa mọi người.  Nếu có tỳ-kheo những khi thọ giáo pháp, sẽ phải suy nghĩ phương pháp tư duyên, ý cùng khế kinh (1), A-tỳ-Đàm (2), luật có tương ứng hay không ? Dù cùng tương ứng, phải nghĩ sự phụng hành”.

              Lúc ấy đức Thế-Tôn liền nói bài kệ rằng :

                                    “Việc tụng nhiều vô ích,

                                    Pháp nầy không vi diêụ;

                                    Như tính số đầu trâu,

                                    Không phải cách tu chính.

                                    Nều tụng nhiều tập ít,

                                    Theo chánh pháp mà hành,

                                    Pháp ấy mới cao thượng,

                                    Gọi là pháp Sa Môn”.

              Lại nữa :        “Tuy tụng nghìn chương cú,

                                    Không hiểu nghĩa, vô ích !

                                    Đâu bằng tụng một câu,

                                    Nghe qua liền ngộ đạo.

                                    Dù tụng nghìn muôn câu,

                                    Không rõ nghĩa, ích gì ?

                                    Thông suốt chỉ một nghĩa,

                                    Nghe qua liền đạt đạo.

                                    Thắng ngàn quân giặc cướp,

                                    Không bằng tự thắng mình.

                                    Nếu chưa thắng được mình,

                                    Lấy sức nhẫn đối phó”.

              Thế nên các tỳ-kheo ! từ nay về sau, chớ nên tranh tụng phải dùng tâm tối thắng.  Nhờ đó mà hàng phục tất cả nhân dân.  Nếu lại có tỳ-kheo, có tâm hơn thua, đem tâm tranh cải, những sự tranh cải ấy, tức đem pháp luật đối trị tâm kia.  Tỳ-kheo, do đó, nên phải nhất tâm tu hành.

              Lúc bấy giờ các vị tỷ-kheo, nghe đức Phật nói như vậy rồi, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lể đức Thế-Tôn, cầu xin ăn năn sám hối : “Từ nay về sau, không dám tái phạm; cúi mong Thế-Tôn, nhận cho sự ăn năn”. - Đức Thế-Tôn bảo rằng : “Trong đại pháp quyết được cải hối; tự biết có tâm cạnh tranh, cho các vị ăn năn sữa lỗi.  Các tỳ-kheo !  Chớ có tái phạm.  Do đó, nên các vị tỳ-kheo phải cố gắng mà học tập”.

(Trích kinh Tăng Nhất A Hàm  :  Ekottaràgama sùtra, phẩm Tăng Thượng, trắc 2, tờ 16, bên trái và phải).

 

LƯỢC GIẢI

 

  1. Khế kinh  :  Dịch ý chữ tu đa la :  Sùtra  :  hợp lý hợp cơ.                   
  2. A-tỳ-đàm  :  dịch âm chữ  Abhidharma, dịch là vô tỷ pháp;  lại cũng gọi là luận.

 

 

  1. Lỗi ít học và tự mãn :

 

                        “không biết việc ba đời,

                        Cũng ít pháp tài báu;

                        No bụng giúp lòng dục,

                        Hình người, súc không khác”.

 

              Ít chịu học, nhưng tâm lại cổng cao, dễ đầy như dấu chân trâu; như con chuột cầm đồ vật, tự cho mình đầy đủ, biển trí rộng khó lường.  Không chịu lường mà thêm sự hủy báng.  Trâu uống nước thành sữa, rắn uống nước thành độc; sự học của người trí thành bồ đề, sự học của kẻ ngu, tự mãn, bị trong vòng sinh tử.  Không rõ biết như vậy, đều do lỗi ít học và tự mãn.

(Trích kinh Hoa Nghiêm, phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện thứ 12, thiên 5, tờ 46, bên trái).

 

  1. Mười sáu việc nên nói, nên nghe :

 

              Khi muốn nói việc gì phải đủ 16 yếu tố :  Một là nói hợp thời; hai là nói lời tâm huyết; ba là nói có thứ tự; bốn là nói lời hòa hợp; năm là nói lời theo nghĩa; sáu là nói lời vui tươi; bảy là nói lời theo ý người; tám là nói lời không khinh khi; chín là dùng lời không chê bai đại chúng; mười là nói đúng chánh pháp; mười một là nói lời lợi mình và lợi người; mười hai là nói lời không tán loạn; mười ba là nói lời hợp với nghĩa lý; mười bốn là nói lời chân chính; mười lăm là nói rỗi không sinh kiêu mạn; và mười sáu là nói rỗi không cầu trả ơn.

              Nhũng người như thế thường nghe việc gì từ người khác cũng đầy đủ 16 việc  :  Một là nghe đúng thời; hai là ưa nghe việc phải; ba là dốc lòng nghe, bốn là nghe một cách cung kính; năm là nghe không tìm lỗi lầm; sáu là nghe không vì sự nghị luận; bảy là nghe không vì sự tranh hơn; tám là khi nghe không khinh người nói; chín là khi nghe không khinh giáo pháp; mười là khi nghe trọn không khinh dễ; mười một là khi nghe không xa lìa pháp “ngũ cái” (1); mười hai là khi nghe rồi thọ trì đọc tụng; mười ba là khi nghe đưọc trừ ngũ dục (2); mười bốn là sau khi nghe đầy đủ tín tâm; mười lăm khi nghe là điều phục chúng sinh; và mười sáu khi nghe đoạn được sự lầm lẫn.  Các thiện nam !  Người đầy đủ tâm trí, có thể nói, có thể nghe.  Những người như thế hay lợi mình và lợi người, ai mà thiếu sót thì không thể tự lợi và lợi tha được.

(Trích kinh Ưu Bà Tắc Giới, quyển thứ 2, lệ 2, tờ 27, bên trái).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Ngũ cái :  năm thứ che lấp tâm tính  :  tham lam, giận tức, mê mờ, chao động và nghi ngờ.
  2. Ngũ dục :   Năm thứ ham mê  :  của cải, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống và ngũ nghĩ.

 

 

  1. Pháp giải thoát do sự nghe thâm nhập :

 

            Ngài A Nan nói : “Ta nay bạch với đức Thế-Tôn, đức Phật xuất hiện ở thế giới Ta Bà; “chơn giáo thể” ở phương nầy, được thanh tịnh là nhờ ở tiếng nghe; muốn thật hành tam ma đề (1), phải do sự nghe mà thâm nhập, nhờ vậy lìa các khổ não và được giải thoát.

(Trích kinh Thủ Lăng Nghiêm : Sùrangama Sùtra, quyển thứ 6, thành 1, tờ 22, bên trái).

 

LƯỢC GIẢI:

 

  1. Tam ma đề  :  Samàdhi dịch là đẳng trì, chỗ cùng tột của thiền định vậy.

 

 

  1. Nghe thuyết mà không thọ, như người mù thấy đèn :

 

            Ví như có người ở trước người mù, mặc dầu bày ra rất nhiều đèn đuốc, nhưng người mù kia không dùng được yến sáng.  Cũng như người mất hồn, lõa lồ thân thể đi lại, nhưng không hổ thẹn; mặc dù có ai đem cho quần áo, người kia không lưu tâm lãnh thọ.

            Cũng như vậy, hạng ma-già-bà (1), do các sự nghi lầm, ngu si của chúng sanh, nghe pháp nhưng họ không lãnh thọ.

(Trích kinh Đại Pháp Cự Đà La Ni, quyển thứ 13, phẩm Cúng Dường Pháp Sư, trụ 9, tờ 50 bên mặt).

 

LƯỢC GIẢI :

 

  1. Ma gia bà  :  Manava dịch là nho đồng, hành đạo lúc trẻ vậy.

 

  1.  Dùng tâm duyên nghe pháp, tâm nầy cũng duyên :

 

            Đức Phật bảo ngài A-Nan :  các ông còn dùng tâm duyên nghe pháp; pháp nầy cũng duyên, khó mà thể nhập pháp tánh.  Cũng như người dùng ngón tay để chỉ mặt trăng cho người khác, người kia phải biết đừng vì ngón tay mà phải xem mặt trăng; người ấy không những đánh mất thể sáng mặt trăng mà còn nhầm lẫn ngón tay kia nữa.  Vì sao ?  Bởi vì nhờ ngón tay để hiểu rõ mặt trăng, lúc ấy không những quên ngón tay, mà cũng lại không cần biết tối cùng sáng.  Vì cớ sao ?  Bởi vì làm như vậy tức là dùng thể của ngón tay như là tánh sáng của mặt trăng; sáng tối hai tính không được rõ ràng vậy.

(Trích kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển thứ 2, thành 1 tờ 5, bên trái).

 

 

Mục   XI   -  Pháp Vị

 

  1. Món ăn pháp hỷ thiền duyệt :

 

            Các đức Như Lai ra đời vì các chúng sinh nói ra bốn cách ăn  :  đàn thực, xúc thực, tự thực và thức thực, trong bốn cách ăn ấy đều thuộc các loài ăn hữu lậu thế gian.  Duy có món ăn pháp hỷ thiền duyệt mới là thức ăn của các vị thánh hiền.

(Trích kinh Tâm Địa Quán, phẩm Vô Cầu Tánh thứ 5, vũ 2, tờ 66, bên trái).

 

  1. Bốn loại nhân gian thực, Năm loại Xuất nhân gian thực :

 

            Một hôm các thánh chúng, đắp y pháp, mang bình bát vào trong làng khất thực.  Lúc bấy giờ các vị tỳ-kheo, hầu hết không được đồ ăn, liền rời khỏi làng.  Trong lúc ấy đức Phật bảo các vị tỳ-kheo, nói pháp nhiệm mầu như thế nầy : “Quán sát cách ăn có chín loại, bốn loại nhân gian thực và năm loại xuất nhân gian thực.”.

            Thế nào gọi là bốn loại nhân gian thực ?  Một là đàn thực (1);  hai là cánh lạc thực (2); ba là niệm thực (3); bốn là thức thực (4).  Ấy gọi là thế gian có bốn thứ thực.  Thế nào gọi là năm loại thực tiêu biểu cho xuất thế gian ?  Một là thiền thực (5); hai là nguyện thực; ba là niệm thực; bốn là bát giải thoát thực và năm là hỷ thực.  Ấy gọi là năm loại thực xuất thế gian.

            Như vậy đó, các tỳ-kheo !  năm loại thực tiêu biểu xuất thế gian; phải cùng nhau chuyên niệm xả trừ bốn loại thực thế gian; tìm đủ phương tiện hoàn thành năm loại thực xuất thế gian.  Các vị tỳ-kheo phải cố gắng học tập.

            Lúc bấy giờ các tỳ-kheo lãnh thọ những lời đức Phật dạy rồi liền tự khắc phục để hoàn thành năm loại thực xuất thế gian.

 

LƯỢC GIẢI

 

  1. Đàn thực :  là đoạn thực nghĩa là các thức ăn có hình thể rất là phổ thông vậy.
  2. Cánh lạc thực :  là xúc thực, xúc chạm các việc vui mừng rồi không cảm thấy đói.
  3. Niệm thực  :  là tư thực, suy nghỉ ham muốn rồi quên sự đói khát.
  4. Thức thực   :  Do tâm thức rồi chi phối thân mạng ấy.
  5. Thiền thực  :  Dùng thiền vị làm món ăn, khiến thân tâm không biết đói.  Ngoài ra, nguyện thực, niệm thực v.v… cũng có thể suy nghiệm mà rõ biết.

 

 

  1. Kinh điển Đại Thừa là vị cam lồ, mà cũng có thể thành độc dược.

 

            Có người uống nước cam lồ, bị hại thân mạng mà chết, cũng có người uống nước cam lồ, nhưng thân mạng được sống lâu trường tồn !  Có kẻ uống thuốc độc nhưng được sống lâu; trái lại có người uống thuốc độc lại bị chết.  Trí vô ngại cam lồ, được gọi là kinh điển đại thừa.  Song kinh điển đại thừa, cũng có khi gọi là tạp độc dược; cũng như sữa đặc và bơ (beurre) v.v….cho đến các loài đường phèn, ăn uống vào nó tiêu hóa thì trở thành thuốc, ngược lại không tiêu hóa thì trở thành độc dược.  Kinh Phương Đẳng cũng lại như thế :  người trí thì cho là vị cam lồ, kẻ ngu không nhận Phật tánh, không hiểu nổi diệu lý cao sâu thì cho đó là độc dược.

(Trích kinh Đại Bát Niết Bàn  :  Mahàparinirvànasùtra, quyển thứ 8, phẩm Như Lai tính, dinh 5, tờ 39, bên mặt).

 

  1. Quan niệm của Đại Sĩ :

 

            Hiền giả A Na Luật, khi ở trong phòng thiền, ngồi trầm tư suy nghĩ như thế nầy : “Theo đạo pháp thì phải thiểu dục, người đa dục không thể theo đạo pháp.  Giữ đạo pháp thì phải tri túc, kẻ không nhàm chán thì không giữ được đạo.  Theo đạo pháp nên ở ẩn một chỗ, người nào ưa ở nơi đông vui thì khó mà giữ vững đạo pháp.  Đạo pháp phải tinh tiến, ai mà lười biếng không tìm ra đạo pháp.  Theo đạo pháp phải chế tâm, người buông lung không sanh đạo pháp.  Muốn có đạo pháp thì phải định ý, người suy nghĩ nhiều, đạo pháp không thực hiện được.  Muốn được đạo pháp là phải đầy đủ trí tuệ, người quá ngu si không bao giờ được đạo pháp”.

            Đức Phật dùng thánh tâm, biết đưọc ý kia; ví như một lực sĩ có thần thông, giữ cánh tay bay đến trước hiền giả, khen rằng :  “Hay lắm !  Hay lắm !  A-Na-Luật ! ông nghĩ như trên, chính là cái nghĩa của Đại Sĩ”.

(Trích kinh A-Na-Luật bát niệm, trắc 8, tờ 21, bên mặt).

 

 

 

 

            Hết chương một Phần Hai – Pd.Phuong An

 

 

 

             

             

 

 

 

 

 

 

 

                                   

             

 

 

 

 

             

 

 

 

 

 

                              

 

 

 

 

                                                                                                                                                                     

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com