Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kinh Vu Lan Báo Hiếu (Giọng Tụng: TT Thích Nguyên Tạng )

17/08/201813:17(Xem: 9328)
Kinh Vu Lan Báo Hiếu (Giọng Tụng: TT Thích Nguyên Tạng )

Bo Tat Muc Kien Lien

Phật Lịch: 2562 - Tây Lịch: 2018
Việt Lịch: 4897; Nông Lịch: Mậu Tuất



 

NGHI THỨC

TỤNG KINH VU LAN BÁO HIẾU

tại Tu Viện Quảng Đức

pdf-icon
Kinh Vu Lan Báo Hiếu


***


Giọng Tụng: TT Thích Nguyên Tạng

 

 

 


NIỆM HƯƠNG

 

Nguyện mây hương mầu này

Khắp cùng mười phương cõi

Cúng dường tất cả Phật

Tôn pháp các Bồ tát.

Vô biên chúng Thanh văn

Và cả thảy Thánh Hiền

Duyên khởi đài sáng chói

Trùm đến vô biên cõi.

Khắp xông các chúng sinh

Đều phát lòng Bồ Đề

Xa lìa những nghiệp vọng

Trọn nên đạo vô thượng.

 

Nay đệ tử chúng con dâng hết lòng thành hướng về Ngôi Tam Bảo, trì tụng kinh chú, xưng tán hồng danh, tu hành công đức, ngưỡng nguyện mười phương Tam Bảo từ bi phóng quang tiếp độ Hương linh: (tên họ, pháp danh, ngày tháng năm mất, tuổi thọ) được nương nhờ công đức này về trước Phật đài Tu Viện Quảng Đức, nghe Kinh thính pháp, tỏ ngộ tự tâm, sạch hết mê lầm, vãng sinh Tịnh Độ.

Nam mô Hương Cúng Dường Bồ tát.        (3 lần) O

 

 


TÁN PHẬT

 

Sen quý nở đài giác ngộ

Hào quang chiếu rạng mười phương

Trí huệ vượt tầm pháp giới

Từ bi thấm nhuận non sông

Vừa thấy dung nhan Điều Ngự

Trăm ngàn phiền não sạch không

Hướng về tán dương công đức

Tinh chuyên đạo nghiệp vun trồng.

 (xá 1 xá) O

 

ĐẢNH LỄ

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường trú Tam Bảo. (1 lạy) O

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta bà Giáo chủ Điều ngự Bổn Sư Thích  Ca Mâu Ni Phật, Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ tát, Linh Sơn hội thượng Phật Bồ tát.  (1 lạy) O

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát, Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ tát, Thanh Tịnh Đại Hải chúng Bồ tát.  (1 lạy) OO

 




TÁN LƯ HƯƠNG

Kim lư vừa bén chiên đàn,

Khắp xông pháp giới đạo tràng mười phương,

Hiện thành mây báu kiết tường,

Chư Phật rõ biết ngọn hương chí thiền,

Pháp thân toàn thể hiện tiền,

Chứng minh hương nguyện phước liền ban cho.
Nam Mô Hương Vân Cái Bồ tát Ma Ha Tát (3 lần) O



CHÚ ĐẠI BI

Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ tát(3 lần) O

Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni.

Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án, tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.

Nam mô na ra cẩn trì, hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật da ra, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt xa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ, ri đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà da, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha.

Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha.

 Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha.      (3 lần) O

 

***

 


Đại từ đại bi thương chúng sanh

Đại hỷ đại xả cứu muôn loài

Tướng  tốt  chói  sáng  tự  trang   nghiêm

Đệ tử chí tâm quy mạng lễ.

Nam Mô Thập Phương Thường Trú Tam Bảo   (3 lần)

 

 

 

PHÁT NGUYỆN TRÌ KINH

 

Cúi lạy đấng Tam Giới Tôn

Quy mạng cùng mười phương Phật

Con nay phát nguyện rộng

Thọ trì Kinh Vu Lan

Trên đền bốn ơn nặng,

Dưới cứu khổ ba đường.

Nếu có người thấy nghe

Đều phát lòng Bồ Đề,

Hết một báo thân này

Sanh qua cõi Cực lạc.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.   (3 lần)

 

Phật Pháp cao siêu rất thẩm sâu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay nghe thấy chuyên trì tụng
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu. 

Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát (3 lần) O

 

***

 

 

PHẬT NÓI

KINH VU LAN BỒN 

Ta từng nghe nói lời tạc như vầy:

Một thuở nọ Thế Tôn an trụ

Xá vệ thành Kỳ thụ viên trung.

Mục Liên mới đặng lục thông,

Muốn cho Cha Mẹ khỏi vòng trầm luân.

Công dưỡng dục thâm ân dốc trả,

Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền,

Làm con hiếu hạnh vi tiên,

Bèn dùng huệ nhãn dưới trên kiếm tầm.

Thấy vong mẫu sanh làm ngạ quỷ,

Không uống ăn tiều tụy hình hài.

Mục Liên thấy vậy bi ai,

Biết mẹ đói khát ai hoài tình thâm.

Lo phẩm vật đem dâng Từ mẫu,

Đặng đỡ lòng cực khổ bấy lâu.

Thấy cơm, mẹ rất lo âu,

Tay tả che đậy, hữu hầu bốc ăn.

Lòng bỏn xẻn tiền căn chưa dứt,

Sợ chúng ma cướp giựt của bà.

Cơm đưa chưa tới miệng đà,

Hóa thành than lửa nuốt mà đặng đâu!

Thấy như vậy âu sầu thê-thảm,

Mục Kiền Liên bi cảm xót thương,

Mau mau về đến giảng đường,

Bạch cùng Sư Phụ tìm phương giải nàn.

Phật mới bảo rõ ràng căn cội,

Rằng: "Mẹ ông gốc tội rất sâu.

Dầu ông thần lực nhiệm mầu,

Một mình không thể ai cầu được đâu.

Lòng hiếu thảo của ông dầu lớn,

Tiếng vang đồn thấu đến Cửu thiên

Cùng là các bậc Thần kỳ

Tà, ma ngoại đạo, bốn vì Thiên vương

Cộng ba cõi sáu phương tu tập,

Cũng không phương cứu tế mẹ ngươi.

Muốn cho cứu đặng mạng người.

Phải nhờ thần lực của mười phương Tăng.

Pháp cứu tế ta toan giải nói,

Cho mọi người thoát khỏi ách nàn!"

Bèn kêu Mục Thị đến gần,

Truyền cho Diệu Pháp ân cần thiết thi:

"Rằm tháng Bảy là ngày Tự tứ

Mười phương Tăng đều dự lễ này

Phải toan sắm sửa chớ chầy

Thức ăn trăm món, trái cây năm màu

Lại phải sắm giường nằm nệm lót

Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang, dầu

Món ăn tinh sạch báu mầu

Đựng trong bình bát vọng cầu kính dâng

Chư Đại Đức mười phương thọ thực

Trong bảy đời sẽ đặng siêu Thăng

Lại thêm Cha Mẹ hiện tiền

Đặng nhờ phước lực tiêu khiên ác nàn

Vì ngày ấy Thánh Tăng đầy đủ

Dầu ở đâu cũng tụ hội về.

Như người thiền định sơn khê

Tránh điều phiền não chăm về thiền na

Hoặc người đặng bốn tòa đạo quả

Công tu hành nguyện thỏa vô sanh

Hoặc người thọ hạ kinh hành

Chẳng ham quyền quý ẩn danh lâm tòng

Hoặc người đặng lục thông tấn phát

Và những hàng Duyên Giác, Thanh Văn

Hoặc chư Bồ tát mười phương

Hiện hình làm sãi ở gần chúng sanh

Đều trì giới rất thanh, rất tịnh

Đạo đức dày chánh định chơn tâm

Tất cả các bậc Thánh, Phàm

Đồng lòng thọ lãnh bát cơm lục hòa

Người nào có sắm ra vật thực

Đặng cúng dường Tự tứ Tăng thời

Hiện tiền Phụ Mẫu của ngươi

Bà con quyến thuộc thảy đều nhờ ơn

Tam đồ khổ chắc rằng ra khỏi

Cảnh thanh nhàn hưởng thọ tự nhiên.

Như còn Cha Mẹ hiện tiền

Đó nhờ cũng đặng bá niên thọ trường

Như Cha Mẹ bảy đời quá vãng

Sẽ hóa sanh về cõi Thiên cung

Người thời tuấn tú hình dung

Hào quang chiếu sáng khắp cùng châu thân!"

Phật dạy bảo mười phương Tăng chúng

Phải tuân theo thể thức sau nầy:

"Trước khi thọ thực đàn chay

Phải cầu chú nguyện cho người tín gia.

Cầu thất thế Mẹ Cha thí chủ

Định tâm thần quán đủ đừng quên

Cho xong định ý hành thiền

Mới dùng phẩm vật đàn tiền hiến dưng.

Khi thọ dụng, nên an vật thực.

Trước Phật đài hoặc tự tháp trung:

Chư Tăng chú nguyện viên dung

Sau rồi tự tiện thọ cùng bữa trưa".

Pháp cứu tế Phật vừa nói dứt

Mục Liên cùng Bồ tát chư Tăng

Đồng nhau tỏ dạ vui mừng

Mục Liên cũng hết khóc thương rầu buồn

Mục Liên mẫu cũng trong ngày ấy

Kiếp khổ về ngạ quỷ được tan

Mục Liên bạch với Phật rằng:

"Mẹ con nhờ sức Thánh Tăng khỏi nàn

Lại cũng nhờ oai thần Tam Bảo

Bằng chẳng thì nạn khổ khó ra

Như sau đệ tử xuất gia

Vu Lan Bồn pháp dùng mà độ sanh

Độ Cha Mẹ còn đương tại thế

Hoặc bảy đời có thể đặng không?"

Phật rằng: "Lời hỏi rất thông

Ta vừa muốn nói con liền hỏi theo

Thiện nam tử, tỳ kheo nam nữ

Cùng Quốc vương, Thái tử, Đại thần

Tam công, tể tướng, bá quan

Cùng hàng lê thứ vạn dân cõi trần

Như chí muốn đền ơn Cha Mẹ

Hiện tại cùng thất thế tình thâm

Đến rằm tháng bảy mỗi năm

Sau khi kiết hạ chư Tăng tựu về

Chính ngày ấy Phật Đà hoan hỷ

Phải sắm sanh bá vị cơm canh

Đựng trong bình bát tinh anh,

Chờ giờ Tự tứ chúng Tăng cúng dường

Đặng cầu nguyện song đường trường thọ

Chẳng ốm đau cũng chẳng khổ chi

Cùng cầu thất thế đồng thì

Lìa nơi ngạ quỷ sanh về nhơn, thiên

Đặng hưởng phước nhân duyên vui đẹp

Lại xa lìa nạn khổ cực thân

Môn sanh Phật tử ân cần

Hạnh tu hiếu thuận phải cần phải chuyên

Thường cầu nguyện thung huyên an hảo

Cùng bảy đời phụ mẫu siêu sanh

Ngày rằm tháng bảy mỗi năm

Vì lòng hiếu thảo ơn thâm phải đền

Lễ cứu tế chí thành sắp đặt

Ngõ cúng dường chư Phật chư Tăng

Ấy là báo đáp, thù ân

Sanh thành dưỡng dục song thân buổi đầu

Đệ tử Phật, lo âu gìn giữ

Mới phải là Thích tử Thiền môn!"

Vừa nghe dứt pháp Lan Bồn

Môn sanh tứ chúng thảy đồng hỷ hoan

Mục Liên với bốn ban Phật tử

Nguyện một lòng tín sự phụng hành.

Trước là trả nghĩa sanh thành

Sau là cứu vớt chúng sanh muôn loài.

 

Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát. (3 lần)

 


PHẬT NÓI

BÁO HIẾU PHỤ MẪU ÂN KINH

 

Một thuở nọ Thế Tôn an trụ
Xá Vệ Thành Kỳ Thụ viên trung
Chư Tăng câu hội rất đông
Tính ra đến số hai muôn tám ngàn.
Lại cũng có các hàng Bồ tát
Hội tại đây đủ mặt thường thường
Bấy giờ Phật lại lên đường
Cùng hàng đại chúng Nam phương tiến hành.
Đáo bán lộ đành rành mắt thấy
Núi xương khô bỏ đấy lâu đời
Thế Tôn bèn vội đến nơi
Lạy liền ba lạy, rồi rơi giọt hồng.
Đức A Nan trong lòng ái ngại
Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương
Vội vàng xin Phật dạy tường:
“…Thầy là Từ Phụ ba phương bốn loài
Ai ai cũng kính Thầy dường ấy
Cớ sao Thầy lại lạy xương khô?
Phật rằng: Trong các môn đồ
Người là đệ tử đứng đầu dày công.
Bởi chưa biết đục trong chưa rõ
Nên vì ngươi ta tỏ đuôi đầu,
Đống xương dồn dập bấy lâu
Cho nên trong đó biết bao cốt hài.
Chắc cũng có ông bà cha mẹ
Hoặc thân ta hoặc kẻ ta sanh,
Luân hồi sanh tử, tử sanh
Lục thân đời trước, thi hài còn đây.
Ta lễ bái kỉnh người tiền bối
Và ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa.
Đống xương hỗn tạp chẳng vừa
Không phân trai gái bỏ bừa khó coi.
Ngươi chịu khó xét soi cho kỹ
Phân làm hai, bên nữ bên nam.
Để cho phân biệt cốt phàm
Không còn lộn lạo nữ nam chất chồng.
Đức A Nan trong lòng tha thiết
Biết làm sao phân biệt khỏi sai.
Ngài bèn xin Phật tỏ bày
Vì khó chọn lựa gái trai lúc này.
Còn sanh tiền dễ bề sắp đặt
Cách đứng đi ăn mặc phân minh,
Chớ khi rã xác tiêu hình
Xương ai như nấy, khó nhìn khó phân.
Phật mới bảo A Nan nên biết
Xương nữ nam phân biệt rõ ràng
Đàn ông xương trắng nặng quằn
Đàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn.
Người có biết cớ sao đen nhẹ
Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra,
Sanh con ba đấu huyết ra
Tám hộc bốn đấu sữa hòa nuôi con.
Vì cớ ấy hao mòn thân thể
Xương đàn bà đen nhẹ hơn trai.
A Nan nghe vậy bi ai
Xót thương Cha Mẹ công dày dưỡng sanh.
Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo
Phương pháp nào báo hiếu song thân.
Thế Tôn mới bảo lời rằng:
Vì ngươi ta sẽ phân trần khá nghe
Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc
Sanh đặng con thập ngoạt cưu mang.
Tháng đầu, thai đậu tợ sương
Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường
Tháng thứ nhì dường như sữa đặc
Tháng thứ ba như cục huyết ngưng
Bốn tháng đã tượng ra hình
Năm tháng ngũ thể hiện sanh rõ ràng
Tháng thứ sáu lục căn đều đủ
Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương
Lại thêm đủ lỗ chân lông
Cộng chung đến số tám muôn bốn ngàn
Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ
Chín tháng thì đầy đủ vóc hình
Mười tháng là đến kỳ sanh
Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn
Bằng ngỗ nghịch làm buồn thân mẫu
Nó vẫy vùng đạp quấu lung tung
Làm cho cha mẹ hãi hùng
Sự đau sự khổ không cùng tỏ phân
Khi sanh đặng muôn phần an lạc
Cũng ví như được bạc được vàng
Thế Tôn lại bảo A Nan
Ơn cha nghĩa mẹ mười phần phải tin
Điều thứ nhất giữ gìn thai giáo
Mười tháng trường chu đáo mọi bề
Thứ hai sanh đẻ gớm ghê
Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần
Điều thứ ba, thâm ân nuôi dưỡng
Cực đến đâu bền vững chẳng lay
Thứ tư ăn đắng nuốt cay
Để dành bùi ngọt đủ đầy cho con
Điều thứ năm lại còn khi ngủ
Ướt mẹ nằm, khô ráo phần con
Thứ sáu, sú nước nhai cơm
Miễn con no ấm chẳng nhờm gớm ghê
Điều thứ bảy không chê ô uế
Giặt đồ dơ của trẻ không phiền
Thứ tám chẳng nỡ chia riêng
Nếu con đi vắng cha phiền mẹ lo
Điều thứ chín miễn con sung sướng
Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam
Tính sao có lợi thì làm
Chẳng màng tội lỗi, bị giam bị cầm
Điều thứ mười chẳng ham chau chuốt
Dành cho con các cuộc thanh nhàn
Thương con như ngọc như vàng
Ơn Cha nghĩa Mẹ sánh bằng Thái Sơn
Phật lại bảo A Nan nên biết:
Trong chúng sanh tuy thiệt phẩm người
Mười phần mê muội cả mười
Không tường ơn trọng đức dày song thân
Chẳng kính mến, quên ơn, trái đức
Không xót thương dưỡng dục cù lao
Ấy là bất hiếu mặc giao
Thì những người ấy đời nào nên thân
Mẹ sanh con cưu mang mười tháng
Cực khổ dường gánh nặng trên vai
Uống ăn chẳng đặng vì thai
Cho nên thân thể hình hài kém suy
Khi sanh sản hiểm nguy chi xiết
Sanh đặng rồi tinh huyết dầm dề
Ví như thọc huyết trâu dê
Nhất sanh thập tử nhiều bề gian nan
Con còn nhỏ phải lo săn sóc
Ăn đắng cay bùi ngọt phần con
Phải tắm, phải giặt, rửa trôn
Biết rằng dơ dáy Mẹ không ngại gì
Nằm phía ướt con nằm phía ráo
Sợ cho con ướt áo, ướt chăn
Hoặc khi ghẻ chóc khắp thân
Ắt con phải chịu trăm phần thảm thương
Trọn ba năm bú nương sữa mẹ
Thân gầy mòn nào nệ với con
Đến khi vừa được lớn khôn
Cha Mẹ dạy bảo cho con vỡ lòng
Cho đi học mở thông trí tuệ
Dựng vợ chồng có thể làm ăn
Ước mong con được nên thân
Dầu cho Cha Mẹ cơ bần quản chi
Con đau ốm tức thì lo chạy
Dầu tốn hao cách mấy cũng đành
Khi con căn bệnh đặng lành
Thì Cha Mẹ mới an tâm định thần
Công dưỡng dục sánh bằng non biển
Cớ sao con chẳng biết ơn này
Hoặc khi lầm lỗi bị rầy
Chẳng tuân thì chớ lại bày ngỗ ngang
Hỗn Cha Mẹ phùng mang trợn mắt
Khinh trưởng huynh nộ nạt thê nhi
Bà con chẳng kể ra chi
Không tuân Sư phụ lễ nghi chẳng tường
Lời dạy bảo song đường không kể
Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng
Trái ngang chóng báng mọi đàng
Ra vào lui tới mắng càn người trên
Vì lỗ mãng tánh quen làm bướng
Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn
Lớn lên theo lối hung hăng
Đã không nhẫn nhịn lại càng hành hung
Bỏ bạn lành theo cùng chúng dữ
Nết tập quen làm sự trái ngang
Nghe lời dụ dỗ quân hoang
Bỏ Cha bỏ Mẹ trốn sang quê người
Trước còn tập theo thời theo thế
Thân lập thân tìm kế sanh nhai
Hoặc đi buôn bán kiếm lời
Hoặc vào quân lính với đời lập công
Vì ràng buộc đồng công mối nợ
Hoặc trở ngăn vì vợ vì con
Quên Cha quên Mẹ tình thâm
Quên xứ quên sở lâu năm không về
Ấy là nói những người có chí
Chớ phần nhiều du hý mà thôi
Sau khi phá hết của rồi
Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài
Theo trộm cướp hoặc là bài bạc
Phạm tội hình, tù ngục phải vương
Hoặc khi mang bệnh giữa đường
Không người nuôi dưỡng bỏ thân ngoài đồng
Hay tin dữ, bà con cô bác
Cùng Mẹ Cha xao xác buồn rầu
Thương con than khóc ưu sầu
Có khi mang bệnh đui mù vấn vương
Hoặc bệnh nặng vì thương quá lẽ
Phải bỏ mình làm quỷ giữ hồn
Hoặc nghe con chẳng lo lường
Trà đình tửu điếm phố phường ngao du
Cứ mài miệt với đồ bất chánh
Chẳng mấy khi thần tỉnh mộ khang
Làm cho Cha Mẹ than van
Sanh con bất hiếu phải mang tiếng đời
Hoặc Cha Mẹ đến hồi già yếu
Không ai nuôi thiếu thốn mọi điều
Ốm đau đói rách kêu rêu
Con không cấp dưỡng bỏ liều chẳng thương
Phận con gái còn nương Cha Mẹ
Thì có lòng hiếu để thuận hòa
Cần lao phục dịch trong nhà
Dễ sai dễ khiến hơn là nam nhi
Song đến lúc tùng phu xuất giá
Lo bên chồng chẳng xá bên mình
Trước còn lai vãng viếng thăm
Lần lần nguội lạnh biệt tăm biệt nhà
Quên dưỡng dục song thân ơn trọng
Không nhớ công mang nặng đẻ đau
Chẳng lo báo bổ cù lao
Làm cho cha mẹ buồn rầu thảm thay
Nếu cha mẹ rầy la quở mắng
Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiêng
Chớ chi chồng đánh liên miên
Thì cam lòng chịu chẳng phiền    chẳng than
Tội bất hiếu lưỡng ban nam nữ
Nói không cùng nghiệp dữ phải mang
Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng
Trong hàng đại chúng lòng càng thảm thay
Gieo xuống đất, lấy cây lấy củi
Đập vào mình, vào mũi vào hông
Làm cho các lỗ chân lông
Thảy điều ruớm máu ướt đầm cả thân
Đến hôn mê tâm thần bất định
Một giây lâu mới tỉnh than rằng
Bọn ta quả thiệt tội nhơn
Xưa nay chẳng rõ không hơn người mù
Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc
Ruột gan dường như nát như tan
Tội tình khó nỗi than van
Làm sao trả đặng muôn ngàn ơn sâu
Trước Phật tiền ai cầu trần tố
Xin Thế Tôn mẫn cố bi lân
Làm sao báo đáp thù ân
Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình
Phật bèn dụng phạm thinh sáu món
Phân rõ cùng Đại chúng lóng nghe
Ơn cha nghĩa mẹ nặng nề
Không phương báo đáp cho vừa sức đâu
Ví có người ơn sâu dốc trả
Cõng Mẹ Cha tất cả hai vai
Giáp vòng hòn núi Tu Di
Đến trăm ngàn kiếp ơn kia chưa đền
Ví có người gặp cơn đói rét
Nuôi song thân dâng hết thân này
Xương nghiền thịt nát phân thây
Trải trăm ngàn kiếp ơn đây chưa đồng
Ví có người vì công sanh dưỡng
Tự tay mình khoét thủng song ngươi
Chịu thân mù tối như vầy
Đến trăm ngàn kiếp ơn này thấm đâu
Ví có người cầm dao thật bén
Mổ bụng ra, rút hết tâm can
Huyết ra khắp đất chẳng than
Đến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng
Ví có người dùng ngàn mũi nhọn
Đâm vào mình bất luận chỗ nào
Tuy là sự khó biết bao
Trải trăm ngàn kiếp không sao đáp đền
Ví có người vì ơn dưỡng dục
Tự treo mình cúng Phật thế đèn
Cứ treo như vậy trọn năm
Trải trăm ngàn kiếp ân thâm chưa đền
Ví có người xương nghiền ra mỡ
Hoặc dùng dao chặt bửa thân mình
Xương tan thịt nát chẳng phiền
Đến trăm ngàn kiếp ơn trên chưa đồng
Ví có người vì công dưỡng dục
Nuốt sắt nóng thấu ruột thấu gan
Làm cho thân thể tiêu tan
Đến trăm ngàn kiếp thâm ân chưa đền
Nghe Phật nói thảy đều kinh hãi
Giọt lệ tràn khó nỗi cầm ngăn
Đồng thinh bạch Phật lời rằng
Làm sao trả đặng thâm ân song đường?
Phật mới bảo các hàng Phật tử
Phải lóng nghe ta chỉ sau này
Các ngươi muốn đáp ơn dày
Phải toan biên chép kinh đây lưu truyền
Vì Cha Mẹ trì chuyên phúng tụng
Cùng ăn năn những tội lỗi xưa
Cúng dường Tam Bảo sớm trưa
Cùng là tu phước chẳng chừa món chi
Rằm tháng bảy đến kỳ Tự Tứ
Thập phương Tăng đều dự lễ này
Sắm sanh lễ vật đủ đầy
Chờ giờ câu hội đặt bày cúng dâng
Đặng cầu nguyện song đường trường thọ
Hoặc sanh về Tịnh độ an nhàn
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh thành dưỡng dục song thân của mình
Mình còn phải cần chuyên trì giới
Pháp tam quy, ngũ giới giữ gìn
Những lời ta dạy đinh ninh
Hãy nên y giáo phụng hành đừng sai
Được như vậy mới là khỏi tội
Bằng chẳng thì ngục tối phải sa
Trong năm đại tội kể ra
Bất hiếu thứ nhất, thật là trọng thay
Sau khi chết bị đầy vào ngục
Ngũ vô gián, cũng gọi A Tỳ
Ngục này trong núi Thiết Vi
Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề
Trong ngục này hàng ngày lửa cháy
Đốt tội nhân hết thảy thành than
Có lò nấu sắt cho tan
Rót vào trong miệng tội nhân hành hình
Một vá đủ cho người thọ khổ
Lột thịt da đau thấu tâm can
Lại có chó sắt, rắn gang
Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhơn
Ở trong ngục có giường bằng sắt
Bắt tội nhơn nằm khắp đó xong
Rồi cho một ngọn lửa hồng
Nướng quay chúng nó da phòng thịt thau
Móc bằng sắt, thương đao gươm giáo
Trên không trung đổ tháo như mưa
Gặp ai chém nấy chẳng chừa
Làm cho thân thể nát nhừ như tương
Những hình phạt vô phương kể hết
Mỗi ngục đều có cách trị riêng
Như là xe sắt phân thây
Chim ưng mổ mắt trâu cày lưỡi le
Chớ chi đặng chết liền rất đỡ
Vì nghiệp duyên không hở hành thân
Ngày đêm chết sống muôn lần
Đến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây
Sự hành phạt tại A tỳ ngục
Rất nặng nề ngỗ nghịch song thân
Chúng ngươi đều phải ân cần
Thừa hành các việc phân trần khoảng trên
Nhứt là phải kinh này in chép
Truyền bá ra cho khắp đông tây
Như ai chép một quyển này
Ví bằng đặng thấy một vì Thế Tôn
Nếu in đặng ngàn muôn quyển ấy
Thì cũng bằng thấy Phật vạn thiên
Do theo nguyện lực tùy duyên
Chư Phật ủng hộ y như sở nguyền
Cha mẹ đặng xa miền khóc lãnh
Lại hóa sanh về cảnh thiên cung
Khi lời Phật giảng vừa xong
Khắp trong tứ chúng một lòng kính vâng
Lại phát nguyện thà thân này nát
Ra bụi tro, muôn kiếp chẳng nài
Dầu cho lưỡi kéo trâu cày
Đến trăm ngàn kiếp lời Thầy không quên
Ví như bị bá thiên đao kiếm
Khắp thân này đâm chém phân thây
Hoặc như lưới trói thân này
Trải trăm ngàn kiếp lời Thầy chẳng sai
Dầu thân này bị cưa bị chặt
Phân chia ra muôn đoạn rã rời
Đến trăm ngàn kiếp như vầy
Chúng con cũng chẳng trái lời Thầy khuyên
Đức A Nan kiền thiền đảnh lễ
Cầu Thế Tôn đặt để hiệu Kinh
Ngày sau truyền bá chúng sanh
Dễ bề phúng tụng, trì chuyên tu hành
Phật mới bảo A Nan nên biết
Quyển kinh này quả thiệt cao xa
Đặt tên “Báo Hiếu Mẹ Cha”
Cùng là “Ân Trọng” thiệt là chơn kinh
Các ngươi phải giữ gìn châu đáo
Đặng đời sau y giáo phụng hành
Sau khi Phật dạy rành rành
Bốn ban Phật tử rất mừng rất vui
Thảy một lòng vâng theo lời Phật
Và kính thành tin chắc vẹn truyền
Đồng nhau tựu tại Phật tiền
Nhất tâm đãnh lễ rồi liền lui ra.

 

Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát!

 

BÁT NHÃ TÂM KINH

(Thiền Sư Thích Nhất Hạnh dịch)

Bồ tát Quán Tự Tại, Khi quán chiếu thâm sâu, Bát Nhã Ba La Mật, Bỗng soi thấy năm uẩn, Đều không có tự tánh, Thực chứng điều ấy xong, Ngài vượt thoát tất cả, Mọi khổ đau ách nạn.

Nghe đây Xá Lợi Tử: Sắc chẳng khác gì không, Không chẳng khác gì sắc, Sắc chính thực là không, Không chính thực là sắc. Còn lại bốn uẩn kia, Cũng đều như vậy cả.

Xá Lợi Tử nghe đây: Thể mọi pháp đều không, Không sanh cũng không diệt, Không nhơ cũng không sạch, Không thêm cũng không bớt, Cho nên trong tánh Không, Không có  sắc, thọ, tưởng, Cũng không có hành thức, Không có nhãn, nhĩ, tỷ, Thiệt, thân, ý, sáu căn, Không có sắc, thanh, hương, Vị, xúc, pháp, sáu trần, Không có mười tám giới, Từ nhãn đến ý thức, Không hề có vô minh, Không có hết vô minh, Cho đến không lão tử, Cũng không hết lão tử, Không khổ, tập, diệt, đạo, Không trí cũng không đắc, Vì không có sở đắc, Khi một vị Bồ tát, Nương Diệu Pháp Trí Độ, Bát Nhã Ba La Mật, Thì tâm không chướng ngại, Vì tâm không chướng ngại, nên không có sợ hãi, Xa lìa mọi vọng tưởng, Xa lìa mọi điên đảo, Đạt Niết Bàn tuyệt đối, Chư Phật trong ba đời, Nương Diệu Pháp Trí Độ, Bát Nhã Ba La Mật, Nên đắc vô thượng giác, Vậy nên phải biết rằng, Bát Nhã Ba La Mật, Là linh chú đại thần, Là linh chú đại minh, Là linh chú vô thượng, Là linh chú siêu tuyệt, chân thật không hư vọng, Có năng lực tiêu trừ, Tất cả mọi khổ nạn, Cho nên tôi muốn thuyết, Câu thần chú Trí Độ, Bát Nhã Ba La Mật. Nói xong đức Bồ tát, Liền đọc thần chú rằng: Yết đế, Yết đế, Ba la Yết đế, Ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha.

(3 lần)

 

VÃNG SANH THẦN CHÚ

Nam mô a di đa bà dạ,

Đa tha dà đa dạ, đa địa dạ tha.

A di rị đô bà tì, a di rị đa tất đam bà tỳ,

A di rị đa, tỳ ca lan đế,

A di rị đa, tỳ ca lan đa,

Dà di nị dà da na,

Chỉ đa ca lệ, ta bà ha.            (3 lần)

***

Đệ tử chúng con từ vô thỉ, 

Gây bao tội ác bởi lầm mê, 

Đắm trong sanh tử đã bao lần,  

Nay đến trước đài vô thượng giác; 

Biển trần khổ lâu đời luân lạc, 

Với sinh linh vô số điêu tàn, 

Sống u hoài trong kiếp lầm than, 

Con lạc lõng không nhìn phương hướng, 

Đàn con dại, từ lâu vất vưởng, 

Hôm nay trông thấy đạo huy hoàng, 

Xin hướng về núp bóng từ quang, 

Lạy Phật Tổ soi đường dẫn bước. 

Bao tội khổ trong đường ác trược, 

Vì tham, sân, si, mạn gây nên, 

Con hôm nay giữ trọn lời nguyền, 

Xin sám hối để lòng thanh thoát; 

Trí Phật quang minh như nhựt nguyệt, 

Từ bi vô lượng cứu quần sinh, 

Ôi! Từ lâu ba chốn ngục hình, 

Giam giữ mãi con nguyền ra khỏi, 

Theo gót Ngài vượt qua khổ ải, 

Nương thuyền từ vượt bể ái hà, 

Nhớ lời Ngài, “Bờ giác không xa 

Hành thập thiện cho đời tươi sáng, 

Bỏ việc ác, để đời quang đãng, 

Đem phúc lành gieo rắc phàm nhân”. 

Lời ngọc vàng ghi mãi bên lòng, 

Con nguyện được sống đời rộng rãi, 

Con niệm Phật để lòng nhớ mãi, 

Hình bóng người cứu khổ chúng sanh, 

Để theo Ngài trên bước đường lành, 

Chúng con khổ, nguyền xin cứu khổ, 

Chúng con khổ, nguyền xin tự độ, 

Ngoài tham lam, sân hận ngập trời, 

Phá si mê, trí huệ tuyệt vời, 

Con nhớ Đức Di Đà Lạc quốc, 

Phật A Di Đà thân kim sắc, 

Tướng tốt quang minh tự trang nghiêm 

Năm Tu Di uyển chuyển bạch hào,  

Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc, 

Trong hào quang hóa vô số Phật, 

Vô số Bồ tát hiện ở trong, 

Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh, 

Chín phẩm sen vàng lên giải thoát, 

Quy mạng lễ A Di Đà Phật, 

Ở phương Tây thế giới an lành, 

Con nay xin phát nguyện vãng sanh, 

Cúi xin đức Từ bi tiếp độ. 

-          Nam mô Tây Phương Cực lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật.

-          Nam mô A Di Đà Phật (hoặc A Di Đà Phật). (nhiều ít tùy theo thời gian)

-          Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.

(3 lần)

-          Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát.

 (3 lần)

-          Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ tát.   (3 lần)

-          Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát.     (3 lần)

 

***

 

SÁM TỪ VÂN

 

Một lòng mỏi mệt không nài,

Cầu về Cực Lạc ngồi đài Liên hoa,

Cha lành vốn thiệt Di Đà,

Soi hào quang tịnh chói lòa thân con.

Thẩm sâu ơn Phật hằng còn,

Con nay chánh niệm lòng son một bề,

Nguyện làm nên đạo Bồ Đề,

Chuyên lòng niệm Phật cầu về Tây phương.

Phật xưa lời thệ tỏ tường,

Bốn mươi tám nguyện dẫn đường chúng sanh

Thề rằng ai phát lòng lành,

Nước ta báu vật để dành các ngươi.

Thiện nam tín nữ mỗi người,

Chí thành tưởng Phật niệm mười tiếng ra,

Ta không rước ở nước ta,

Thệ không làm Phật chắc là không sai.

Bởi vì tin tưởng Như Lai,

Có duyên tưởng Phật sống dai vô cùng.

Lời thề biển rộng mênh mông,

Nhờ ơn đức Phật thoát vòng trần lao.

Tội mòn như đá mài dao,

Phước lành thêm lớn càng cao càng dày.

Cầu cho con thác biết ngày,

Biết giờ, biết khắc biết rày tánh linh.

Cầu cho bịnh khổ khỏi mình,

Lòng không trìu mến chuyện tình thế gian

Cầu cho thần thức nhẹ nhàng,

Y như thiền định họ Bàng thuở xưa.

Đài vàng tay Phật bưng chờ,

Các ông Bồ tát bây giờ đứng trông.

Rước con thiệt đã nên đông,

Nội trong giây phút thảy đồng về Tây.

Xem trong cõi Phật tốt thay,

Hoa sen đua nở tánh nay sạch trần.

Hội nầy thấy Phật chơn thân,

Đặng nghe pháp nhiệm tâm thần sáng trưng.

Quyết tu độ chúng phàm dân

Đủ lời thệ nguyện Phật ân rộng dài,

Phật thệ chắc thật không sai.

Cầu về Tịnh Độ ai ai tin lòng,

Cầu về Tịnh Độ một nhà,

Hoa sen chín phẩm là cha mẹ mình.

Hoa nở rồi biết tánh linh,

Các ông Bồ tát bạn lành với ta.

 

HỒI HƯỚNG

Cầu siêu công đức hạnh nhiệm mầu

Thắng phước bao nhiêu con nguyện cầu

Tất cả chúng sanh trong pháp giới

Hướng về Phật Pháp tỏ đạo mầu.

Nguyện cho ba chướng tiêu tan

Phiền não dứt sạch, huệ căn sáng ngời

Cầu cho con được đời đời

Hành Bồ tát Đạo, cứu đời lầm than.

Nguyện sanh Tây Phương cõi Lạc Bang

Chín phẩm sen vàng là Cha Mẹ

Hoa nở thấy Phật ngộ vô sanh

Các vị Bồ tát bạn lành với ta.

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử và chúng sanh

Đều trọn thành Phật Đạo.

PHỤC NGUYỆN

 

Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật tác đại chứng minh, Phục nguyện: Nhứt thành thượng đạt, vạn tội băng tiêu, nguyện chư hương linh đắc độ cao siêu, kỳ gia quyến hàm triêm lợi lạc. Phổ nguyện Âm siêu Dương thới, pháp giới chúng sanh, tình dữ vô tình, tề thành Phật đạo.

Nam mô A Di Đà Phật.

 

TỰ QUY Y

Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng.  O

 Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rõ Kinh Tạng, trí tuệ như biển.  O

 Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. O

 

ĐẢNH LỄ

Đệ tử chúng con hôm nay, xin ghi nhớ công ơn quốc gia bảo hộ và Cha mẹ sinh thành, cúi đầu đảnh lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương             (1 lạy) O

 Đệ tử chúng con hôm nay, xin ghi nhớ công ơn dạy dỗ của Sư trưởng và sự tác thành của thiện hữu trí thức, cúi đầu đảnh lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương    (1 lạy) O

Đệ tử chúng con hôm nay, xin thay mặt cho tất cả chúng sanh đang đau khổ trong ba đường ác đạo, cúi đầu đảnh lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương   (1 lạy) O

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567