Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

13. Phẩm Văn Tự

07/06/201114:12(Xem: 3600)
13. Phẩm Văn Tự

KINH ÐẠI BÁTNIẾT BÀN
DịchTừ Hán Sang Việt: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
TịnhXá Minh Ðăng Quang, Hoa Kỳ Xuất Bản 1990

XIII
PHẨMVĂN TỰ THỨ MƯỜI BA

(Hánbộ phần giữa quyển thứ tám)

Phậtbảo Ca-Diếp Bồ-Tát : “Bao nhiêu những dị-luận, chú thuật,ngôn ngữ, văn tự, đều là của Phật nói, chẳng phải củangoại đạo nói”.

Ca-DiếpBồ-Tát bạch Phật : “Thế-Tôn ! Đức Như-Lai nói văn tựcăn bổn ra thế
nào?”

Phậtnói : Nầy Thiện-nam-tử ! Ban đầu nói bán tự để làm cănbổn, để ghi nhận những thật pháp, như ký luận, chú-thuật,văn chương, các ấm. Hạng phàm phu học bán tự căn bổn nầymới biết được những pháp đó là chẳng phải pháp”.

Ca-DiếpBồ-Tát bạch Phật : “Thế-Tôn ! Bán tự của Phật nóinghĩa như thế nào? “

NầyThiện-nam-tử ! Có mười bốn âm gọi là nghĩa của bán tự.

Tựở đây nói gọi là Niết-bàn. Vì là thường, nên chẳng lưuchuyển. Nếu chẳng lưu chuyển, thời là vô tận. Vô tậnchính là thân kim cang của Như-Lai.

Mườibốn âm là căn bổn của tự.

“A”(giọng ngắn), là chẳng phá hoại, chẳng phá hoại gọi làTam-bảo, dụ như chất kim-cang. Lại A là chẳng lưu-dật, chẳnglưu-dật tức là Như-Lai. Vì cửu-khiếu của Như-Lai khôngcó chảy ra, nên là chẳng lưu-dật. Lại không có cửu- khiếu,nên chẳng lưu-dật. Chẳng lưu-dật, thời là thường, thườngchính là Như-Lai. Vì thế Như-Lai không tạo-tác, nên chẳnglưu-dật. Lại A gọi là công đức, công đức tức là Tam-bảo,nên gọi là A.

A (giọngdài), gọi là A-Xà-Lê, A-Xà-Lê nghĩa là gì ? Chính là ngườiđược trong đời gọi là bực Thánh. Thánh là không chấptrước, thiểu-dục, tri-túc, thanh tịnh, có thể cứu độchúng sanh thoát khỏi biển lớn sanh tử trong ba cõi.

LạiA là chế độ, Tu-trì giới thanh tịnh, tùy thuận oai nghi.Lại A là nương nơi thánh nhơn để học oai nghi, đứng, đi,hành động, cúng dường, cung kính, lễ bái Tam bảo, thảonuôi cha mẹ. Và hàng thiện nam, cùng thiện nữ học tập Đại-thừa, thọ trì đủ cấm giới, và các vị đại Bồ-Tát,đây gọi là Thánh-nhơn.

LạiA là giáo hối. Như nói các ngươi phải làm như thế nầy,chẳng nên làm như thế nầy. Nếu có thể ngăn dứt nhữngđiều chẳng phải oai nghi, thời gọi là Thánh- nhơn. Vì thếnên gọi là A.

“Y”(giọng ngắn), Là Phật pháp. Hạnh thanh tịnh rộng lớn, trongsạch không nhơ như mặt trăng tròn, các ngươi nên làm nhưvậy, chẳng được làm như vậy, nghĩa nầy phải, nghĩa nầychẳng phải, đây là lời Phật nói, đây là lời ma nói. Vìthế nên gọi là Y.

Y (giọngdài), là Phật pháp vi diệu rất sâu khó đặng. Như Đại-Tự-Tại-Thiên, Đại-Phạm-Thiên-Vương gọi rằng tự tại. Nếu cóthể thọ trì Phật pháp, thời gọi là hộ pháp.

Lạitự-tại chỉ cho bốn bực hộ-thế, bốn bực tự-tại nầythời có thể nhiếp hộ kinh Đại-Niết-Bàn cũng có thể tựtại tuyên dương giảng thuyết.

LạiY là có thể vì chúng sanh thuyết pháp tự tại.

LạiY là vì được tự tại nên thuyết pháp tức là tu tập kinhđiển Đại-thừa Phương- Đẳng.

LạiY là dứt tật-đố, như dọn sạch cỏ rác, đều có thểlàm cho trở thành tốt lành. Vì thế nên gọi là Y.

Ưu(giọng ngắn), là tối thượng, tối thắng, tăng trưởng thượngthượng trong các kinh tức là Đại-Niết-Bàn.

LạiƯu là Như-Lai tánh, hàng Thanh-văn, Duyên-Giác chưa từng nghebiết. Như Bắc-Câu-Lô châu hơn hết các châu. Bồ-Tát nếunghe thọ được kinh nầy, thời là tối thắng, tối thượngđối với tất cả đại chúng. Vì thế nên gọi là Ưu.

Ưuưu (giọng dài), ví như sữa bò hơn hết trong các thức ăn.Như-Lai tánh cũng vậy, là tối tôn tối thượng ở trong cáckinh. Nếu có kẻ chê bai hủy báng Như-Lai tánh phải biếtngười nầy không khác với bò.

LạiƯu ưu là nói người trên đây là kẻ không có trí huệ chánhniệm, chê bai tạng Như-Lai tạng Như-Lai bí mật. Người nầyrất đáng thương xót ngoài tạng Như- Lai bí mật mà nói khôngngã, không pháp. Vì thế nên gọi là Ưu ưu.

Yênlà Phật tánh Niết-Bàn.

Dãlà nghĩa Như-Lai. Lại Dã là Như-Lai đứng, đi, cử độngkhông gì chẳng lợi ích tất cả chúng sanh, vì thế nên gọilà Dã.

Ôlà nghĩa phiền não. Phiền não gọi là những hữu lậu. ĐứcNhư-Lai dứt hẳn tất cả phiền não, vì thế nên gọi làÔ.

Pháo,là nghĩa Đại-thừa, nghĩa rốt ráo trong mười bốn âm. Kinhđiển Đại- thừa cũng vậy, là rốt ráo trong các kinh luận.Vì thế nên gọi là Pháo.

AM,có thể ngăn tất cả những vật bất tịnh, nơi trong Phậtpháp có thể bỏ tất cả vàng bạc, châu báu, vì thế nêngọi là AM.

Ă,là nghĩa thắng thừa. Kinh điển Đại-thừa Đại-Niết-Bànđây hơn hết trong các kinh vì thế nên gọi là .

CA,đối với các chúng sanh khởi lòng từ bi tưởng như con ruộtnhư La-Hầu-La làm những việc nghĩa, lành tốt đẹp, vì thếnên gọi là CA.

Khư,gọi là bạn chẳng lành. Bạn chẳng lành gọi là dơ dáy,chẳng tin tạng Như-Lai bí mật. Vì thế nên gọi là Khư.

Dà,gọi là tạng. Tức là tạng Như-Lai bí mật. Tất cả chúngsanh đều có Phật tánh vì thế nên gọi là Dà.

Rằng,là âm-vận thường hằng của Như-Lai tức là Như-Lai thườngtrụ chẳng biến đổi. Vì thế nên gọi là Rằng.

Nga,là tướng phá họai của tất cả các hành pháp.

GÍA,nghĩa kà tu. Điều-phục tất cả chúng sanh gọi đó là tu.Vì thế nên gọi là GÍA.

XA,Như-Lai che chở tất cả chúng sanh dụ như cây lọng lớn.Vì thế nên gọi là XA.

XÀ,là chánh giải thoát không có tướng gìa, vì thế nên gọilà XÀ.

THÀ,là Phiền não rậm rợp như lùm rừng vì thế nên gọi làTHÀ.

NHÃ,là nghĩa trí huệ, biết pháp tánh chơn thật. Vì thế nêngọi là NHÃ.

TRA,là ở nơi cõi Diêm-Phù-Đề thị hiện bán thân mà thuyếtpháp, ví như bán nguyệt, vì thế nên gọi là TRA.

TRẠCH,là pháp thân đầy đủ ví như mãn nguyệt, vì thế nên gọilà TRẠCH.

TRÀ,,là ngu si Tăng, chẳng biết thường, cùng với vô thườngví như trẻ nít vì thế nên gọi là TRÀ.

TỔ,là chẳng biết ơn thầy, ví như con dê đực vì thế nên gọilà TỔ.

NOA,là nghĩa chẳng phải Thánh, dụ như ngoại đạo, vì thế nêngọi là NOA.

ĐA, đức Như-Lai một lúc kia bảo các Tỳ-Kheo, các ông nên lìasự kinh sợ, sẽ vì các ông nói Pháp vi-diệu, vì thế nêngọi là ĐA.

THA,là nghĩa ngu si, chúng sanh lưu chuyển trong dòng sanh tử, nhưtằm làm kén, như bọ ngựa làm ổ. Vì thế nên gọi là THA.

ĐÀ,là bố thí lớn, tức là Đại-thừa, vì thế nên gọi làĐÀ.

ĐẠN,là khen ngợi công đức, tức là Tam-Bảo, như núi Tu-Di caovọi rộng lớn, không có nghiêng ngã cho nên gọi là ĐẠN.

NA,là Tam-Bảo an trụ không có nghiêng động, ví như ngạchcửa, nên gọi là NA.

BA,là nghĩa điên đảo, như nói, Tam-Bảo thảy đều dứt mất,nên biết người nầy là tự nghi hoặc điên đảo, vì thếnên gọi là BA.

PHẢ,là tai họa thế gian nếu nói rằng lúc tai họa thế gian khởilên thời Tam-bảo cũng dứt mất, nên biết người nầy làkẻ ngu si vô trí, trái với ý nghĩa của Thánh – nhơn. Vìthế nên gọi là PHẢ.

BÀ,là mười trí lực của Phật.

PHẠM,là gánh nặng, có thể kham-nhiệm gánh mang chánh pháp vô thượngnên biết người nầy là đại Bồ-Tát. Vì thế nên gọi làPHẠM.

MA,là chế độ nghiêm tuấn của Bồ-Tát, tức là Đại-thừa.Đại Niết-Bàn. Vì thế nên gọi là MA.

GIA,là các vị Bồ-Tát, ở mọi nơi chỗ, vì các chúng sanh nóipháp Đại- thừa. Vì thế nên gọi là GIA.

RA,là có thể phá hoại tham dục, sân- khuể, ngu si mà nói phápchơn thật. Vì thế nên gọi là RA.

LÀ,là Thanh-văn-thừa động chuyển chẳng dừng, đại-thừa bềnvững không có lay động. Bỏ Thanh-văn-thừa, siêng năng tutập vô-thượng đại-thừa. Vì thế nên gọi là LÀ.

HÒA,đức Như-Lai Thế-Tôn vì các chúng sanh rưới mưa pháp lớn,như những chú thuật, kinh sách thế gian. Vì thế nên gọilà HÒA.

SA,xa lìa ba mũi tên độc, vì thế nên gọi là SA.

SÁlà, nghĩa đầy đủ, nếu nghe được kinh Đại-Niết-Bàn nầy,thời là đã đặng nghe và thọ trì tất cả kinh điển đại-thừa,vì thế nên gọi là SÁ.

TA,vì các chúng sanh diễn nói chánh pháp làm cho lòng họ vui mừngnên gọi là TA.

HA,là tâm hoan hỷ, lạ lùng thay đức Thế-Tôn rời tất cảhành vi. Lạ thay đức Như-Lai nhập Niết Bàn. Vì thế nêngọi là HA.

LA,là nghĩa ma, vô lượng loài ma không thể hủy hoại tạng bímật của Như-Lai cho nên gọi là LA. Lại La là nhẫn đếnthị hiện tùy thuận thế gian, mà có cha mẹ vợ con. Vì thếnên gọi là LA.

LỖ,LƯU, LƯ, LÂU, bốn chữ như vậy nói có bốn nghĩa tức làPhật, Pháp, Tăng và đối pháp. Đối pháp là tùy thuận thếgian, như Đề-Bà, Đạt-Đa thị hiện phá Tăng, hóa làm cácthứ hình dáng sắc-tượng để làm duyên cho Phật chế giới.Người trí rõ thấu chẳng nên đối với việc nầy mà sanhlòng sợ sệt. Đây gọi là những hành vi tùy thuận thế gianvì thế nên gọi là LỖ, LƯU, LƯ, LÂU.

Hítkhí trời cuống lưỡi theo tiếng lỗ mũi tiếng dài, ngắn,cao, thấp theo giọng nói để giãi bày ý nghĩa đều do lưỡi,răng mà có sai khác. Những chữ nghĩa như vậy có thể làmcho chúng sanh khẩu nghiệp thanh tịnh.

Phậttánh của chúng sanh thời không phải nhờ nơi văn tự rồisau mới được thanh tịnh, vì Phật tánh vẫn thanh tịnh, nêndầu ở trong ngũ ấm, lục nhập, thập bát giới, nhưng chẳngđồng với ngũ ấm, lục nhập, thập bát giới. Vì thế nênchúng sanh đều phải quy y.

Cácvị Bồ-Tát do nơi Phật tánh mà đều coi chúng sanh bình đẳngnhư nhau không có sai khác.

Vìthế nên bán tự làm căn bổn của những kinh sách, ký-luận,văn chương.

Lạinghĩa của bán tự đều là căn bổn của phiền não ngôn thuyết.

Nghĩacủa mãn tự thời là căn bổn của tất cả thiện pháp ngônthuyết.

Vínhư trong đời, người làm ác gọi là bán nhơn, người tuhành gọi là mãn nhơn. Cũng vậy, tất cả kinh sách ký-luậnđều do bán tự làm căn bổn.

Nếunói Như-Lai là chánh giải thoát, vào trong phạm vi bán tự,lời nói nầy không đúng. Vì Như-Lai và chánh giải thoát rờidanh tự. Do đó nên đức Như-Lai đối với tất cả pháp,không chướng ngại, không đắm-trước mà đặng chơn thậtgiải thoát.

Thếnào gọi là hiểu rõ chữ nghĩa ? Có người biết đức Như-Laihiện ra nơi đời có thể dứt được bán tự, nên gọi làhiểu rõ chữ nghĩa.

Nếucó kẻ chạy theo nghĩa bán tự thời người nầy chẳng biếtđược tánh Như-Lai.

Thếnào gọi là nghĩa vô-tự ? Người gần gũi tu tập phápbất thiện, đây gọi là vô tự. Lại người vô tự dầucó thể gần gũi tu tập pháp lành, nhưng chẳng biết Như-Lai là thường cùng vô thường, hằng cùng chẳng phải hằng,chẳng biết Pháp và Tăng, luật cùng phi luật, kinh cùng chẳngphải kinh, chẳng biết lời ma, lời Phật. Nếu người khôngthể phân biệt rõ biết như vậy, thời gọi là chạy theonghĩa vô- tự.

Nayta đã nói, chạy theo nghĩa vô-tự như vậy, cùng nghĩa bán-tựvà mãn-tự, nên các ông phải rời bán-tự khéo hiểu mãn-tự.

Ca-DiếpBồ-Tát bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Chúng tôi phải nên khéohọc tự- số. Nay tôi được gặp ngay Đức Thầyvô-thượng,đã lãnh thọ những lời dạy bảo ân cần của Như-Lai.”

ĐứcPhật khen ngợi Ca-Diếp Bồ-Tát”:

Lànhthay ! Lành Thay ! Người ưa thích chánh-pháp phải học nhưvậy.”
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567