Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

150. Kinh Nói Cho Dân Nagaravinda

19/05/202011:39(Xem: 10556)
150. Kinh Nói Cho Dân Nagaravinda

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


150. Kinh NÓI CHO DÂN NAGARAVINDA

( Nagaravindeyya sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Giác Giả             

          Du hành Kô-Sa-Lá, tức là

              Vương quốc tên Kiều-Tất-La  (1)

       Vua Ba-Tư-Nặc (1) trải qua trị vì.

          Đấng Toàn Tri cùng chư Phích-Khú

          Đến trú ngụ làng Bàn-môn là

              Làng Na-Ga-Rá-Vinh-Đa.

 

       Các vị Gia Chủ cùng là Bàn-môn

          Được nghe qua : “Sa-Môn Thích-tử

          Gô-Ta-Ma, danh tự Sắc-Da  (2)

             (Tức là dòng họ Thích Ca )

       Xuất thân vương-tộc thật là hùng anh

          Từ bỏ cả gia đình, vương vị,

          Lìa hoàng cung, quyết chí xuất gia…

              Đang đến tại Kô-Sa-La

       Cùng với Đại-chúng tịnh hòa Sa-môn

          Trú tại làng Bàn-môn thôn dả

          Na-Ga-Ra-Vinh-Đá đầu thôn.

              Đã được lan đi tiếng đồn :

      ‘Đó là một vị Sa-môn hiệu là

          Gô-Ta-Ma Thích Ca Tôn-giả                            

    ___________________________

 

(1) : Vương-quốc Kosala ( Kiều-Tất-La ) dưới sự trị vì của vua

      Ba-Tư-Nặc ( Pasenadi ).        (2) : Sakya ( Thích Ca ).


 

          Đang ở đây với cả Tăng Đoàn                 

             Khoảng năm trăm vị nghiêm trang

       Trú tại làng Na-Ga-Ra-Vinh-Đà

          Những tiếng đồn lan xa từ đó :

          Sát-Đế-Lỵ  giòng họ Thích Ca

             Xuất thân vương tộc, xuất gia

       Thành đạt đạo quả cao xa nhiệm mầu.

 

          Mười tôn hiệu cao sâu diệu ngữ

          Thế Gian Giải, Điều Ngự Trượng Phu,

             Phật, Thế Tôn, Thiên Nhân Sư,

       Chánh Đẳng Chánh Giác  đại từ uy linh

          Vô Thượng Sĩ hay Minh Hạnh Túc,

          Bậc Thiện Thệ, Ứng Cúng, Như Lai.

 

             Do sự chứng ngộ tự Ngài

       So với Thiên giới, Ma loài, Phạm Thiên,

          Với các chúng chư Thiên, Nhân loại,

          Bà-la-môn với lại Sa-môn,

             Hiển thị mọi loài, tuyên ngôn

       Rồi lại tuyên thuyết Pháp môn nhiệm mầu

          Thuyết Sơ Thiện, rồi sau Trung Thiện

          Thuyết Hậu Thiện, văn nghĩa đủ đầy

             Trình bày Phạm hạnh từ đây

       Pháp thân thanh tịnh, bậc Thầy Nhân Thiên

          Thật đáng quý nếu tìm yết kiến

          Đại La-Hán thị hiện cõi đời.     

             Rồi thì Gia-chủ các nơi

       Bàn-môn (1) các vị đồng thời hợp nhau

          Họ lũ lượt đi mau đến cả 

    _______________________________

 

(1) :  Bàn-môn hay Phạm Chí  tức là Bà-la-môn. 

 

          Na-Ga-Ra-Vinh-Đá làng này

             Mong được yết kiến tại đây

       Thích Ca Tôn Giả trí tài tuyệt luân.

 

          Khi tất cả đã cùng đi đến,

          Nói những lời thân mến xã giao    

             Thân thiện chúc tụng, đón chào

       Rồi các vị ấy ngồi vào một bên

          Bà-la-môn, tuổi tên Gia chủ

          Có người thì khể thủ Sa-Môn

             Có người chúc tụng nói dồn

       Có người chỉ vái Sa-Môn rồi ngồi

          Cũng có kẻ nói trôi tên họ

          Cũng có kẻ chỉ ngó, lặng yên. 

 

              Phật nói với các vị trên :

 – “ Các Gia Chủ ! Ta nói lên điều là

          Nếu các nhà Du sĩ ngoại đạo

          Đến các ông và bảo như sau :

 

             ‘Gia Chủ ! Hạng Sa-môn nào

       Hay Phạm-chí (Bàn-môn) nào tỏ ra

          Không xứng đáng để ta cung kính,

          Tôn trọng, đính lễ hoặc cúng dàng ?’.

 

              Được hỏi vậy, hãy đàng hoàng

       Trả lời : ‘Đối với các hàng Sa-môn,

          Bà-la-môn nào đối với sắc

          Do từ mắt nhận thức, nhưng phần

             Không ly tham, không ly sân,

       Si không từ bỏ, nội tâm hoành hành

          Không tịch tịnh, sở hành thân nghiệp,

          Ngữ nghiệp và ý nghiệp lông bông

              Khi thăng bằng, khi thì không

       Những người như vậy thì không đáng gần

          Không đáng phần tôn trọng, cung kính,

          Không đáng đính lễ hoặc cúng dường.

 

              Sao vậy ? Chúng tôi vẫn thường

       Đối với các sắc, mắt thường nhận chân

          Không ly tham, ly sân, mắc dính

          Nội tâm không tịch tịnh, sở hành

              Thân, khẩu, ý-nghiệp thì hằng

       Khi thăng bằng, khi chẳng thăng bằng gì.

          Các vị chẳng hơn gì so với

          Khi nói tới thăng bằng chúng tôi’.

              Nên các Sa-môn, đồng thời

       Các vị Phạm-chí này thời đáng chê,

          Không đáng được mọi bề cung kính,

          Tôn trọng, đính lễ hoặc cúng dường.

 

              Những vị sa-môn tầm thường

       Hay các Phạm-chí tầm thường ở đây

          Với các tiếng do tai nhận thức,  

          Hương do mũi nhận thức, cùng là

              Vị do lưỡi nhận thức ra,

       Xúc do thân nhận thức và tiếp ngay

          Các pháp này do ý nhận thức.    

          Không tích cực ly tham, sân, si

              Nội tâm không tịch tịnh gì

       Sở hành thân & khẩu-nghiệp thì chông chênh

          Ý-nghiệp cũng bồng bềnh như vậy.

          Do đó các vị ấy : Sa-môn

              Hay là các Bà-la-môn

       Không đáng cung kính và tôn trọng gì

          Không nể vì, cúng dường, đảnh lễ

          Vì sao thế ? Vì các vị này

              So với chúng tôi ở đây

       Chẳng hơn gì chúng tôi đây tác thành

          Với sở hành thăng bằng tôi có

          Do vậy, các vị đó tầm thường

              Không đáng dảnh lễ, cúng dường

       Không đáng cung kính, tán dương tôn sùng.

          Các Gia Chủ ! Nói chung sự thể

          Khi được hỏi như thế điều này

              Các ông cần trả lời ngay

       Các Du sĩ ngoại đạo đây như vầy.

 

          Nhưng các Gia Chủ này ! Nếu có

          Du sĩ ngoại đạo nọ hỏi là :

 

             ‘Này các Gia Chủ ! Sao là

       Sa-môn, Phạm-chí nào mà tỏ ra

          Đáng tôn trọng, đáng mà cung kính

          Đáng cúng dường và đính lễ đây ?’.

 

              Khi các ông được hỏi vầy

       Cần trả lời họ đủ đầy như sau :

 

         ‘Sa-môn, Phạm-chí nào hiểu thật

          Sắc do mắt nhận thức, ly tham,

              Ly sân, ly si, hiền lành

       Nội tâm tịch tịnh, sở hành cả ba

          Thân & khẩu & ý-nghiệp mà giữ vững 

          Luôn thăng bằng. Với những vị này

              Đáng được tôn trọng, tỏ bày

       Cung kính, đảnh lễ, thường hay cúng dường.

          Sao vậy ? Chúng tôi thường hiểu thật

          Sắc do mắt nhận thức, nhưng vì

              Không ly được tham, sân, si                

       Nội tâm không tịch tịnh chi. Sở hành

          Thân & khẩu & ý-nghiệp lành thiếu vắng

          Khi thăng bằng, khi chẳng thăng bằng.

              Chúng tôi suy nghĩ thấy rằng :

       Các vị ấy đã thăng bằng hơn ta

          Về sở hành. Chính là như vậy.

 

          Do đó các vị ấy : Sa-môn

              Hay Bà-là-môn đáng tôn

       Đáng được dảnh lễ, kính tôn, cúng dường’.

 

          Sa-môn, Phạm-chí thường đối với

          Các tiếng nhận thức bởi do tai,

              Các hương do mũi nhận ngay,

       Các vị do lưỡi. Xúc này do thân,

          Các pháp hằng do ý nhận thức…

          Thì lập tức ly tham, sân, si

              Nội tâm tịch tịnh mọi thì

       Sở hành thân, khẩu, ý gì nghiệp nhân

          Được thăng bằng. Đó là các vị

          Sa-môn hay Phạm-chí thanh lương

              Đáng được tôn trọng, cúng dường

       Cung kính, lễ bái, tán dương mọi thời.

 

          Vì sao vậy ? Chúng tôi đối với 

          Lục trần bởi lục căn nhận ra

              Không ly tham, sân, si – và

       Nội tâm không tịch tịnh, mà phan duyên

          Sở hành riêng thân & khẩu & ý-nghiệp

          Khi thăng bằng rồi tiếp bập bềnh.

              Nhận thấy các vị nêu trên

       Hơn chúng tôi hẳn dựa trên sở hành.

          Do vậy, những tịnh thanh Phạm-chí

          Hay Sa-môn là vị an tường

              Đáng được tôn trọng, cúng dường

       Cung kính, lễ bái, tán dương mọi thời’.

 

          Hãy trả lời như vậy nếu họ

          Du sĩ ngoại đạo đó hỏi ra.

 

              Này các Gia Chủ ! Nếu mà

       Du sĩ ngoại đạo hỏi qua vấn đề :

        “ Do căn cứ gì về các vị

          Sa-môn hay Phạm-chí kể qua

              Do truyền thống gì, nói ra :

      ‘Chắc chắn các Tôn-giả là ly tham,

          Trên đường điều phục tham, hoặc giả

          Ly sân, si – đang, đã trên đường

              Điều phục sân, si kiên cường ? ”.

 

       Khi được hỏi vậy, tận tường đáp ra : 

        “ Các vị sống nơi xa vắng lặng

          Các khu rừng im ắng, tịnh nhàn

              Tại những chỗ ấy trú an

       Không sắc do mắt sẵn sàng nhận ra

          Để có thể thấy qua sắc ấy

          Sau khi thấy, thích thú trong lòng.

              Không có các tiếng, cũng không

       Có hương, vị, xúc do trong lục trần

          Nhận thức phần thấy, nghe, ngửi, nếm,

          Xúc do thân… nhận thức trải qua

              Sau khi đã nhận thức ra

       Có lòng thích thú, nhưng mà nguyên nhân

          Chỗ ấy thì lục trần không có

          Để cho lục căn đó duyên ngay.

 

              Chư Hiền ! Do căn cứ này,          

       Do những truyền thống như vầy, chúng tôi

          Đã có lời nói về các vị

          Sa-môn hay Phạm-chí tịnh hiền :

            ‘Thật vậy, chư Tôn-giả trên

       Ly tham hay đã đi trên con đàng

          Nhiếp phục tham, hay ly sân bực,

          Đang trên đường nhiếp phục sân ni.

              Ly si hay là đang đi

       Trên con đường nhiếp phục si đêm ngày’.

          Khi được hỏi điều này, Gia Chủ !

          Hãy trả lời đầy đủ như vầy ”.

 

              Khi nghe Thế Tôn trình bày

       Các vị Gia Chủ nơi đây, cùng là

          Bàn-môn Na-Ga-Ra-Vinh-Đá

          Thưa với đấng Giác Giả Phật Đà :

 

        – “ Thưa Tôn Giả Gô-Ta-Ma !

       Thật là hy hữu ! Thật là diệu vi !

          Nghe Ngài giảng, cực kỳ hoan hỷ

          Cả Đại Chúng tâm trí hân hoan

              Vi diệu thay những lời vàng !

       Như người dựng đứng vật đang ngã nằm

          Chỉ hướng kẻ sai lầm lạc lối

          Đem đèn sáng vào tối như bưng

              Để ai có mắt mở bừng

       Có thể thấy được sáng trưng sắc màu

          Cũng như thế, nhiệm mầu Chánh Pháp

          Được Thế Tôn giải đáp, trình bày

              Chúng con quy ngưỡng từ nay

       Quy y Đại Giác, nương ngay Pháp mầu,

          Quy y Tăng thanh cao đức cả

          Nối tiếp nhau hoằng hóa Pháp môn

              Mong Thế Tôn nhận chúng con

       Được làm đệ tử, vun trồng thiện duyên

          Xin phát nguyện vẹn tuyền ngưỡng phục

          Kể từ nay đến lúc mạng chung

              Tín thành nương đấng Đại Hùng

       Thực hành Giáo Pháp muôn trùng cao thâm ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*  *  *

 

(  Chấm dứt Kinh số 150 :  NÓI CHO DÂN NAGARAVINDA    –  NAGARAVINDEYYA  Sutta  )  

 

   ___________________________________

 

           “ Ye dhammà hetuppabhavà

             Tesam hetum Tathàgato

             Àha tesan ca yo nirodho

             Evam vàdì Mahà Samano ”.

 

          “ Vạn pháp tùng duyên sinh

             Diệc tùng nhân duyên diệt

             Ngã Phật Đại Sa Môn  

             Thường tác như thị thuyết ”.

 

   ‘Vạn pháp theo nhân duyên sinh’,

  ‘Theo nhân duyên diệt’ – đinh ninh điều này.    

   Bậc Đại Sa Môn Như Lai

  Thường dạy như vậy ; chính Thầy của tôi. 

 

   *  Chú thích xuất xứ về bài kệ này :

 

       Bài kệ do Tôn-giả Thánh Tăng A-La-Hán ASAJI  (A-Xà-

    Chí ), vị trẻ tuổi nhất trong năm vị nhóm Kiều-Trần-Như ,

    bạn đồng tu và cũng là năm Đệ tử đầu tiên của Đức Phật

    đọc lên cho Ngài Xá-Lợi-Phất khi được hỏi trong lúc Tôn-

    giả đang thường lệ khất thực tại Thành Vương Xá . 

 

           Nguyên thời bấy giờ , Ngài Xá-Lợi-Phất ( Sariputta )

    cùng với người bạn thân Mục-Kiền-Liên ( Moggalanna )

    là hai  thanh niên Bà-La-Môn rất nổi tiếng đương thời vì

    sức học uyên thâm, tinh thông Tam Vệ-Đà .Nhưng cả hai

    vẫn chưa thỏa mãn với những gì Tam Vệ-Đà  chuyển  tải ,

    nên ước hẹn với nhau: Ai tìm được vị Đạo Sư khả kính có

    thể giải hết những nghi ngờ trong các học thuyết cổ kim ,

    thì phải báo với người kia để cùng qui ngưỡng tu tập .

 

         Khi lần đầu tiên thấy vị Sa-Môn nghiêm tịnh, thần thái

    an nhiên tự tại đang thứ đệ khất thực tại Thành Vương-Xá

    Ngài Xá-Lợi-Phất bỗng sinh lòng kính mộ, muốn thưa hỏi

    về đường lối tu hành của Tôn-giả, nhưng tôn trọng vì Tôn

    giả đang khất thực , nên Ngài cung kính đi theo sau . Khi

    thấy vật thực đã đủ , Tôn-giả Asaji tìm một gốc cây, ngồi

    xuống thọ thực. Sau khi dùng xong, Ngài Xá-Lợi-Phất đã

    thi lễ và đặt câu hỏi với Tôn-giả : Ai là Thầy của Ngài,và

    vị ấy đã dạy như thế nào ?

 

         Tôn-giả  Asaji  đã đọc lên bài kệ  cô đọng và hàm súc

    ấy . Vừa nghe xong, Ngài Xá-Lợi-Phất  vô cùng  hoan hỷ

    hoát nhiên đại ngộ . Ngài cáo từ  sau khi  hỏi nơi  trụ xứ

    của Đức Phật , rồi vội vàng đi tìm Ngài Mục Kiền Liên ,

    đọc lại nguyên văn bài kệ ấy . Ngài  Mục-Kiền-Liên  khi

    nghe xong, lập tức đắc Tu-đà-hoàn quả . Cả hai cùng đi

    đến Trúc Lâm Tinh-Xá ( Veluvanavihàra ) đảnh lễ  Phật

    và cầu xin xuất gia trong Giáo Pháp của Đấng Thế Tôn.

    Sau khi cả hai lần lượt đắc Thánh quả  A-La-Hán , Đức

    Phật tuyên bố hai Ngài là Hai Đại Đệ Tử của Phật :

    Ngài Xá-Lợi-Phất là Đệ nhất Trí Tuệ và Ngài Mục-Kiền-

    Liên là Đệ nhất Thần Thông .

151. Kinh KHẤT THỰC THANH TỊNH

( Pindapàtapàrisuddhi sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Giác Giả

          Trú Vương-Xá – Ra-Chá-Ga-Ha  (1)

              Tinh Xá Vê-Lu-Vá-Na  (1)

      (Trúc Lâm Tinh Xá cũng là nơi đây)

          Gần nơi này, nuôi nhiều sóc lạ

         (Ka-Lanh-Đá-Ka-Ní-Vá-Pa).  (2)

 

              Tôn-giả Sa-Ri-Pút-Ta   (3)

      (Hay Xá-Lợi-Phất cũng là ngài đây)

          Buổi chiều, ngài sau khi Thiền định

          Đứng dậy tính đi đến Thế Tôn,

              Khi đến, đảnh lễ Thế Tôn

       Một bên ngồi xuống. Thế Tôn hỏi là :

 

    – “ Này Sa-Ri-Pút-Ta ! Ta thấy

          Các căn ông hết thảy đều là

              Rất sáng suốt, còn sắc da

       Của ông thanh tịnh, thật là sáng trong.

          Xá-Lợi-Phất ! Nay ông an trú

    __________________________

 

(1) : Thành Vương-Xá  – Rajagaha. Vị Vua trị vì Bimbisara (Tần-

     Bà-Sa-La hay Bình Sa Vương) đã dâng cúng Đức Phật khu

    vườn trúc ngự uyển để kiến tạo thành Veluvanavihàra  – Trúc

    Lâm Tinh Xá.            (2) : Nơi nuôi sóc Kalandakanivapa.

(3) : Tôn-giả Sariputta  – Xá-Lợi-Phất hay Xá-Lợi-Tử, vị Đại-đệ-

    tử của Phật, thường được tôn xưng là vị “Tướng quân Chánh

 

 

(1) : Khái niệm Không – Suññatà bắt nguồn do từ Không – Suñña

      (Pali).    Còn Tánh Không – Sùnyatà (Sanskrit) được sử dụng

      rộng rãi trong kinh điển Đại thừa Phật-giáo.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/09/2010(Xem: 10896)
Văn Tế Thiên Thái Trí Giả Tác giả Đại Sư Tuân Thức Việt dịch: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm *** 1. Nhất tâm đảnh lễ Thiên Thai Trí Giả trong núi Đại Tô tu Tam Muội Pháp Hoa Tâm tâm tịnh thường lại qua pháp giới Như mặt nhật trên không chẳng trụ không Ba ngàn thật tướng tức khắc viên thông Tám vạn trần lao đều đồng chân tịnh. Xưa hội kiến Linh Sơn còn hoài niệm Nay toàn thân bảo tháp thấy rõ ràng Nếu chẳng cùng sư Nam Nhạc tương phùng Ai biết được tướng thâm sâu thiền định?
06/09/2010(Xem: 10719)
Trước khi viết loạt bài thơ trong phần 1 (Hương Đạo Pháp) của thi tập này, tôi đã có gần 900 bài thơ, xoay quanh các đề tài như quê hương đất nước, lịch sử, địa lý, giáo dục, cuộc sống hiện thực, triết lý sắc không, nhân sinh quan - vũ trụ quan Phật giáo, xưng tán Phật và Bồ-tát….. Tôi đang tạm thời dừng lại công việc sáng tác và chuẩn bị làm một số công việc chuyên và không chuyên khác. Nhưng chợt nhớ lại nhiều năm trước đây, thỉnh thoảng có trao đổi với vài vị thân, quen, những người đã đọc gần hết thơ tôi. Họ nói, trong số gần 900 bài thơ đã đọc qua, tuy cũng có nhiều bài khuyến tu, nhiều bài mang tính giáo lý sâu sắc, có khả năng tịnh hóa lòng người, tuy nhiên những bài đó nằm tản mạn chưa tập trung. Hơn nữa cũng cần một loạt bài có nội dung giáo lý căn bản với thuật ngữ, danh từ, pháp số thông dụng, nếu có thể cho thành một tập riêng biệt thì càng tốt.
06/09/2010(Xem: 9059)
Phù Sinh Nhiễm Thể Ca, TNT Mặc Giang
06/09/2010(Xem: 9610)
Mùa hạ mà hơi lạnh xông ướp cả gian phòng. Tắt điện, thắp lên ngọn bạch lạp cắm vào một quả thông, nhựa sống vẫn còn mơn man đâu đây, nồng nàn. Mấy mươi năm hiên ngang sừng sững, một cơn bão thổi qua, thông bật gốc ngã quỵ, vương vãi xác xơ. Có gì tồn tại mãi đâu! Rồi tất cả, cũng bị thiêu rụi như ngọn bạch lạp đang cháy dỡ…
06/09/2010(Xem: 11302)
Được sinh ra, lớn lên, đi vào trường học, đi vào trường đời, rồi dong ruổi muôn phương, và dù có ra sao, Quê Hương vẫn Còn Đó ! Từ thuở phôi sinh xuất hiện Lạc Hồng, Hùng Vương - Văn Lang, xuyên qua chiều dài lịch sử, cấu thành mảnh dư đồ Chữ S, với Bắc Nam Trung gấm vóc, với núi non hùng vĩ, biển rộng sông dài, với những tên gọi thân yêu Huế - Sài Gòn - Hà Nội, với từng thời kỳ dù có qua đi, không gian dù có biến đổi, và dù cho vật đổi sao dời, Quê Hương vẫn Còn Đó !
06/09/2010(Xem: 9371)
Người phương tây thường nói “trẻ ước mơ, già hoài niệm”, nhưng sau khi đọc xong tập thơ Hành Trình Quê Mẹ, tôi thấy tác giả, một nhà thơ ở tuổi tri thiên mạng, nhưng lại luôn ghi lòng tạc dạ, nâng niu trân trọng các giá trị được tài bồi bởi tiền nhân; tác giả còn hoài bảo, mơ vọng một hướng sống thiết thực cho người Việt Nam nói chung. Với Mặc Giang, hoài niệm và ước mơ nào có hạn cuộc bởi tuổi tác. Hoài niệm và ước mơ ấy đã trở thành chất liệu tài bồi cho dòng thơ với chủ đề Hành Trình Quê Mẹ tuôn chảy không mỏi mệt, để nguồn thơ của thi nhân vốn nhào nặn từ cuộc sống, trở lại phụng sự cuộc sống ấy, trở thành niềm tự hào kiêu hãnh của trào lưu thi ca hiện đại.
06/09/2010(Xem: 11770)
Qua năm mươi năm, tiếp bước tiền nhân tôi trót vào con đường khảo cứu lịch sử văn học dân tộc. Tôi đã đọc rất nhiều thơ và cũng làm được một số việc cho các thế hệ thơ ca. Nhưng khi may mắn được đọc tập thơ Quê Hương Nguồn Cội (và khoảng 650 bài khác nữa) của nhà thơ Mặc Giang, một tập thơ chan chứa tình quê hương dân tộc, với tâm hồn bao la, sâu rộng bằng trái tim và dòng máu của người Việt Nam, tập thơ đã làm cho tôi hòa đồng trong tác phẩm không còn phân biệt được tâm tư và cảm giác của mình và chỉ còn là một con tim, một dòng máu chung của dân tộc trộn lẫn vào sự cấu tạo chung trải qua mấy ngàn năm lịch sử của núi sông.
06/09/2010(Xem: 9469)
Nhịp Bước Đăng Trình, TNT Mặc Giang
01/09/2010(Xem: 12410)
Theo dòng diễn tiến của những cuộc du hóa qua những quốc gia trên thế giới, giàu và nghèo, Đông và Tây, chúng tôi đã từng thấy con người say sưa với niềm vuisướng, và những con người khổ đau. Sự phát triển của khoa học kỷ thuật dường như có đạt được thêm một ít đường nét, một số cải tiến; phát triển thườngcó nghĩa thêm ít nhiều những tòa nhà ở thành thị.
31/08/2010(Xem: 11363)
Em có về cồn phượng là tuyển tập truyện ngắn của nhà văn Hoàng Ngọc Hiển.(Tên thật Trần Ngọc Hiển) Sinh năm 1942 tại Phú Lý, Hà Nam. Di cư vào Sài Gòn năm 1954. Cựu học sinh Chu Văn An. Sinh viên Luật khoa (dở dang). Sinh viên ban Triết Tây, Đại học Văn Khoa (cũng dở dang). Tốt nghiệp khả năng Sư Phạm Trung Cấp, ban Văn Chương. Giáo sư văn chương các trường trung học Côn Sơn, Ngô Quyền, Minh Đức, Trí Đức Sài Gòn và Kỷ Thuật Biên Hòa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]