TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO
TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH
( Majjhima Nikàya )
Tập II
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli
Chuyển thể Thơ :
Giới Lạc MAI LẠC HỒNG tự TUỆ NGHIÊM
( Huynh Trưởng Cấp Tấn - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )
Email : [email protected]
38. Đại Kinh ĐOẠN TẬN ÁI
( Mahàtanhàsankhaya sutta )
Như vậy, tôi nghe :
Một thời, đức Thế Tôn Thiện Thệ
Trú tại thành Xá-Vệ an hòa
Tinh Xá Chê-Tá-Vá-Na (1)
Do Cấp-Cô-Độc tín gia cúng dường.
Lúc ấy, thường khởi tâm quái dị
Vị Tỷ Kheo Sa-Tí ( xuất thân
Con người đánh cá ) này hằng
Khởi ác-tà-kiến, nói rằng theo ông
Đã hiểu pháp Thế Tôn giảng thuyết
Thì Thức này luân chuyển, ruổi dong
Thế nhưng đổi khác thì không ”.
Số đông Phích-Khú họ đồng nghe qua :
Vị Tỷ Kheo tên là Sa-Tí
____________________________________
( 1) : Jetavanavihàra :Kỳ Viên hay Kỳ Hoàn Tinh Xá , do
Trưởng Giả Cấp-Cô-Độc (Anathapindika – tên thật là SUDATTA
-Tu-Đạt-Đa ) mua lại từ khu vườn của Thái Tử Kỳ Đà ( Jeta ) gần
Thành Xá Vệ (Savatthi ) dâng choĐức Phật .Tại đây đức Phật đã
nhập hạ nhiều lần và nhiều Kinh quan trọng đã được Phật thuyết
ra tại đây . Vì Trưởng Giả Cấp-Cô-Độc đã dùng vàng lót trên
mặt đấtđể mua cho được khu vườn theo lời thách của Thái Tử Kỳ
Đà , nên chùa này còn được gọi là Bố Kim Tự ( chùa trải vàng ).
Cảm phục tấm lòng nhiệt tâm vì đạo của Trưởng Giả , Thái Tử
Jeta hoan hỷ cúng toàn bộ cây trái trong vườn đến Phật và Tăng
Chúng, nên ngôi chùa thường được gọi với danh xưng : Kỳ Thọ
Cấp Cô Độc Viên ( vườn Cấp-Cô-Độc , cây Kỳ-Đà ).
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 38 :ĐOẠN TẬN ÁI * MLH – 014
Khởi tà kiến quái dị như vầy.
Các vị Phích-Khú (1) đến ngay
Chỗ Sa-Tí Tỷ Kheo đây, hỏi rằng :
– “ Này Sa-Tí ! (2) Phải chăng Hiền-giả
Ác-tà-kiến ông đã khởi ra :
‘Theo tôi hiểu pháp Phật Đà
Ngài đã thuyết giảng : Thức là ruổi dong
Thường luân chuyển, nhưng không đổi khác’ ”.
– “ Thưa Chư Hiền ! Quả thật đúng là
Tôi hiểu pháp của Phật Đà
Như Chư Hiền đã nói ra vừa rồi ”.
– “ Hiền-giả ! Chớ dùng lời xuyên tạc
Điều thuyết giảng của bậc Thế Tôn
Nếu ác-tà-kiến bảo tồn
Là điều không tốt, mãi còn danh nhơ !
Thế Tôn không bao giờ nói vậy
Ngài đã dạy nhiều cách trải qua
Nói Thức do ‘duyên’ khởi ra
Thức không hiện khởi nếu mà không ‘duyên ”.
Các Tỷ Kheo luân phiên lý luận
Và nạn vấn Tỷ Kheo Sa-Ti
Nhưng vị Tỷ Kheo Sa-Ti
Cứng đầu, tà kiến chấp trì khư khư :
– “ Thật sự vậy, này chư Hiền-giả !
Đúng như là tôi đã nói ra :
‘Theo tôi hiểu pháp Phật Đà
____________________________________
( ) : Bhikkhu , âm là Tỳ-Khưu hay Tỷ Kheo, nghĩa là Khất-sĩ.
(2) : Sati , con của người đánh cá , xuất gia làm một Tỷ Kheo.
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 38 :ĐOẠN TẬN ÁI * MLH – 015
Ngài đã thuyết giảng : Thức là ruổi dong
Thường luân chuyển, nhưng không đổi khác ”.
\
Rốt cuộc, các Phích-Khú cùng đi
Không thể làm cho Sa-Ti
( Con người đánh cá ) trừ đi kiến tà
Nên các vị liền qua tịnh thất
Của Đức Phật, đảnh lễ Như Lai
Rồi cùng ngồi xuống bên Ngài
Các vị Phích-Khú vào ngay vấn đề :
– “ Bạch Thế Tôn ! Nói về một vị
Là Tỷ Kheo Sa-Tí – xuất thân
Con người đánh cá – này hằng
Khởi ác-tà-kiến, nói rằng ‘theo ông
Đã hiểu pháp Thế Tôn giảng thuyết
Thì Thức này luân chuyển, ruổi dong
Thế nhưng đổi khác thì không’.
Tăng Chúng nhiều vị cũng đồng nghe qua.
Nghe như vậy về tà kiến ấy
Chúng con đã đến đấy tức thì
Nói với Tỷ Kheo Sa-Ti :
‘ Chớ xuyên tạc Phật, bất nghì, danh nhơ !
Thế Tôn không bao giờ nói vậy
Ngài đã dạy nhiều cách trải qua
Nói Thức do ‘duyên’ khởi ra
Thức không hiện khởi nếu mà không ‘duyên’.
Dù chúng con luân phiên lý luận
Và nạn vấn Tỷ Kheo Sa-Ti
Nhưng vị Tỷ Kheo Sa-Ti
Cứng đầu, tà kiến chấp trì khư khư.
Bạch Thế Tôn ! Chính từ chuyện thế
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 38 :ĐOẠN TẬN ÁI * MLH – 016
Bởi chúng con không thể đổi thay
Ác tà kiến của vị này
Nên chúng con đến trình bày chuyện trên ”.
Đức Thế Tôn liền lên tiếng gọi
Một Tỷ Kheo và nói ôn hòa :
– “ Này Tỷ Kheo ! Nhân danh Ta
Hãy đi đến vị tên là Sa-Ti
Bảo với y Đạo Sư cần gặp ”.
Tỷ Kheo ấy đi gấp, gặp y
Bảo rằng : “Hiền-giả Sa-Ti !
Đạo Sư cho gọi Sư đi gặp Ngài ”.
Tỷ Kheo Sa-Ti này nghe thế
Liền đi đến, đảnh lễ Phật Đà
Ngồi xuống một bên, không xa
Thế Tôn liền hỏi : “Ông Sa-Ti này !
Có thật chăng ông đây đã khởi
Ác tà kiến, nói với gần xa :
‘Theo tôi hiểu pháp Phật Đà
Ngài đã thuyết giảng : Thức là ruổi dong
Thường luân chuyển, nhưng không đổi khác ”.
– “ Bạch Đại Giác ! Thật sự như vầy ”.
– “ Sa-Tí ! Ra sao Thức này ? ”
– “ Bạch đấng Thiện Thệ ! Con đây hiểu là
Chính Thức ấy nói ra cảm thọ
Và thọ lãnh chỗ đó, chỗ này
Đưa đến có kết quả ngay
Hành động thiện ác ; như vầy hiểu qua ”.
– “ Ông thật là mê mờ, ngu dại !
Vì ai khiến ông lại hiểu là
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 38 :ĐOẠN TẬN ÁI * MLH – 017
Pháp Ta đã thuyết giảng ra
Ông hiểu sai lạc, thật là ngu ngơ.
Này kẻ quá mê mờ, tối dạ !
Có phải chăng Ta đã nói là :
‘Chính Thức do duyên khởi ra
Thức không hiện khởi nếu mà không duyên’.
Ông không những đảo điên xuyên tạc
Tự chấp thủ lầm lạc, vô minh,
Ông còn tự phá hoại mình
Tạo nhiều tổn đức, khiến mình tội nhơ.
Này kẻ quá mê mờ, tăm tối !
Như vậy sẽ đưa tới khổ đau
Đưa đến bất hạnh dài lâu ”.
Rồi Thế Tôn lại hướng vào Chư Tăng :
– “ Chúng Tăng ! Các ông hằng suy nghĩ
Về chuyện của Sa-Tí ra sao ?
Có thể khởi lên chút nào
Một tia lửa sáng gì vào Pháp không ?
Hay vào trong Luật này không vậy ? ”.
– “ Bạch Thế Tôn ! Điều ấy bó tay !
Làm sao có thể có đây ?
Không thể có được điều này đi theo ”.
Được nghe vậy, Tỷ Kheo Sa-Tí
Trước đến giờ ông chỉ ngồi ngây
Im lặng, xấu hổ, thẹn thay !
Lo âu, câm miệng, rụt vai cúi đầu.
Đức Thế Tôn nhìn vào sự kiện
Sa-Tí hiện hổ thẹn, rụt vai
Bảo rằng : “ Kẻ mê mờ này !
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 38 :ĐOẠN TẬN ÁI * MLH – 018
Người ta sẽ biết ông đây hành tà
Qua chính ông ; Ác tà kiến đó
Ở đây, Ta hỏi rõ Chúng Tăng :
– Hỡi này chư Tỷ Kheo Tăng !
Có hiểu pháp của Ta hằng thuyết ra
Giống như là Sa-Ti hiểu đó ?
Không những nó xuyên tạc Như Lai
Vì tự chấp thủ lầm sai
Mà còn tổn đức, hại ngay chính mình ? ”.
– “ Bạch Thế Tôn ! Thật tình xin đáp
Chúng con không hiểu pháp mê tà
Hiểu rằng : Thức do ‘duyên’ ra
Thức không hiện khởi nếu mà không ‘duyên’.
Đức Thế Tôn đã tuyên thuyết đó
Nhiều pháp môn nói rõ điều này ”.
– “ Này các Tỷ Kheo ! Lành thay !
Các ông đã hiểu đủ đầy pháp siêu
Ta giảng thường nêu điều căn dặn :
‘Chúng Tăng phải nghiêm cẩn hiểu qua :
Chính Thức do ‘duyên’ ra
Thức không hiện khởi nếu mà không duyên’.
Nhưng Sa-Tí vì thiên chấp bậy
Nên nghĩ quấy, tự phát biểu là :
‘Tôi hiểu pháp của Phật Đà
Ngài đã thuyết giảng : Thức là ruổi dong
Thường luân chuyển, nhưng không đổi khác’
Thật lầm lạc, tổn đức tràn trề
Đưa đến bất hạnh mọi bề
Lâu dài đau khổ kẻ mê mờ này ”.
* * *
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 38 :ĐOẠN TẬN ÁI * MLH – 019
( Duyên sanh Thức )
Các Tỷ Kheo ! Như vầy hiểu rõ
Do ‘duyên’ có mà Thức sinh lên
Tùy theo duyên, Thức có tên :
Do duyên mắt&các sắc trên sẵn dành
Nên Thức sanh, có tên ‘nhãn thức’.
Có ‘nhĩ thức’, do tiếng và tai.
Do các hương và mũi này
Thức sanh, ‘tỷ thức’ có ngay tên liền.
Rồi do duyên lưỡi và các vị
Thức sanh, ‘thiệt thức’ chỉ tên ngay.
Do duyên thân, các xúc này,
Thức sanh, ‘thân thức’ như vầy có nên.
Do duyên ý, dựa trên các pháp
Thức sanh, ‘ý thức’ hạp tên này.
Này các Tỷ Kheo ! Ở đây
Do duyên nào lửa sanh ngay tức thì ?
Lửa có tên là tùy duyên vậy,
Như khi thấy duyên củi, lửa sanh
Đó là ‘lửa củi’ gọi rành.
Duyên dăm bào khiến lửa sanh, gọi là
‘Lửa dăm bào’. Hoặc qua duyên cỏ
Lửa sanh, gọi ‘lửa cỏ’ cho nhanh.
Duyên phân bò khiến lửa sanh
‘Lửa phân bò’ đó tạo thành nên danh.
Duyên trấu nên lửa sanh : ‘lửa trấu’.
Duyên đống rác, nhiên hậu lửa sanh
Gọi ‘lửa đống rác’ tên dành.
Cũng vậy, này các tịnh lành Tỷ Kheo !
Do duyên theo, Thức sanh như vậy
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 38 :ĐOẠN TẬN ÁI * MLH – 020
Và Thức ấy, tên tùy ‘duyên’ cần
Mắt, tai, mũi, lưỡi, ý. thân,
Sắc, tiếng, hương, vị, xúc phần pháp đây,
Như Lai luôn trình bày như vậy,
Đã chỉ dạy, nhiều cách trình bày.
( Các câu hỏi về sanh vật )
Này các Tỷ Kheo ! Ở đây
Các ông thấy sinh vật này hay không ? ”.
– “ Bạch Thế Tôn ! Chúng con có thấy ”.
– “ Và có thấy sự tác thành trong
Sinh vật do món ăn không ? ”.
– “ Bạch Thế Tôn ! Chúng con đồng thấy qua ”.
– “ Các ông có thấy ra sự việc
Do đoạn diệt các món ăn này
Sinh vật cũng bị diệt ngay ? ”.
– “ Thưa ! Chúng con cũng điều đây thấy rành ”.
– “ Vì do dự nên sanh nghi-hoặc
Có thể không có mặt sinh linh ? ”.
– “ Có vậy, bạch Đấng Siêu Minh ! ”.
– “ Vì sự do dự, mặc tình nghi nan,
Sự tác thành món ăn nói đó
Có thể có hay không ở đây ? ”.
– “ Có vậy, bạch Đức Như Lai ! ”.
– “ Do dự, nghi-hoặc sinh ngay khi cần
Do đoạn diệt món ăn như vậy
Sinh vật ấy đoạn diệt hay không ? ”.
– “ Có vậy, bạch Đức Thế Tôn ! ”.
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 38 :ĐOẠN TẬN ÁI * MLH – 021
– “ Nếu thấy như thật, tâm hồn chánh chân
Với trí tuệ , nghi nan được diệt
Sinh vật thiệt có thể vắng không ? ”.
– “ Có vậy, bạch Đức Thế Tôn ! ”.
– “ Nếu như thật thấy trong vòng pháp siêu
Sự nghi hoặc diệt tiêu tan tác
Sự tác thành của các món ăn
Có thể có mặt hay chăng ? ”.
– “ Có vậy, bạch Đấng Giác Chân siêu trần ! ”.
– “ Nếu như thật thấy bằng chánh trí
Sự nghi hoặc này bị diệt phăng
Do đoạn diệt các món ăn
Sinh vật có bị diệt dần hay không ? ”.
– “ Bạch Thế Tôn ! Điều này Có vậy ”.
– “ Sinh vật ấy có mặt, vậy thì
Các ông không nghi-hoặc gì ? ”.
– “ Có vậy, bạch Đấng Toàn Tri siêu trần ! ”.
– “ Sự tác thành món ăn nói đó
Ông không có nghi hoặc phải không ? ”.
– “ Có vậy, bạch Đức Thế Tôn ! ”.
– “ Do sự đoạn diệt không còn món ăn
Sinh vật hằng có thể bị diệt,
Các ông thiệt không có nghi đây ? ”.
– “ Có vậy, bạch Đấng Như Lai ! ”.
– “ Các Tỷ Kheo ! Sinh vật này có ra
Có phải là các ông khéo thấy
Nhờ nương lấy trí tuệ chánh chân ? ”.
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 38 :ĐOẠN TẬN ÁI * MLH – 022
– “ Có vậy, bạch Đấng Giác Chân ! ”.
– “ Sinh vật hiện hữu nhờ phần thức ăn
Đã tác thành. Các ông khéo thấy
Nhờ nương lấy trí tuệ sáng lòa ? ”.
– “ Có vậy, bạch Đức Phật Đà ! ”.
– “ Do đoạn diệt món ăn mà xảy ra
Có thể là sinh vật bị diệt
Các ông thiệt khéo thấy tỏ thông
Nhờ chánh trí tuệ phải không ? ”.
– “ Có vậy, bạch Đức Thế Tôn Trọn Lành ! ”.
– “ Với trí tuệ tịnh thanh như vậy
Được như vậy trong sáng thanh cao
Nếu các ông chấp trước vào,
Lấy làm hãnh diện, truy cầu, linh tinh
Rồi xem là của mình, như thế
Thì các ông có thể hiểu về
Pháp được ví như chiếc bè
Giảng dạy để vượt sông mê hiểm nghèo,
Không phải để mang đeo nắm lấy ? ”.
– “ Không phải là như vậy, bạch Ngài ! ”.
– “ Các Tỷ Kheo ! Nên hiểu ngay
Đối với tri kiến đủ đầy tịnh thanh
Được làm cho trong lành sáng tỏ
Nếu không có sự chấp trước nào,
Không hãnh diện, không truy cầu,
Không xem là của mình, dầu ra sao
Có thể ông hiểu mau ví dụ
Là của mình, ví dụ của mình
Có thể ví dụ Pháp minh
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 38 :ĐOẠN TẬN ÁI * MLH – 023
Là chiếc bè để đưa mình qua sông
Được giảng dạy để mong vượt bể
Không phải để nắm lấy, chấp trì ? ”.
– “ Có vậy, bạch Đấng Toàn Tri !
( Chúng con hiểu rõ những gì dạy răn ”).
( Thức ăn và duyên khởi )
– “ Các Tỷ Kheo ! Thức ăn bốn thứ
Giúp an trú các loại hữu tình
Đã sanh, cho được an bình
Hay phò trợ các hữu tình sẽ sanh.
Thế nào bốn thức ăn như thế ?
Đoàn thực(1) thô hoặc tế đầu tiên,
Thứ hai Xúc thực(1) làm duyên,
Rồi Tư niệm thực(1) đi liền thứ ba,
Tiếp theo đó, bốn là Thức thực(1).
Các Tỷ Kheo ! Bốn thức ăn này
Lấy gì làm nhân duyên đây ?
Lấy gì làm tập khởi ngay khi cần ?
Lấy gì làm nguyên nhân, sanh chúng ?
Chúng sử dụng Ái làm nhân duyên
Làm tập khởi, sanh chúng liền,
Hoặc là lấy Ái làm nguyên nhân này.
___________________________
(1) : Bốn loại thức ăn : Chữ ‘Thực’ ở đây xin hiểu là ‘nguồn nuôi
dưỡng’ cho dễ hiểu hơn :
– Đoàn-thực ( thô hay tế - Àlàra olàriko và sukhumo ) : Thức ăn
là nguồn nuôi dưỡng cho thân thể ( sắc pháp ) .
– Xúc-thực (Phasso ): Cảm thọ là nguồn nuôi dưỡng cho sáu Xúc.
– Tư-niệm-thực (Manosancetanà ) : Tam giới (3 cõi ) là nguồn
nuôi dưỡng cho Tư-niệm .
– Thức-thực (Vinnanam ): Tái sinh là nguồn nuôi dưỡng cho Thức.
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 38 :ĐOẠN TẬN ÁI * MLH – 024
Rồi Ái đây lấy gì sử dụng
Làm tập khởi, sanh chúng, nhân duyên ?
Lấy gì làm nguyên nhân nên ?
Lấy Thọ tập khởi, nhân duyên các phần
Lấy Thọ làm nguyên nhân, sanh chúng.
Rồi Thọ cũng lấy Xúc này liền
Làm tập khởi, làm nhân duyên
Xúc làm sanh chúng, làm tuyền nguyên nhân.
Sáu Nhập làm nhân duyên cho Xúc
Làm tập khởi, sanh chúng, nguyên nhân.
Danh Sắc duyên Sáu Nhập trần
Thức duyên Danh Sắc, mọi phần liên quan.
Hành duyên Thức tiếp sang như vậy
Vô Minh lại tiếp tục duyên Hành
Vô minh làm tập khởi nhanh
Cũng làm sanh chúng, làm thành nguyên nhân.
( Duyên theo chiều thuận )
Các Tỷ Kheo ! Thuận phần tính tới
Chính Vô Minh duyên với Hành đây
Rồi Hành lại duyên Thức ngay
Thức duyên Danh Sắc như vầy triền miên
Danh Sắc này lại duyên Sáu Nhập
Tiếp, Sáu Nhập duyên Xúc đảo điên
Rồi Xúc duyên Thọ chẳng riêng
Thọ kia duyên Ái, Ái duyên Thủ liền
Thủ duyên Hữu, Hữu duyên Sanh tới
Sanh duyên với Già, chết, sầu, bi
Khổ, ưu, não hiện hữu, thì
Tập khởi khổ uẩn, danh tri đến liền.
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 38 :ĐOẠN TẬN ÁI * MLH – 025
( Duyên theo chiều nghịch )
Trước đã nói : Sanh duyên Già, chết
( Do duyên Sanh – Già, chết khởi ra )
Các ông ! Nghe Ta hỏi qua :
Sanh duyên Già, chết dần dà phải không ?
Hay nghĩa trong thế nào có khác ? ”.
– “ Bạch Đại Giác ! Chúng con hiểu rằng :
Sanh duyên Già, Chết thường hằng ”.
– “ Như trước đã nói : ‘Hữu hằng duyên Sanh,
Thủ duyên Hữu, Ái dành duyên Thủ,
Thọ duyên Ái trong đủ mọi thì
Xúc duyên Thọ, đến cấp kỳ
Sáu Nhập duyên Xúc, sở tri rõ ràng
Danh Sắc lại duyên sang Sáu Nhập,
Thức duyên Danh Sắc gấp, quá trình
Rồi Hành duyên Thức, đinh ninh
Và trước đã nói : ‘Vô Minh duyên Hành’.
Các Tỷ Kheo ! Tâm lành suy nghĩ
Các điều trên nghĩa lý ở trong
Lần lượt duyên nhau phải không ?
Hay là nghĩa khác, hiểu thông thế nào ? ”.
– “ Bạch Thế Tôn ! Nói vào sự việc
Chúng con hiểu chi tiết, đinh ninh :
Chắc chắn là Hữu duyên Sinh
Rồi Thủ duyên Hữu, quá trình vận xoay
Ái duyên Thủ, Thọ này duyên Ái,
Xúc duyên Thọ, như vậy tường tri
Sáu Nhập duyên Xúc tức thì
Danh Sắc duyên Sáu Nhập khi cần liền.
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 38 :ĐOẠN TẬN ÁI * MLH – 026
Rồi tiếp đó, Thức duyên Danh Sắc,
Hành có mặt, duyên Thức phát sinh,
Rồi Thức duyên bởi Vô Minh
Chúng con hiểu rõ, đinh ninh như vầy ”.
( Tóm lược về Duyên )
Các Tỷ Kheo ! Các ông nói vậy
Ta cũng nói như vậy chẳng sai :
‘Có kia do có cái này
Cái kia sanh nên cái này cũng sanh’.
Như Vô Minh duyên Hành lập tức (*)
Hành duyên Thức (*), Thức duyên Sắc Danh
Danh Sắc (*) duyên Sáu Nhập nhanh
Sáu Nhập duyên Xúc (*), ngọn ngành hiểu qua.
Xúc duyên Thọ, Thọ đà duyên Ái, (*)
Ái duyên Thủ (*), nắm lấy giữ gìn
Thủ duyên Hữu, Hữu duyên Sinh (*)
Sinh duyên Già, chết (*), não kinh, khổ, sầu,
Và ưu, bi … mau mau sanh khởi
Như vậy, sự tập khởi có ngay
Của toàn bộ khổ uẩn này.
( Này Tỷ Kheo Chúng ! Như vầy căn nguyên
Chính Thập nhị nhân duyên sai sử
Khiến chúng sinh sanh tử luân hồi ).
Do Vô Minh đã diệt rồi
Xả ly một cách thảnh thơi, hoàn toàn
_____________________________
(*) : 12 nhân duyên : 1/ Vô minh (Avijjà ), 2/ Hành (Sankhàra ),
3/ Thức (Vinnàna ), 4/ Danh Sắc (Nàma - Rùpa ), 5/ Lục nhập
(Salàyatana ), 6/ Xúc (Phassa ), 7/ Thọ (Vedàna ), 8/ Ái (Tanhà ),
9/ Thủ (Upàdàna ), 10/ Hữu (Bhava ), 11) Sanh (Jàti ), 12) Lão
Tử (Jaràmarana ) .
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 38 :ĐOẠN TẬN ÁI * MLH – 027
( Diệt theo chiều thuận )
Cho nên Hành dễ dàng bị diệt.
Do Hành diệt, Thức diệt tiếp sau,
Thức diệt, Danh Sắc diệt mau
Danh Sắc diệt, Sáu Nhập nào còn đâu !
Sáu Nhập diệt, theo sau Xúc diệt,
Do Xúc diệt nên Thọ diệt ngay,
Thọ diệt, Ái diệt chẳng sai,
Do Ái diệt, Thủ ở đây diệt liền.
Do Thủ diệt, đến phiên Hữu diệt
Do Hữu diệt, Sanh diệt tức thì
Do Sanh diệt, đưa tới chi ?
Già, chết, khổ, não, ưu, bi … diệt cùng.
Vậy nói chung là sự đoạn diệt
Toàn bộ khổ uẩn – biết, thấy ngay.
( Diệt theo chiều nghịch )
Như vậy, các Tỷ Kheo này !
Như Ta trước đã điều đây nói rằng :
Do Sanh diệt nên hằng đưa tới
Sanh diệt khỏi, Già’ chết diệt nhanh.
Do từ sự diệt của Sanh
Nên Già, chết diệt đành rành phải không ?
Hay thế nào nghĩa trong điều ấy ? ”.
– “ Bạch Thế Tôn ! Sanh ấy diệt ngay
Nên Già, chết diệt như vầy.
Theo chúng con hiểu nghĩa này tường tri ”.
– “ Trước đã nói : ‘Do vì Hữu diệt
Nên Sanh diệt, hiểu rõ ở đây.
Thủ diệt nên Hữu diệt vầy
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 38 :ĐOẠN TẬN ÁI * MLH – 028
Do Ái diệt, Thủ diệt ngay tức thì.
Do Thọ diệt, Ái thì cũng diệt,
Do Xúc diệt nên Thọ diệt đi.
Do Sáu Nhập diệt, có chi ?
Đưa đến Xúc diệt, liễu tri điều này.
Do Danh Sắc diệt ngay như vậy
Sáu Nhập ấy cũng diệt hiện tiền,
Thức diệt, Danh Sắc diệt liền,
Hành diệt – Thức diệt, tương liên như vầy.
Vô Minh diệt, Hành này cũng diệt.
Các Tỷ Kheo ! Do diệt Vô Minh
Có phải Hành diệt thật tình ?
Hay có nghĩa khác thành hình ra sao ? ”.
– “ Bạch Phật ! Chúng con mau hiểu rõ :
‘Vô Minh diệt, Hành đó diệt ngay’
Đối với chúng con ở đây
Hiểu : Vô Minh diệt, Hành này diệt theo ! ”.
( Tóm lược về Diệt )
Các Tỷ Kheo ! Lành thay điều ấy !
Các ông nói như vậy giống Ta :
‘Cái này không có, nên là
Kia không có’, có này mà có kia
Cái này diệt, cái kia cũng diệt’
Như Vô Minh ấy diệt cấp kỳ
Cho nên Hành bị diệt đi.
Do Hành diệt nên Thức thì diệt ngay,
Thức diệt, Danh Sắc này cũng diệt,
Danh Sắc diệt, Lục Nhập diệt đồng.
Sáu Nhập diệt, Xúc diệt xong,
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 38 :ĐOẠN TẬN ÁI * MLH – 029
Xúc diệt nên Thọ diệt trong chu kỳ.
Do Thọ diệt, Ái thì diệt tất,
Do Ái diệt, Thủ ắt diệt mau,
Thủ diệt, Hữu diệt tiếp sau
Hữu diệt, Sanh diệt không lâu xa gì.
Do Sanh diệt, tức thì Già, chết,
Sầu, ưu, não diệt hết ở đây.
Vậy là sự đoạn diệt ngay
Toàn bộ khổ uẩn ; như vầy hiểu thông.
( Tri kiến về Ngã )
Các Tỷ Kheo ! Các ông đã biết
Đã thấy, cần phân biệt chẳng lơi
Còn chạy theo quá khứ thời ?
Có còn suy nghĩ ( xa vời viễn vông ) :
‘Thời quá khứ ta không có mặt ?
Hay quá khứ có mặt ta sao ?
Có mặt quá khứ thế nào ?
Quá khứ hình vóc thế nào của ta ?
Trước kia ta ra sao có mặt ?
Thế nào ta có mặt thời qua ? ”.
– “ Thưa không , bạch Đức Phật Đà !”.
– “ Các ông thấy, biết gần xa như vầy
Còn chạy theo vị lai thời đó
Nghĩ : ‘Ta có ở vị lai không ?
Vị lai không có ở trong ?
Thế nào có mặt ở vòng vị lai ?
Hình vóc thời vị lai sao vậy ?
Trước khi ấy thì ta là gì ?
Vị lai có mặt như chi ? ”.
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 38 :ĐOẠN TẬN ÁI * MLH – 030
– “ Thưa không , bạch Chánh Biến Tri Phật Đà ! ”.
– “ Các Tỷ Kheo ! Biết qua như vậy
Thấy như vậy một cách đinh ninh
Có nghi ngờ gì về mình
Trong thời hiện tại cái nhìn ra sao ?
‘Ta có mặt thế nào hiện tại ?
Không có mặt hiện tại hay sao ?
Ta có mặt như thế nào ?
Có mặt, hình vóc ra sao điều này ?
Hữu tình đây từ đâu mà đến ?
Sau khi đến, nơi nào sẽ đi ? ”.
– “ Bạch Phật ! Không nghi ngờ gì ”.
– “ Các ông thấy, biết những gì như trên,
Các ông có nói lên, đại để :
‘Vì tôn trọng, kính nể Đạo Sư
Vì sự kính trọng Đạo Sư
Nên chúng ta nói chính tử kính tôn ? ”.
– “ Bạch Thế Tôn ! Thật không phải vậy ”.
– “ Các Tỷ Kheo ! Biết, thấy trải qua
Thì các ông có nói ra :
‘Một Sa-môn nói với ta rõ mà !
Với chúng ta, các Sa-môn khác
Cũng nói vậy về các điều này,
Còn chúng ta không nói vầy’ ?”.
– “ Thưa không , bạch Đức tròn đầy Trí Bi ! ”.
– “ Các Tỷ Kheo ! Sau khi thấy, biết
Các ông thiệt có muốn tìm mong
Một vị Đạo Sư khác không ? ”.
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 38 :ĐOẠN TẬN ÁI * MLH – 031
– “ Bạch Đấng Đại Giác ! Thật không như vầy ”.
– “ Các Tỷ Kheo ! Điều đây thấy, biết
Các ông thiệt muốn trở lui sang
Giới cấm, tế tự đàn tràng
Của các tục tử trong hàng Sa-môn
Hay Bàn-môn, vì suy nghĩ chúng
Là căn bản. Có đúng hay không ? ”.
– “ Thưa không, bạch Đức Thế Tôn ! ”.
– “ Như vậy có phải các ông nghĩ là :
Chỉ nói ra những gì đích thực
Tự thấy, biết, ý thức phải không ? ”.
– “ Thưa vâng, bạch Đức Thế Tôn ! ”.
– “ Lành thay ! Này các Sa-Môn nơi này !
Các ông được Như Lai giới thiệu
Thấy, biết, hiểu Chánh Pháp minh quang
‘Thiết thực’, ‘vượt ngoài thời gian’,
‘Đến để mà thấy’, hoàn toàn chánh chân
‘Có khả năng hướng thượng’, giải thoát
‘Kẻ trí giác thâm hiểu tự thân’.
Tất cả những gì chánh chân
Đã được nói đến do phần ‘duyên’ đây.
( Vòng luân hồi : từ sanh đến trưởng thành )
Các Tỷ Kheo ! Trình bày tuần tự
Có ba sự hòa hợp phát sinh
Mà một bào thai thành hình :
– Cha mẹ có sự thuận tình giao hoan,
– Mẹ không đang thời kỳ trứng rụng,
– Hương-ấm cũng không có hiện tiền,
Như vậy là không đủ duyên
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 38 :ĐOẠN TẬN ÁI * MLH – 032
Bào thai không thể tự nhiên thành hình.
– Cha mẹ có thuận tình giao hợp,
– Thời thích hợp có thể thụ thai,
– Nhưng hương-ấm (1) không có ngay,
Bào thai không thể dịp đây thành hình.
– Cha mẹ có thuận tình giao hợp,
– Thời thích hợp có thể thụ thai,
– Hiện tiền hương-ấm có ngay,
Bào thai mới được duyên may thành hình.
Rồi người mẹ hành trình chín tháng
Mang bào thai, bao quản nguy nan
Lo âu với gánh nặng mang
Sau chín & mười tháng lo toan giữ gìn
Khi vượt cạn một mình đau đớn
Lo âu lớn gánh nặng kéo trì,
Sinh xong, nuôi dưỡng hài nhi
Với sữa là máu chuyển di của mình.
Các Tỷ Kheo ! Phải hình dung rõ :
Luật bậc Thánh, sữa đó chính là
Máu của bà mẹ biến ra.
Khi đứa trẻ ấy trải qua tháng ngày
Lớn lên ngay, các căn thuần thục
Thường mọi lúc chơi những trò chơi
Dành cho đứa trẻ thiếu thời :
Chơi với cày nhỏ hay chơi lộn nhào,
Chơi chong chóng hay đào cát đá,
Chơi đồ đong bằng lá, chơi khăng,
_______________________
(1) : Hương ấm ( Gandhabba (?): Đây là danh từ rất khó
định nghĩa . Ở đây có thể tạm hiểu là ‘Thức tái sinh’.
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 38 :ĐOẠN TẬN ÁI * MLH – 033
Xe con, cung nhỏ, đo cân …
Khi lớn lên nữa, các căn thuần rồi,
Thọ hưởng nơi năm phần dục lạc :
Sắc do mắt nhận thức mọi điều
Sắc này khả hỷ, yêu kiều,
Khả ái, khả lạc, mỹ miều biết bao !
Hấp dẫn, kích thích vào lòng dục.
Rồi tiếp tục, nhận thức do tai
Tiếng khoan, tiếng nhặt thật hay,
Âm thanh trầm bổng nghe hoài vui thay !
Các hương này do mũi nhận thức
Mùi thơm tho sực nức đáng yêu.
Lưỡi nhận thức Vị sớm chiều
Ngọt, mặn, cay, đắng… nhưng nhiều kẻ mê.
Xúc mọi bề do thân cảm xúc
Thật mềm mại, gợi dục mọi điều,
Khả lạc, khả hỷ, đáng yêu
Kích thích lòng dục càng nhiều,càng tăng.
( Tiếp tục luân hồi )
Thấy sắc bằng mắt mình tỏ rõ
Thì người đó tham ái khởi ra
Đối với sắc đẹp mặn mà,
Ghét bỏ với sắc xấu xa, trái lòng.
Người đó sống niệm không an trú
Trên thân, tự tâm nhỏ mọn đi,
Y không như thật tự tri
Tâm & Tuệ-giải-thoát ; mà vì nhờ đây
Bất thiện pháp người này tạo đó
Được trừ diệt, không có dư tàn,
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 38 :ĐOẠN TẬN ÁI * MLH – 034
Nên với thuận, nghịch, sơ, thân,
Cảm thọ nào khởi các phần : khổ, vui,
Hay không khổ không vui cảm thọ,
Thì người đó tùy hỷ, hoan nghênh
Tham-trước các cảm thọ trên
Dẫn đến dục hỷ nổi lên trong lòng
Tâm dục hỷ ở trong cảm thọ
Tức là có chấp thủ đinh ninh.
Do duyên Thủ nên Hữu sinh
Do duyên Hữu nên Sanh sinh-khởi liền,
Rồi do duyên Sanh nên Lão, tử
Khổ, ưu, bi, não… tự sinh ra,
Vậy sự tập khởi đó là
Của toàn khổ uẩn trải qua như vầy.
Khi người đó dùng tai nghe tiếng,
Dùng phương tiện mũi để ngửi hương,
Nếm vị với lưỡi tinh tường,
Người đó cảm xúc thường thường với thân,
Nhận thức các pháp trần với ý,
Tham ái chỉ thứ tốt sáu trần,
Ghét các thứ xấu. Trên thân
Niệm không an trú, tâm dần nhỏ đi.
Người đó không tuệ tri như thật
Đến giải thoát, hai mặt tròn đầy :
Tâm & Tuệ giải thoát như vầy
Ác bất thiện pháp nhờ đây được trừ,
Không còn có tàn dư trầm tích
Nên đối diện thuận, nghịch, thân, sơ,
Cảm thọ nào khởi bấy giờ
Lạc thọ, khổ thọ thừa cơ bén mùi
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 38 :ĐOẠN TẬN ÁI * MLH – 035
Hay không khổ không vui cảm thọ,
Thì người đó tùy hỷ, hoan nghênh
Tham-trước các cảm thọ trên
Dẫn đến dục hỷ nổi lên trong lòng
Tâm dục hỷ ở trong cảm thọ
Tức là có chấp thủ đinh ninh.
Do duyên Thủ nên Hữu sinh
Do duyên Hữu nên Sanh sinh-khởi liền,
Rồi do duyên Sanh nên Lão, tử
Khổ, ưu, bi, não… tự sinh ra,
Vậy sự tập khởi đó là
Của toàn khổ uẩn trải qua như vầy.
( Đoạn tận luân hồi : Sự tu tập )
Các Tỷ Kheo ! Đời này xuất hiện
Bậc Như Lai phương tiện độ sinh
Với mười tôn hiệu quang minh
Người đời kính ngưỡng, thật tình tôn xưng
Bậc Trí tuệ, tâm chân diệu ngữ
Thế Gian Giải, Điều Ngự Trượng Phu(1)
Phật, Thế Tôn, Thiên Nhân Sư(1)
Chánh Đẳng Chánh Giác (1), đại từ uy linh
Vô Thượng Sĩ hay Minh Hạnh Túc(1)
Bậc Thiện Thệ, Ứng Cúng (1), Như Lai
Do sự chứng ngộ tự ngài
_______________________________
(1) : Mười danh hiệu người đời xưng tụng Đức Phật : Araham (Ứng Cúng), Sammàsambuddho (Chánh Biến Tri hay Chánh Đẳng Chánh Giác) , Vijjàcaranasampanno (Minh Hạnh Túc) , Sugato (Thiện Thệ), Lokavidù (Thế Gian Giải), Anuttaro (Vô Thượng Sĩ), Purisadammasàrathi (Điều Ngự Trượng Phu), Satthàdevamanus-sànam (Thiên Nhân Sư), Buddha (Phật-Đà), Bhagavà (Thế Tôn) .
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 38 :ĐOẠN TẬN ÁI * MLH – 036
Rồi lại tuyên thuyết, hoằng khai Pháp mầu
Thuyết Sơ Thiện rồi sau, Trung Thiện
Thuyết Hậu Thiện, văn nghĩa đủ đầy
Truyền dạy Phạm hạnh từ đây
Pháp thân thanh tịnh, bậc Thầy Nhân Thiên.
Có gia trưởng trong miền thôn ấp
Hoặc một người giai cấp tiện dân
Duyên lành nghe pháp thậm thâm
Sinh lòng ngưỡng mộ, kiếm tầm chân như
Tự suy nghĩ : ‘Đời như cát bụi
Sống dẫy đầy trói buộc não phiền
Luân hồi sinh tử triền miên
Đời sống xuất thế lụy phiền tránh xa
Ta nay phải xuất gia viên mãn
Đời xuất gia phóng khoáng hư không
Cuộc sống thế gian chất chồng
Phạm hạnh thanh tịnh thật không dễ gìn’.
Y trưởng dưỡng đức tin vững chắc
Cạo râu tóc, thân đắp ca-sa
Biệt gia quyến, bỏ cửa nhà
Ba y một bát, xuất gia tu hành.
Sống chế ngự, thực hành phạm hạnh
Giữ oai nghi, tự tánh sáng lòa
Giới bổn Pa-Tí-Mốc-Kha (1)
Thọ trì nghiêm mật, tránh xa điều tà
Thân, khẩu, ý từ hòa thanh tịnh
Giới cụ túc, thức tỉnh nhiếp tâm
Biết tri túc, giữ các căn
_______________________________
(1) : Patimokkhasanvarasìla : Biệt biệt giải thoát thu thúc giới
( trong Tứ Thanh Tịnh Giới của Luật Tỷ Kheo ).
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 38 :ĐOẠN TẬN ÁI * MLH – 037
Là Sa-môn hạnh, pháp đăng soi đường.
Các Tỷ Kheo ! Sao tường thuần thục
Là Tỷ Kheo cụ túc giới điều ?
Phải thấy nguy hiểm mọi chiều
Lỗi lầm nhỏ nhặt triệt tiêu dần dần
Bỏ trượng kiếm, sát sanh tránh hẳn
Đại từ tâm, bình đẳng, nhẫn kham
Có tâm hổ thẹn là Tàm
Ghê sợ là Quý, không làm nghiệp sai
Hành phạm hạnh, bản lai thanh tịnh
Không trộm cướp, chẳng tính so đo
Quyết không lấy của không cho
Đó là giới hạnh, thước đo Giới điều.
Vị Tỷ Kheo mong điều giải thoát
Không tà hạnh. dâm ác thấp hèn
Không nói dối trá đua chen
Không nói hai lưỡi chê khen dối lòng
Không lường gạt cũng không ly gián
Sống hòa hợp giữa nạn rẽ chia
Sống đời chân thật sớm khuya
Tránh lời độc ác nọ kia lỗi lầm.
Là giới hạnh trong tầm Giới Luật
Vị Tỷ Kheo thuần thục thọ trì.
Cả đến hạt giống, cỏ cây
Cũng đều thấm nhuận đức dày Sa-Môn
Chỉ ăn ngọ, sống tồn tri túc
Không múa hát, trang sức, kịch ca
Sống thanh đạm, tránh xa hoa
Không dùng hương liệu, dầu thoa thơm nồng
Lại cũng không giường nằm cao rộng
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 38 :ĐOẠN TẬN ÁI * MLH – 038
Cũng không nhận thịt sống, bạc vàng
Nô tỳ trai, gái – từ nan
Đàn bà, con gái – không màng lưu tâm,
Cừu, dê, heo, gia cầm, voi, ngựa,
Ruộng, đất, vườn, nhà cửa… không cần
Từ bỏ gian lận bằng cân
Từ bỏ môi giới, không phần gian tham
Không áp bức, không làm thương tổn
Không câu thúc, vây khổn, cừu thù
Đó là giới hạnh đặc thù
Nằm trong Giới Luật chân tu giữ gìn.
Vị Tỷ Kheo đức tin chân chánh
Y Giới Luật, tự tánh thọ trì.
Các Tỷ Kheo ! Hãy tường tri
Vị Tỷ Kheo ấy uy nghi, vô cầu
Được hộ trì nhờ vào Giới Luật
Tâm kiên cương chẳng chút sợ gì
Như Sát-Đế-Lỵ(1) một vì
Làm lễ quán đảnh (2), trị vì giang san
Đã hàng phục lân bang thù địch
Không còn sợ đột kích biên phòng
Tỷ Kheo chân chánh cũng không
_____________________________
(1) : Theo Bà-La-Môn, xã hội chia ra 4 giai cấp bất di bất dịch : Bà-la-môn (Brahmana -giai cấp đứng đầu giữ phần nghi lễ, tế tự), Sát-Đế-Lỵ ( Khattiyà - giai cấp Vua chúa, quan quyền ) ; Giai cấp Phệ-Xá (Vaisa - Thương gia) . Giai cấp cuối cùng bị áp chế, khinh rẻ nhất là Thủ-Đà-La Suddà ) hay Chiên-Đà-La ( Candala ) .
(2) : Theo tập tục Ấn-Độ xưa , khi chính thức tuyên cáo địa vị kế thừa của Thái Tử để chuẩn bị lên ngôi Vua , hoàng tộc lấy nước 4 biền rưới lên đỉnh (đảnh) đầu Thái-tử., Do đó Thái-tử cũng được gọi là“Quán đỉnh vương tử ”. Điều đó có ý rằng sau này vị vương tử có thể thống trị toàn bộ lãnh thổ và nhân dân trong bốn biển .
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 38 :ĐOẠN TẬN ÁI * MLH – 039
Sợ hãi tội lỗi, vì lòng thẳng ngay
Giới Luật ấy đủ đầy, cao quý
Hưởng lạc thọ, hoan hỷ nội tâm.
Các Tỷ Kheo ! Hãy lắng tâm
Tỷ Kheo bảo hộ các căn thế nào ?
Mắt thấy sắc nhưng nào giữ tướng
Tướng chung, riêng chẳng nắm giữ gì
Mắt không chế ngự tại chi
Khiến bất thiện pháp ưu bi khởi vào
Nên tham ái dâng trào đủ thứ
Vị Tỷ Kheo chế ngự nguyên nhân
Hộ trì tích cực nhãn căn
Cũng như hộ trợ nhĩ căn cũng cần
Tai nghe tiếng hay thân cảm xúc
Mũi ngửi hương, nhận thức : ý căn
Tỷ Kheo hộ trì các căn
Nên hưởng lạc thọ, nội tâm sáng ngời.
Các Tỷ Kheo ! Thời thời tĩnh giác
Giữ chánh niệm, an lạc tự tâm
Tỷ Kheo đi, đứng, ngồi, nằm
Đều giữ tỉnh giác, trong tâm biết liền
Khi tới, lui ; biết mình lui, tới
Khi nhìn quanh, biết bởi mình làm
Hay khi co duỗi tay chân
Mặc y, đi bát hay cần uống ăn
Khi nhai, nuốt, nói năng – tỉnh giác
Đại, tiểu tiện, nhổ khạc – biết mình
Như vậy Tỷ Kheo tâm minh
Chánh niệm tỉnh giác, an bình, thanh cao.
Các Tỷ Kheo ! Thế nào biết đủ ?
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 38 :ĐOẠN TẬN ÁI * MLH – 040
Hạnh Tri Túc luôn giữ chỉnh tề
Bằng lòng ba y để che
Bình bát khất thực dễ bề cúng dâng
Y và bát luôn gần bên cạnh
Cũng như chim, đôi cánh luôn mang
Đó là Tỷ Kheo giới toàn
Giữ hạnh Biết Đủ, không màng nhiều hơn
Thánh Giới uẩn chánh chơn cao quý
Với các căn nhiếp kỹ, hộ trì
Chánh niệm tỉnh giác trí tri
Thêm hạnh tri túc, còn gì quý hơn.
Trang bị đủ những gì cao quý
Vị ấy lựa vị trí lặng yên
Như rừng tĩnh mịch, lâm viên
Gốc cây, khe núi hoặc liền tha ma
Thời ngọ thực đã qua, rửa bát
Ngồi kiết già, an lạc, thẳng lưng
An trú chánh niệm, lâng lâng
Tham ái từ bỏ, thoát dần ái tham
Bỏ sân hận, từ tâm thương xót
Chúng hữu tình mỗi một cảnh riêng
Từ bỏ hôn trầm, thụy miên
Thoát ly khỏi chướng thụy miên, hôn trầm
Giữ tịnh tâm, hướng về ánh sáng
Cùng chánh niệm, tỉnh giác, tâm yên
Gột rửa chúng, được an nhiên
Từ bỏ trạo cử thì liền tịnh thân
Hết nghi ngờ, phân vân lưỡng lự
Gột rửa hết trạo cử, hôn trầm
Gột rửa tham ái, hận sân
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 38 :ĐOẠN TẬN ÁI * MLH – 041
Đối với thiện pháp, tinh cần hành theo.
Các Tỷ Kheo ! Chính nhờ quán niệm
Vị Tỷ Kheo tự nghiệm, tự tri
Năm Triền Cái (1) chưa xả ly
Làm tâm ô nhiễm, yếu đi trí liền.
Năm triền-cái căn nguyên chưa diệt
Vị Tỷ Kheo mãi miết tinh cần.
Chừng nào khi quán tự thân
Với năm triền cái đã cần xả ly
Do xả ly, tức thì hoan hỷ
Do hoan hỷ, tâm được khinh an
Lạc thọ sinh do khinh an
Đạt được như thế, tâm an định liền
Ly ác pháp, Tỷ Kheo ly dục
Chứng, trú mục Nhất Thiền âm thầm
Trạng thái hỷ lạc tự tâm
Sinh do ly dục , với Tầm, Tứ chuyên
Đệ Nhất Thiền, Tỷ Kheo thấm nhuận
Như tẩm ướt, sung mãn, tràn nhanh
Hỷ lạc do ly dục sanh
Với Tầm, với Tứ(2) thấm quanh tâm mình.
Các Tỷ Kheo ! Hành trình tiếp nữa
Vị Tỷ Kheo vào cửa định thiền
___________________________________
(1) : Năm Triền Cái ( Nivarana ) :
a/ Tham dục – Kàmacchanda . b/ Oán hận – Vyàpàda .
c/ Hôn trầm, dã dượi ( Thina – middha )
d/ Phóng dật, lo âu ( Uddhacca – Kukkucca )
e/ Hoài nghi ( Vicikicchà ).
(2) : Năm Chi Thiền :
a/ Tầm ( Vitakka ). b/ Tứ [sát] ( Vicàra ). c/ Phỉ Lạc ( Piti ).
d/ An Lạc ( Sukha ). e/ Định ( Ekaggata – Nhất điểm tâm ).
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 38 :ĐOẠN TẬN ÁI * MLH – 042
Diệt Tầm, diệt Tứ được yên
Thì chứng và trú vào Thiền thứ Hai
Một trạng thái ra ngoài Tầm, Tứ
Do Định sinh, nội tỉnh nhất tâm
Tỷ Kheo hỷ lạc thấm nhuần
Hỷ lạc tẩm ướt khắp thân của mình.
Các Tỷ Kheo ! Hành trình tiếp nữa
Vị Tỷ Kheo vào cửa thiền tâm
Ly hỷ trú xả, nhất tâm
Chánh niệm tỉnh giác, thì thân cảm liền
Sự lạc thọ, thánh hiền gọi đủ
Là ‘xả niệm lạc trú’ tâm chuyên
Chứng và an trú Tam Thiền
Tỷ Kheo đẫm ướt, thấm nhuần tự thân
Sự lạc thọ, không cần có hỷ
Lạc thọ ấy thấm kỹ toàn thân
Không một chỗ nào trên thân
Mà Lạc thọ đó không phần thấm vô.
Các Tỷ Kheo ! Lộ đồ tiếp nữa
Vị Tỷ Kheo vào cửa định thiền
Xả lạc, xả khổ ; tâm yên
Diệt hỷ, ưu ; cảm thọ - liền trước đây
Chứng, trú ngay vào Thiền Đệ Tứ
Không khổ, lạc ; không giữ niệm nào
Thuần tịnh, trong sáng tiêu dao
Tỷ Kheo vị ấy thanh cao thoát trần.
( Đoạn tận luân hồi : Giải thoát rốt ráo )
Khi vị ấy thấy bằng đôi mắt
Vị ấy thật không tham ái gì
Đối với sắc đẹp những chi,
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 38 :ĐOẠN TẬN ÁI * MLH – 043
Không ghét sắc xấu, ố tỳ, tàn phai,
Rồi vị này dùng tai nghe tiếng,
Dùng phương tiện mũi để ngửi hương,
Nếm vị với lưỡi tinh tường,
Người đó cảm xúc thường thường với thân,
Nhận thức các pháp trần với ý,
Không tham ái xúc, vị, thinh, hương,
Và pháp … đẹp tốt vô lường
Không ghét thứ xấu, tệ thường, tàn phai,
Trên thân đây có niệm an trú,
Tâm vô lượng đầy đủ uy nghi
Vị ấy như thật tuệ tri
Tâm & tuệ-giải-thoát ; mà vì nhờ đây
Bất thiện pháp vị này tạo đó
Được trừ diệt, không có dư tàn,
Từ bỏ thuận, nghịch, sơ, thân,
Cảm thọ nào khởi về phần : khổ, vui
Hay không khổ không vui cảm thọ,
Y không có tùy hỷ, hoan nghênh,
Không tham-trước cảm thọ trên
Nếu có dục hỷ đối bên thọ này,
Dục hỷ đây được mau trừ diệt
Dục hỷ diệt, nên Thủ diệt luôn,
Thủ diệt, Hữu diệt tận nguồn,
Hữu diệt nên Sanh diệt buông dứt liền,
Do Sanh diệt cho nên Lão, tử,
Sầu, ưu, não, khổ… tự diệt ngay.
Như vậy sự đoạn diệt đây
Của toàn khổ uẩn như vầy hiểu thông.
Các Tỷ Kheo ! Các ông tinh tấn
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 38 :ĐOẠN TẬN ÁI * MLH – 044
Pháp ‘Ái tận giải thoát’ thọ trì
Ta nói tóm tắt thuận tùy
Nhưng nhớ : Phích-Khú Sa-Ti ông này
Đã mắc ngay vào lưới lớn Ái,
Trong rối loạn của Ái lâu nay ”.
* * *
Thế Tôn thuyết giảng pháp này
Chúng Tăng tín thọ lời Ngài, hân hoan ./-
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ( 3 L )
*
* *
( Chấm dứt Kinh số 38 : Đại Kinh ĐOẠN TẬN ÁI – MAHÀTANHÀSANKHAYA Sutta )