Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tuyển tập 24

28/11/201113:14(Xem: 11927)
Tuyển tập 24

TUYỂN TẬP THƠ MẶC GIANG

Tuyển tập 10 bài - thơ MặcGiang - Số 24

(Từ bài số 231 đến số 240)

thnhattan@yahoo.com.au

31 Bài thơ mười một : Gởi riêng nhà 231

32 Bài thơ mười hai : Thăm lại trường xưa 232

33 Bài thơ mười ba : Thăm người nghèo 233

34 Bài thơ mười bốn : Gởi người phế nhân 234

35 Bài thơ 15 : Gởi miền nước mặn đồng chua 235

36 Bài thơ 16 : Gởi người ở vùng cao 236

37 Bài thơ 17 : Thăm người mua bán ve chai 237

38 Bài thơ 18 : Thăm chị bán hàng rong 238

39 Bài thơ 19 : Thăm giới doanh thương 239

40 Bài thơ 20 : Tôi gởi thơ tôi 240

BàiThơ Mười Một : Gởi Riêng Nhà

Tháng 12-2004

Bài thơ mười một gởi riêngnhà

Tôi sẽ hỏi thăm hết cả nhà

Trước hết, xin hỏi ba hỏi mẹ

Rồi sau, mới hỏi đến gần xa

Ba đã già rồi, có khỏe không

Mẹ đeo tuổi hạc, đá đeo bông

Đến nay ốm yếu còn chi nữa

Trông được ngày nào thì cứtrông

Tóc bạc của ba nhuộm giósương

Còn kia, tóc trắng, mẹ sầuthương

Trắng treo đủng đỉnh chòm mâybạc

Hết cả cuộc đời, bỡi cháu con

Anh đã làm gì để thế ba

Quyền huynh thế phụ ấy là nhà

Anh tay cầm lái em chèo chống

Mới xứng là anh của cả nhà

Còn chị làm gì hỡ chị ơi

Hai vai liễu yếu gánh hai nơi

Bên này đã nặng, bên kia nữa

Như mẹ bây giờ đó, chị ơi !

Và còn em nữa phải không em

Đừng ỷ làm em mà ẽm èm

Anh chị đi đầu nên vất vả

Làm em phải hiểu mới là em

Còn hàng xóm nữa còn bà con

Còn ý tương lân, cho vẹn toàn

Dù có ra sao ta vẫn nhớ

Ân tình nghĩa trọng tấm lòng son.

Bài Thơ Mười Hai :Thăm lại trường xưa

Tháng 12-2004

Bài mười hai gởi về trường cũ

Để nhớ ngày xưa dưới mái trường

Bạn bè khi ấy còn đâu đó

Trường cũ đây rồi ai vấn vương

Ai về nhớ lại mái trường xưa

Hai buổi sớm chiều dẫu nắng mưa

Nhưng ít mấy khi ta vắng mặt

Học trò hiếu học dễ thương chưa

Trường xưa lối cũ đã đi qua

Ai đứng buồn trông những xót xa

Năm tháng tàn phai, mờ dấu tích

Phất phơ chiếc lá cuốn la đà

Ngày đó, ai chầm chậm bước đi

Cho ai nhanh bước cứ đi đi

Và ai, ghi vết hằng, lưu dấu

Ghi lại đường đi, ghi những gì

Khi học, có người hay đến trước

Khi tan, có người lại về sau

Thời gian cứ thế trôi đi mãi

Nhưng để không gian gợn sắc màu

Học xong, kết thúc, phải chiatay

Thuở ấy, nào ai nghĩ, có ngày

Sẽ đến trường xưa nhìn lối cũ

Chìm trong dĩ vãng, thấy hayhay !!!

Bài ThơMười Ba : Thăm Người Nghèo

Tháng 12-2004

Bài thứ mười ba thăm giớinghèo

Cái nghèo đeo đẳng mãi đeotheo

Tháng năm thỉnh thoảng chưaqua ngặt

Thì hỏi làm chi thoát cáinghèo

Vốn nghèo nên sống chẳng rachi

Thiếu trước hụt sau, khổ nóđì

Thẩm thấu cuộc đời nhiều bấthạnh

Cây sầu dần lớn với cây bi

Tôi đã nhìn qua thấy tậntường

Cái nghèo quay quắt khổ khônglường

Nào cha nào mẹ nào con cháu

Vá víu từng ngày thật thảmthương

Mái tranh chừa lỗ, ngó ôngtrời

Vách lá chừa khe, đón gióchơi

Cơm cháy phơi khô, dành nấucháo

Nhà không đóng cửa, chẳng aidời

Tháng năm lui tới, không aihỏi

Thấp thỏm lân la, chẳng aimời

Đem bán cái nghèo, không aigọi

Đem khoe cái thiếu, chẳng aichơi

Cái nghèo cứ thế nó làm reo

Reo suốt một đời đến mốc meo

Đem ném chẳng rơi, quăng chẳngrớt

Biết đâu, lỡ chết, nó còntheo

Xin cảm ơn ai hiểu phận nghèo

Đời tôi tệ quá, bạt hơn bèo

Trông qua ngó lại, còn nghequải

Khú đế như miêu, nó vẫn meo!!!

BàiThơ Mười Bốn : Gởi Người Phế Nhân

Tháng 12-2004

Mười bốn, tôi xin gởi phếnhân

Làm sao như thế biết sao lần

Tôi xin han hỏi tình chânthật

Chia xẻ những người không vẹnthân

Người nói một thời thuở chiếnchinh

Đạn bom đã cướp mất thân hình

Quê hương khói lửa đành camphận

Cam cả nhân gian chẳng nhớ mình

Người thì lại nói lúc thờibình

Giá áo túi cơm, ũi đất, sình

Tấc đất tấc vàng ra trái thúi

Nổ đoành một cái kéo về dinh

Người thì tàn tật mới ra đời

Cha mẹ trông qua luống rụngrời

Nhưng đã là con ươm giọt máu

Nên ươm đến cả một đời thôi

Người thì tật bịnh phát sinhra

Lúc trước cũng như ai ấy mà

Đâu biết hôm nay mang bịnhtật

Còn chi đâu nữa mà kêu ca

Có người lại bị bỡi thiên tai

Trần thế cớ chi chịu khổ dài

Ách nước tai trời sao tránhkhỏi

Đến ai đành chịu, trách chiai

Cuộc đời như thế, hỡ người ơi

Tiếng khóc lại chen lẫn tiếngcười

Thân thể nào ai mà biết được

Khi tàn, đành khổ đến tàn hơi

Ai có thương, đời sống phếnhân

Trần thân cho thấu nhữngphong trần

Xót thương cơ cảm, còn thươngxót

Cho những người mang kiếp phếnhân !!!

BàiThơ Mười Lăm : Gởi Miền Nước Mặn Đồng Chua

Tháng 12-2004

Bài mười lăm gởi miền nướcmặn

Quến đất phèn nhuộm cánh đồngchua

Bờ lau sậy vành đai lá chắn

Biển mênh mông sóng gợn giólùa

Thăm miền đất nước của quêtôi

Nước mặn đồng chua thấm mặnmôi

Ăn chắt mặc bền nên chất phác

Sống bình thường chẳng nghĩxa xôi

Hai bên mây nước kéo hai bờ

Én liệng cò bay cá lững lờ

Đôi nẻo giao thoa mùi mặnngọt

Khổ tuy nhiều đẹp cũng như mơ

Thủy triều lên xuống mỗi ngàyđêm

Khi thấp khi cao mấp mé thềm

Dấu nước vỗ bờ, in vách đá

Nước sâu dần, vách đá chênhvênh

Mây nước mênh mông giữa đấttrời

Bên bờ biển lộng sóng trùngkhơi

Trăng treo lơ lửng chòm mâybạc

Sao ngủ lưng trời sao rụngrơi

Nước mặn đồng chua ngấm biểndâu

Ra vô cũng phải bước qua cầu

Ngược xuôi cũng có thuyềnchèo chống

Hai nghiệp nông ngư đãi dãidầu

Gởi về miền đất mặn tôi ơi

Nước ngọt phèn chua nên lợlời

Nơi ấy, dân tôi đành phảisống

Một đời lam lũ sóng đầy vơi.

BàiThơ Mười Sáu : Gởi Người Ở Vùng Cao

Tháng 12-2004

Bài thơ mười sáu gởi vùng cao

Đồi thấp núi cao gió rạt rào

Tiếng nói vượt trùng reo vắngngắc

Rừng khuya gối mộng ngắmtrăng sao

Trăng tròn mười sáu lại tròntrăng

Đồi núi rừng khuya đón chịhằng

Ca hát bập bùng reo ánh lửa

Êm đềm vui sống những đêmtrăng

Nhà sàn dong dỏng cất venrừng

Vừa mát ban ngày, phòng tốibưng

Theo dấu đánh hơi, loài dãthú

Lâm le đêm viếng, biết đâuchừng

Dân cư thưa thớt sống đơn sơ

Sáng quảy gùi đi, chiều vátvò

Điểm hẹn miền xuôi cùng đổichác

Ngày ngày cứ thế chẳng âu lo

Rừng sâu, gió núi lộng xa xa

Lối nhỏ, đường đi, nẻo lạiqua

Có những loài hoa bên cỏ dại

Hương thơm, nhụy thắm, sắckiêu sa

Người ở trên cao sống đã lâu

Đã quen rừng núi lại quen màu

Nhìn trời, đủ biết mưa haynắng

Biết thuận hòa và cả thuẫnmâu

Lòng dạ thẳng ngay, tâm tánhhiền

Chẳng chua chẳng ngót chẳnghuyên thuyên

Nghĩ sao nói vậy lời chânthật

Như chim rừng lảnh lót tựnhiên.

BàiThơ Mười Bảy : Thăm Người Mua Bán Ve Chai

Tháng 12-2004

Gởi thăm những chị bán vechai

Buôn bán ra sao có đủ xài

Còn có chút dư, thêm chút để

Ngày qua ngày lại đến ngàymai

Cứ gọi là nghề cho dễ coi

Khi buôn nước mắt bán mồ hôi

Đó đây đi khắp trong thiên hạ

Có chuyến còn may, chuyến mấttoi

Bán buôn đủ mọi thứ trên đời

Xoong, chảo, nồi, niêu, chén,bát, môi

Nhôm, bạc, thau, chì, đồng,kẽm, sắt

Và thêm lông vịt nữa, ôi thôi!

Có chuyến đi gần, có chuyếnxa

Xe đò, xe lửa, đến xe tha

Ngắn năm ba bữa, dài tuần lễ

Khỏe khoắn gì đâu, mệt thấybà

Có khi kiếm được, có khikhông

Chọn lựa chẳng cho, họ đổđồng

Hốt đại đem về, rồi chất đống

Còn chi lời lỗ, vốn đi đoong

Kiếm cơm kiếm gạo được là may

Có bữa gặp cò, phủi trắng tay

Ấm ức về nhà, buồn thúi ruột

Rồi năm ba bữa lại đi ngay

Đã bao năm rồi như thế đó

Tay trắng hoàn tay, tay trắng tay

Kiếm chác đôi đồng, tiêu, trảnợ

Ve chai lây lất, xót thươngthay !!!

BàiThơ Mười Tám : Thăm Chị Bán Hàng Rong

Tháng 12-2004

Hỏi thăm những chị bán hàngrong

Cuộc sống ra sao, có đỡ không

Buôn bán những gì trong đóchị

Mỗi một ngày, kiếm được khákhông ?

Ngày ngày gồng gánh bán hàngrong

Những bữa nhanh tay, đỡ nhọclòng

Đỡ bỏ công, hôm khuya, sớmtối

Nai lưng, tiền cắt, kiếm đôiđồng

Bán khoai, bán bắp, bán chèxôi

Bù lại, chế qua, đủ đắp bồi

Bữa nọ, bữa kia, thay đổi món

Dần dà, khách khứa cũng quenthôi

Chị gánh hàng rong đến cuốiđường

Trời còn ngái ngủ mới tinhsương

Bước chân đon đả, đôi vaigánh

Thêm bớt kì kèo, đổ xótthương

Bán buôn, kiếm sống, tạm quangày

Hết bán rồi, thì lại trắngtay

Bán được ngày nào thì có sống

Còn không bán nữa, phải đong,vay

Cho nên đã trải mấy năm qua

Cho đến hôm nay tuổi đã già

Dậy sớm, thức khuya, đâu nổinữa

Lâu lâu một gánh, mệt ui cha

Mua gánh bán bưng khổ một đời

Khi buông đòn gánh, chẳng cònhơi

Đồng vô, mở cửa, đồng ra sạch

Biết thế, nhưng làm sao, chịơi !

Bài Thơ Mười Chín : Thăm Giới Doanh Thương

Tháng 12-2004

Bài thơ mười chín thăm doanhthương

Buôn bán, đương nhiên, đủ mọiđường

Nhưng sống có tiền, nhân cóhậu

Cho thuyền đời chở những thanhlương

Nghề nào cũng trải những chuacay

Khổ trí, nhọc tâm, xẫm mặtmày

Đổ sức cần lao, còn nặng nhẹ

Nhưng mà cố sống được, là may

Không buôn, không bán, chẳngai cho

Nhưng bán buôn thì phải đắnđo

Hơn thiệt, lỗ lời, sao phảiphải

Muốn đa, tích tiểu, đừng ănto

Tiếng làm người chủ, nói,nghe oai

Ai biết nai lưng đến cõm còi

Sớm tối bơ phờ, không thở nổi

Bạc tiền công sức, đếm đầyvơi

Người ta đã nghỉ tự đầu hôm

Mình thở không ra đến tối ồm

Vừa mới nửa khuya bừng thứcdậy

Lại làm, lại tính, lại lomkhom

Hỏi thăm cho biết những thâmtình

Biết sống ở đời, biết nhụcvinh

Chẳng trọng, chẳng khinh,chẳng dối trá

Ai ai cũng khổ, phải riêngmình

Bước ra, có tiếng thưa ôngchủ

Bước vô, chờ tiếng, để hỏi bà

Đừng để tiếng đời, khua uế xụ

Biết cho người và biết cho ta !!!

Bài Thơ Hai Mươi : Tôi Gởi Thơ Tôi !

Tháng12-2004

Bài hai mươi, viết gởi thơ tôi

Thăm khắp trùng dương, thăm núi đồi

Thăm khắp nơi, hang cùng ngõ hẻm

Gởi cho đời, và gởi cho tôi

Thơ tôi, đem gởi ở trên ngàn

Lơ lửng cho mây kéo langthang

Thăm thẳm cho sao mờ lấp lánh

Mênh mang cho nguyệt tỏatrăng vàng

Thơ tôi, đem gởi ở trên đồi

Cho núi lên non để ngó trời

Cho dốc lên đèo nhìn vũ trụ

Cho không gian hết những chơivơi

Thơ tôi, đem gởi ở trên cao

Để gió lay lay, lá xạt xào

Để cát bụi tàn, thôi khởiđộng

Xuống trần gian hết những hưhao

Thơ tôi, đem gởi xuống đầmsâu

Để thấm bùn nhơ phủ ngập đầu

Để vượt tầng không vươn khỏinước

Sợi thơ, vẫn óng ánh thiênthâu

Thơ tôi, đem gởi xuống dòngsông

Dù nổi trôi, mưa gió dập dồn

Dù có phiêu bồng ra biển cả

Làm cho thơ, ý đẹp khơi dòng

Thơ tôi, đem gởi xuống nươngdâu

Hải biến điền tang nhuộm sắcmàu

Lại có bờ lau bên cát bụi

Nên hồn thơ thấm những thươngđau

Không đâu, tôi có gởi đikhông

Nếu có thì thơ chẳng có dòng

Còn nếu không, thì thơ chẳngcó

Nên hồn thơ cứ mãi đi rong !!!

01. Tiếng lòng nức nở quêhương 01

02. Thầm lặng 02

03. Việt Nam, quê hương cònđó 03

04. Quê hương còn đó, đợi chờ04

05. Từ đó xa mờ 05

06. Tiếng kêu cứu quê hương 06

07. Thương Thầy An Thiên 07

08. Chùa tôi 08

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/01/2016(Xem: 7551)
Phải chi mây đã ngừng bay Phải chi gió chỉ nhẹ lay bên thềm Phải chi nắng hỡi đừng lên Phải chi nỗi nhớ đành quên một lần
12/01/2016(Xem: 7207)
Tuyết rơi trắng ngập sân chùa Hồi chuông theo gió đong đưa gợi thiền Tâm bất vọng quán nhân duyên Trần gian một chuỗi ưu phiền không tên Bạc đầu còn giấc ngủ quên Dẫu mai thức dậy cũng miền chiêm bao Thả neo đời giữa lao xao Để cho tĩnh lặng đi vào cõi chân
12/01/2016(Xem: 8739)
Trang Nhà Quảng Đức chúc xuân Đạo tràng Tu viện một lòng hướng quê “Dê” đi năm “khỉ” lại về “Tâm Viên Ý Mã” nguyện thề phải tu Là “khỉ” tâm rất lu bu Lăng xăng chạy nhảy oán thù tạo gieo
11/01/2016(Xem: 10153)
Tiền thân Đức Phật một thời Từng là chú khỉ sống nơi khu rừng Thân hình to lớn hào hùng Xiết bao mạnh mẽ, vô cùng thông minh, Nhân từ nổi tiếng rừng xanh Giúp người hoạn nạn tâm thành chứa chan. Một ngày rực rỡ ánh vàng Nắng trời tỏa ấm, gió ngàn vờn quanh
09/01/2016(Xem: 11885)
Thiên nhân hỏi: - Thanh kiếm nào sắc bén nhất? Chất độc nào tàn hại nhất? Ngọn lửa nào dữ dội nhất? Bóng đêm nào đen tối nhất? - Đức Phật trả lời: Lời nói trong lúc giận dữ là thanh kiếm sắc bén nhất, dục vọng là chất độc tàn hại nhất, đam mê là ngọn lửa dữ dội nhất, vô minh là bóng đêm đen tối nhất.
09/01/2016(Xem: 5994)
Theo “ngũ dục” (1) sẽ làm mờ chân tánh Khiến bao người phải lụy hại thân tâm Áng mây che tâm trí lắm mê lầm Bao kẻ chết cũng bởi vì ngũ dục: Vàng ngọc của tiền “tài” luôn thôi thúc Biết bao người ham muốn phải chạy theo Tưởng đâu rằng có nó sẽ hết nghèo
09/01/2016(Xem: 5703)
Xưa kia ở chốn núi rừng Có đàn khỉ nọ khoảng chừng năm trăm Họp bầy nô rỡn quanh năm, Một hôm khỉ rủ nhau thăm bìa rừng Có cây cổ thụ nhiều tầng Mọc bên bờ giếng sáng ngần ánh trăng. Giếng sâu. Dưới đáy nước trong Trăng tròn in bóng bềnh bồng nổi trôi Khỉ kêu: "Thôi chết! Nguy rồi! Mặt trăng rơi xuống giếng khơi đây này
07/01/2016(Xem: 6732)
Lập Tịnh Xá: Khai truyền mối đạo Cho chúng sanh nương náu tu hành Dắt người đến chỗ thiện lành Trau tâm dồi trí để thành hiền nhân. Lập Tịnh Xá: Xây nền đạo đức Cho chúng sanh tiến bước lên đường Về miền Cực Lạc Tây Phương Là nơi cảnh Phật Niết Bàn an vui.
05/01/2016(Xem: 8836)
Dòng tộc Họ Hồ tại Việt Nam Được khai sinh từ một người duy nhất Đã hơn một ngàn năm Xuất phát tại Hương Bào Đột Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An Vào thời đại Nhà Ngô - Nhà Đinh Đại Cồ Việt Ngài chính là Đức Nguyên Tổ Hồ Hưng Dật Ngài mang họ Hồ, một tộc họ Bách Việt Văn võ tuyệt siêu, học vị trạng nguyên
02/01/2016(Xem: 19721)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì 15 năm (1278 – 1293) và làm Thái Thượng hoàng 15 năm. Trần Nhân Tông được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh minh nhất trong lịch sử Việt Nam. Ông có vai trò lãnh đạo quan trọng trong Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 2 và lần 3. Trần Nhân Tông cũng là người đã thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, lấy pháp hiệu là Đầu ĐàHoàng Giác Điều Ngự. (Tham khảo từ trang Web. Vikipedia.org VN.)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567