Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tuyển tập 105

28/11/201113:14(Xem: 12250)
Tuyển tập 105

TUYỂN TẬP THƠ MẶC GIANG

Tuyển tập 10 bài Số 105 - thơMặc Giang

(Từ bài số 1041 đến số 1050)

macgiang@y7mail.com; thnhattan@yahoo.com.au

01.HoaNhân Quả 1041

02.HoaTam Vô 1042

03.CửaChùa 1043

04.ChuyếnXe Tam Thừa 1044

05.Gợnsóng tuyền đài 1045

06.Cuốibờ rêu thiên cổ 1046

07.Cơnbão thảm khốc Nargis 1047

08.Khuasỏi đá 1048

09.Bênđồi vắng 1049

10.Rùngrợn con tàu 1050

Hoa Nhân Quả

Tháng 6 – 2006

Đã gieo nhân thì làm saokhông có quả

Đã có quả thì làm sao khôngcó nhân

Hỡi nhân sinh trong cuộc sốnghồng trần

Đừng lẩn thẩn buông lung màđọa lạc

Mỗi hành động trong hành vitạo tác

Mỗi ý niệm vừa phát khởitrong tâm

Tất cả đều đã gieo một hạtnhân

Mới băng qua là trở thành quákhứ

Có quá khứ thì phải có hiệntại

Có hiện tại thì phải có tươnglai

Một là ba, ba là một nối dài

Móc thời gian ba thì treo bấttận

Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợquả

Nên Thánh Phàm, từ nơi đó màra

Đâu phải riêng chỉ một cõi tabà

Mà tám hướng mười phương đềunhư thế

Hoa Nhân Quả phát sinh từ vôthỉ

Kết phan duyên hiện hữu đếnvô chung

Chúng sanh ơi, cẩn thận, chớlao lung

Đã tác tạo thì trước sau phảigánh

Hoa Nhân Quả biết rồi thìphải tránh

Tặng cho em mang nét đẹpthanh lương

Tặng cho anh mang sắc thắmlên đường

Tặng cho đời vun trồng chânthiện mỹ.

Hoa Tam Vô

Tháng 6 – 2008

Hoa Tam Vô nở trên thềm giảithoát

Tặng cho người Vô Tác cõi trầngian

Làm không làm như gió mát trăngngàn

Bước thong dong giữa trờixanh mấy trắng

Hoa Tam Vô, cửa thiền môn mởrộng

Tặng cho người Vô Niệm cõiphiêu bồng

Nhớ đến vô, lồng lộng tựa hưkhông

Tuy trống rỗng nhưng cái gì cũngcó

Hoa Tam Vô, cửa thinh không bỏngỏ

Tặng cho người Vô Trụ hữu – vôdư

Mang pháp thân trùm khắp cảthái hư

Không dính mắc một nơi nào tụđiểm

Từ vô thỉ không màu hồng màutím

Đến vô chung không màu trắngmàu xanh

Mà là màu hoại sắc đẹp nguyêntrinh

Diệu diệu hữu trong chơn nhưhoa tạng

Vì chúng sanh trùng trùng vôsố lượng

Hoa Tam Vô bừng nở khắp ba thừa

Duy một thừa nhưng nói rộngthành ba

Ba thừa chuyển đến tam vô bấthoại

Hoa Tam Vô, cửa chùa thân thươngquá

Khói hương trầm quyền quyện cứuhàm linh

Tiếng chuông ngân thánh thoátđến vô thinh

“Thượng thông thiên đường, hạtriệt địa phủ”

Hoa Tam Vô, tặng cho người VôTrụ

Tặng cho người Vô Niệm ngáthoa tâm

Tặng cho người Vô Tác tuyệtthậm thâm

Cùng chuyển xe tam thừa vi diệupháp.

Cửa Chùa

Tháng 6 – 2008

Cửa chùa là cánh cửa Không

Vào trong Hoa Tạng trùng trùnghuyền vi

Không Tướng, không cả li ti

Ẩn trong diệu hữu tư nghì hồnai

Không Nguyện, không cả một hai

Trùm lên tánh thể phương đài đơmhoa

Sắc không vô nhị kết tòa

Nương hình gợn bóng giao thoadiễm hằng

Không đêm mà có ánh trăng

Không ngày mà có nắng vàng mênhmang

Thấu trời còn hỏi chi thang

Chạm đất còn hỏi địa đàng làmchi

Cửa chùa là cửa huyền vi

Từ không thành có diệu kỳ ai hay

Cửa chùa, ba cánh hiển bày

Vô môn biến hiện lay lay pháptrần

Cửa chùa, ba cánh tương lân

Vô Nguyện, Vô Tướng, hỏi Khôngsao tìm

Vụt qua, đâu nữa cánh chim

Tịch chơn, cật vấn nổi chìmphù vân

Cửa chùa, là cửa tam quan

Mở ra, không lối dọc ngang đi về

Cửa chùa, là cửa giải mê

Mở ra, chót đỉnh Tào Khê mỉm cười

Cửa chùa, chào khách ngược xuôi

Bước qua, biến mất, hỡi người thế nhân !

Chuyến Xe Tam Thừa

Tháng 7 – 2008

Ta ra đi trên chuyến xe TamThừa lồng lộng

Khắp muôn phương ngàn hướng cỡiphù sinh

Trên ba đường sáu nẻo kiếpsinh linh

Trong vạn hữu, ai không là bạn lữ

Ta ra đi trên chuyến xe Tam Thừa kỳ thú

Xe nhỏ này, ai thích, hãy bước lên

Xe trung này, ai hợp, nhớ đừng quên

Còn xe lớn, rộng thênh thang đại hải

Xe Tam Thừa vượt muôn ngàn cửa ải

Băng dốc đèo trên vạn lý sơn khê

Đi bốn phương, nhưng đến, chỉ một lồi về

Rừng hoa tạng chứng đạo ca gió hát

Xe Tam Thừa vượt muôn ngàn ghềnh thác

Băng vực sâu, luớt hải lý trùng dương

Khép thỉ chung, im bặt mọi con đường

Hỏi sinh tử, ngại ngùng, không dám thở

Đưa nhau về căn nhà xưa ta đó

Đón nhau về trong diệu hữu pháp thân

Mây trắng kia, tiễn biệt nẻo phù vân

Trời xanh kia, vẫy chào màn sương bạc

Bờ suối reo, con nai vàng ngơ ngác

Tổ ấm nồng, chim rủ cánh thôi bay

Giữa ngàn cây, hoa khép lá, lung lay

Đêm chấm dứt, không chờ ngày gọi nắng

Xe Tam Thừa một chuyến

Thuyền bát nhã thanh lương

Đưa nhau một đoạn đường

Khép đôi bờ sinh tử

Xe Tam Thừa một chuyến

Cửa hoa tạng huyền môn

Đưa tay đỡ càn khôn

Vô sanh reo pháp nhẫn.

Gợn sóng tuyền đài

Tháng 5 –2008

Được tin Mẹ nhắm mắt

Thôi, thế là cuộc đời con đã hết

Được tin Mẹ buông tay

Thôi, thế là cuộc đời con không còn

Vuông đâu mà nói chi tròn

Sắt đâu mà nói chi son úa màu

Thời gian, da thấm thịt thau

Nỗi niềm đan kín còn đau suốtđời

Vô thường băng giá lên ngôi

Tình thương nhớ mẹ, gởi đồihoang vu

Một vài năm, còn nay lần mailữa

Mấy mươi năm, còn gì lữa mà lần

Chín chiều rũ bóng phù vân

Hoàng hôn khuất núi, treo vầngtrăng soi

Trèo lên trên đỉnh chơi vơi

Nói lên tiếng Mẹ, không lời vọngvang

Lặn sâu vào đáy suối vàng

Âm linh dậy sóng mênh mang vôbờ

Thôi hết rồi, mái tranh nghèovợn khói

Thôi hết rồi, bếp lửa ấm hồngtươi

Muốn nghe tiếng mẹ nói

Muốn nhìn mắt mẹ cười

Đi vào cõi không người

Bóng muôn trùng lan tỏa

Muốn nghe tiếng mẹ thương

Muốn nghe tiếng nếp một, mía đường

Đi vào cõi vô thường

Bụi mờ phơi sỏi đá

Tấm hình Mẹ, con muốn nhìn thậtrõ

Áng thờ Mẹ, con quyện khói trầmhương

Ngày thì ẩn bóng nghê thường

Đêm thì thấm lạnh ngấn sươngcanh dài

Sờ lên ảnh tượng thiên thai

Suối vàng gợn sóng tuyền dàithiên thu !

Cuối bờ rêu thiên cổ

Tháng 5 - 2008

Xin dâng nén hương, quì bên mộmẹ

Nghe đáy lòng tan nát cõi tâmtư

Đây là chỗ mẹ nằm, giấc ngủngàn thu

Nghĩa địa vắng tanh, là da là thịt

Còn kia, là mộ phần của Cha ngày trước

Hai đấng sinh thành, bên cạnhsong song

Thôi hết rồi, hết cả những chờmong

Tim quặn thắt giữa lạnh lùngcố quận

Nước róc rách ngập ngừng bênbờ suối

Sóng rì rào đập vỗ bến ngân sương

Hoa trắng trôi chìm nổi cuốisông Thương

Con chim nhỏ bơ vơ về tổ Nhớ

Cả dĩ vãng xa mờ đường quê cũ

Ký ức chìm hình ảnh lối mòn xưa

Tiếng ve kêu còn sót lại cuốimùa

Chưa đốt cháy những ngày Hèoi ả

Nhìn hàng chữ trên mộ bia lạnhgiá

Mới biết rằng đây là chỗ củamẹ cha

Cõi đi về nhưng không phải lànhà

Không bếp lửa, không tro tànsớm tối

Khói hương bay nhạt nhòa tantrước gió

Tìm mẹ cha trống rỗng bóng hưvô

Càng hình dung, càng mất hútxa mờ

Im phăng phắc cuối bờ rêu thiêncổ.

Cơn bão thảm khốc Nargis

Đổ bộ vào Miến Điện ngày 03-5-08, bao trùm và tàn phá5 khu vực rộng lớn : Yangon, Bago, Mon, Karen và Ayeyawaddy thuộc vùng châu thổsông Irrawaddy, có khoảng 24 triệu dân cư, gây ra hơn 100 ngàn người bị chết,hàng trăm ngàn người bị mất tích, cả triệu người sống trong cảnh màn trời chiếuđất.

Ôi, trận bão Nargis !

Trận bão kinh hoàng !

Trận bão thảm khốc !

Trận bão lâm ly !

Đã cướp mất hơn 100 ngàn người,không còn sự sống

Đã vùi chôn hơn 100 ngàn người,chìm vào biển động

Đã làm cho hơn một triệu người,chiếu đất màn trời

Cả một vùng châu thổ tơi bời

Nào phố nào phường

Nào cửa nào nhà

Nào cây nào cối

Nào thịt nào da

Vùi dập, ngửa nghiêng, tan tành,đổ nát

Một đất nước, đã trầm kha,nghiệt ngã, quân phiệt

Một dân tộc, đã cực lòng, ngậmđắng, nuốt cay

Sao Ông Xanh chưa giải cứu nỗinày

Lại đày đọa bạo tàn người dânMiến Điện

Cả trăm ngàn người, sóng vùilòng biển

Cả trăm ngàn người, không kịpnhắm mắt buông tay

Hơn một triệu người, khóc nỗithảm thay

Vùng châu thổ mênh mông

Giờ chỉ còn là : sóng vỗ, bụibay, cát đá

Biển cả ơi, muôn đời thì thầmbiển cả

Bão tố ơi, muôn đời trào lộngcuồng phong

Kiếp nhân sinh đã tràn ngập hờnvong

Lại đón nhận những phũ phàngtím ngắt

Đất hỡi đất, có bình yên khôngđất

Trời hỡi trời, có êm ả trờixanh

Thân người, một kiếp mongmanh

Trăm năm chưa hẳn, chỉ mànhngàn cân

Tang thương, nghiệt ngã, phongtrần

Đọa đày điêu đứng, cơ phần lựaai

Nhân tai, thở vắn than dài

Thiên tai, hàng loạt, tuyền đàinát xương

Chết, không kịp tiếng kêu thương

Sống, ôm tức tưởi, đoạn trườngđắng cay

Ôi, biết nói sao đây, hỡi ngườidân Miến Điện ?

Ôi, biết nói sao đây, hỡi nhânloại tình người ?

Ai chia bao nỗi khóc cười !

Một mươi chẳng thấu, mười mươinhững là !

Còn chi, là cửa là nhà !

Còn chi, là thịt là da, hở trời !

Tấm Lòng Vàng, cho đỡ lòng ấm lạnh

Tiếng kêu thương, cho vá đắp trầm kha

Ngửa bàn tay, chia sẻ những xótxa

Mở từ tâm, dịu xoa tình nhânthế

Được một chút gì, may ra còn đỡ

Vẫn còn hơn, mờ sương khói trốngkhông

Tình thương nhân loại, đèo bòng

Dựng xây sự sống, nối vòngtay hoa

Tương thân tương ái chan hòa

Ươm mơ, hy vọng, kết tòa thiênthư.

Ngày 10 tháng 5 năm 2008

Mặc Giang sáng tác, nhằm mục đích kêu gọi cứu trợ.

Khua sỏi đá

Tháng 6 – 2008

Buông tay lái, nghe thuyềnreo sóng nước

Buông mái chèo, bóng con đẩythôi đưa

Khép bờ mi phiêu bạt kiếp hảihồ

Phơi gió bụi dọc đường khuasỏi đá.

Bên đồi vắng

Tháng 6 – 2008

Mây thong dong lướt trên ngànxanh biếc

Gió trong lành thoảng nhẹgiữa rừng mơ

Nước lăn tăn róc rách chảyđôi bờ

Con nai hiền ngẩn ngơ bên đồivắng.

Rùng rợn con tàu

Tháng 6 – 2008

Ta đứng tựa bên bờ rêu hócnúi

Nhìn bụi mờ xây xát nét thờigian

Nhìn phong sương tắm gội vếtđiêu tàn

Thật rùng rợn cho con tàu huyễn hóa.

01. Tiếng lòng nức nở quêhương 01

02. Thầm lặng 02

03. Việt Nam, quê hương cònđó 03

04. Quê hương còn đó, đợi chờ04

05. Từ đó xa mờ 05

06. Tiếng kêu cứu quê hương 06

07. Thương Thầy An Thiên 07

08. Chùa tôi 08

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/01/2016(Xem: 7551)
Phải chi mây đã ngừng bay Phải chi gió chỉ nhẹ lay bên thềm Phải chi nắng hỡi đừng lên Phải chi nỗi nhớ đành quên một lần
12/01/2016(Xem: 7207)
Tuyết rơi trắng ngập sân chùa Hồi chuông theo gió đong đưa gợi thiền Tâm bất vọng quán nhân duyên Trần gian một chuỗi ưu phiền không tên Bạc đầu còn giấc ngủ quên Dẫu mai thức dậy cũng miền chiêm bao Thả neo đời giữa lao xao Để cho tĩnh lặng đi vào cõi chân
12/01/2016(Xem: 8740)
Trang Nhà Quảng Đức chúc xuân Đạo tràng Tu viện một lòng hướng quê “Dê” đi năm “khỉ” lại về “Tâm Viên Ý Mã” nguyện thề phải tu Là “khỉ” tâm rất lu bu Lăng xăng chạy nhảy oán thù tạo gieo
11/01/2016(Xem: 10153)
Tiền thân Đức Phật một thời Từng là chú khỉ sống nơi khu rừng Thân hình to lớn hào hùng Xiết bao mạnh mẽ, vô cùng thông minh, Nhân từ nổi tiếng rừng xanh Giúp người hoạn nạn tâm thành chứa chan. Một ngày rực rỡ ánh vàng Nắng trời tỏa ấm, gió ngàn vờn quanh
09/01/2016(Xem: 11886)
Thiên nhân hỏi: - Thanh kiếm nào sắc bén nhất? Chất độc nào tàn hại nhất? Ngọn lửa nào dữ dội nhất? Bóng đêm nào đen tối nhất? - Đức Phật trả lời: Lời nói trong lúc giận dữ là thanh kiếm sắc bén nhất, dục vọng là chất độc tàn hại nhất, đam mê là ngọn lửa dữ dội nhất, vô minh là bóng đêm đen tối nhất.
09/01/2016(Xem: 5997)
Theo “ngũ dục” (1) sẽ làm mờ chân tánh Khiến bao người phải lụy hại thân tâm Áng mây che tâm trí lắm mê lầm Bao kẻ chết cũng bởi vì ngũ dục: Vàng ngọc của tiền “tài” luôn thôi thúc Biết bao người ham muốn phải chạy theo Tưởng đâu rằng có nó sẽ hết nghèo
09/01/2016(Xem: 5703)
Xưa kia ở chốn núi rừng Có đàn khỉ nọ khoảng chừng năm trăm Họp bầy nô rỡn quanh năm, Một hôm khỉ rủ nhau thăm bìa rừng Có cây cổ thụ nhiều tầng Mọc bên bờ giếng sáng ngần ánh trăng. Giếng sâu. Dưới đáy nước trong Trăng tròn in bóng bềnh bồng nổi trôi Khỉ kêu: "Thôi chết! Nguy rồi! Mặt trăng rơi xuống giếng khơi đây này
07/01/2016(Xem: 6733)
Lập Tịnh Xá: Khai truyền mối đạo Cho chúng sanh nương náu tu hành Dắt người đến chỗ thiện lành Trau tâm dồi trí để thành hiền nhân. Lập Tịnh Xá: Xây nền đạo đức Cho chúng sanh tiến bước lên đường Về miền Cực Lạc Tây Phương Là nơi cảnh Phật Niết Bàn an vui.
05/01/2016(Xem: 8836)
Dòng tộc Họ Hồ tại Việt Nam Được khai sinh từ một người duy nhất Đã hơn một ngàn năm Xuất phát tại Hương Bào Đột Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An Vào thời đại Nhà Ngô - Nhà Đinh Đại Cồ Việt Ngài chính là Đức Nguyên Tổ Hồ Hưng Dật Ngài mang họ Hồ, một tộc họ Bách Việt Văn võ tuyệt siêu, học vị trạng nguyên
02/01/2016(Xem: 19723)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì 15 năm (1278 – 1293) và làm Thái Thượng hoàng 15 năm. Trần Nhân Tông được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh minh nhất trong lịch sử Việt Nam. Ông có vai trò lãnh đạo quan trọng trong Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 2 và lần 3. Trần Nhân Tông cũng là người đã thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, lấy pháp hiệu là Đầu ĐàHoàng Giác Điều Ngự. (Tham khảo từ trang Web. Vikipedia.org VN.)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567