Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tuyển tập 125

28/11/201113:14(Xem: 12347)
Tuyển tập 125

TUYỂN TẬP THƠ MẶC GIANG

Tuyển tập 10 bài Số 125 - thơMặc Giang

(Từ bài số 1241 đến số 1250)

macgiang@y7mail.com; thnhattan@yahoo.com.au

01. Sao thương QuêCha Đất Mẹ !

02. Hành trình QuêMẹ

03. Hương lành ViệtNam

04. Mấy tuổitrong đời

05. Quê Cha - ĐấtMẹ

06. Hết rồi tiếngnói Mẹ Cha

07. Tiếng khóc mồcôi

08. Nhà ma bỏ xó

09. Đi tận cùngchung thỉ

10. Mặc Tử trămnăm

Sao thương Quê Cha Đất Mẹ !

Sao ta thương quê Cha

Sao ta thương đất Mẹ

Phải luôn luôn nhớ nhé

Nếu không, không thể thànhngười

Sao ta thương quê Cha

Sao ta thương đất Mẹ

Phải nâng niu, gìn giữ

Nếu không, không thế nói cười

Sao ta thương quê Cha

Sao ta thương đất Mẹ

Quê hương không thương nhớ

« Không sao sống nổithành người »

Sao ta thương quê Cha

Bởi, mỗi tất đất là xương làthịt

Sao ta thương quê Mẹ

Bởi, mỗi bước đi mắt lệ hoenmờ

Em, đâu phải trên trời rớtxuống

Chị, đâu phải dưới đất chuilên

Anh, đâu phải con người hưhỏng

Tôi, đâu phải bội nghĩa vongân

Năm ngàn năm từ thuở dựng cờ

Dòng lịch sử trải dài gai góc

Khi thời, xâm lăng xâm thực

Khi thời, xáo thịt nhồi da

Cấu thành mảnh đất quê Cha

Tựu thành hình hài quê Mẹ

Nhắc nhau, thì thầm khe khẽ

Muôn năm gìn giữ tôn thờ

Mang danh con cháu Lạc Hồng

Mang thân da vàng máu đỏ

Nhờ năm ngàn năm mới có

Kinh bao thế hệ cha ông

Quốc gia nghĩa núi ân sông

Quê hương tình non nghĩa nước

Nối nhau đời sau thưở trước

Truyền trao bảo vệ giữ gìn

Sử xanh sắt ngọc son in

Đá vàng hồn thiêng ghi dấu

Nam Quan, đồi cao đỉnh dốc

Cà Mau, cuối mũi non sông

Dư đồ một mảnh cong cong

Đó là quốc hồn quốc túy

Đất nước Việt Nam hùng vĩ

Quê hương gấm vóc tuyệt vời

Em cao tiếng hát khắp nơi

Chị cao tiếng hát vạn lời ViệtNam

Anh tuyên trời đất định ban

Tôi tuyên muôn thuở da vàng RồngTiên

Nước non tuyệt thế ba Miền

Bắc Nam Trung quyện hồn thiêngmuôn đời.

Tháng 3 – 2009

Hành trình Quê Mẹ

Ta thực hiện cuộc hành trìnhQuê Mẹ

Đi từ Cà Mau tới ải Nam Quan

Đi từ Trường Sơn cho tới biểnĐông

Để thắm đượm mặn nồng tìnhnon nghĩa nước

Thăm Cổ Loa, nhớ năm ngàn nămtrước

Đức Hùng Vương sắc ấn dựng cơđồ

Nước Văn Lang từ ngày ấy thắmtô

Dòng lịch sử chuyển trao từngthế hệ

Về Hà Nội, nhớ Thăng Longhoài cổ

Đất trời Nam lẫm liệtgiống da vàng

Ba mươi sáu phố phường, baovết tích âm vang

Khí Lạc Hồng xát xây hồn xâm,thực

Thăm Miền Trung, núi cao,biển rộng, đất hẹp

Cho địa linh, nhân kiệt, trídũng thượng thừa

Phong sương tuế nguyệt, mưadãi gió lùa

Để Cố Đô, kinh kỳ cùng sôngHương núi Ngự

Bóng thời gian, đâu là Châu ÔChâu Lý

Huyền Trân ơi, công chúa điệuru « Hời »

Cảm ơn người, sao khuất, nhớtrăng soi

Bình Bắc, yên Nam, tận Cà Maumở cõi

Vào Sài Gòn, nhớ ba trăm nămcũ

Gia Định Thành, trấn thủ vữngbiên cương

Ta bước chân đi, nhớ phố nhớphường

Bóng thành đô vương chiều dàikỷ niệm

Bến Bạch Đằng sóng đêm buồnim tiếng

Đèn pha màu sương gió phủđường đi

Quá khứ qua, ta muốn khép bờmi

Đêm dài quá, nhìn trăng saonhắn gởi

Vào Miền Nam, đất bạtngàn, chim bay mỏi cánh

Cửu Long giang, chín cửa rạngtrời đông

Đất chạy tới đâu, giáp lạchliền sông

Tới Cà Mau chuỗi dài ra biểncả

Dừng chân lại, thăm Hà Tiên,Rạch Giá

Cuộc hành trình xuyên đất mẹthân yêu

Càng nhớ thương hai tiếngnhiễu điều

Và câu ca dao một giàn bầu bí

Miền Bắc, cái nôi thuở dựngcờ lập quốc

Miền Trung, vượt hoành sơn,vạn đại dung thân

Miền Nam, mảnh dư đồchữ « S » tương lân

Là sông núi, là hồn thiêngdân tộc

Vật đổi sao dời, Việt Nam bất diệt

Núi lở cát bồi, đất nướcthiên thu

Hỡi quê hương gấm vóc của taơi

Cao tiếng gọi cùng quê hươngmuôn thuở.

Tháng 3 – 2009

Hương lành Việt Nam

Này em này chị này anh

Cùng nhau tô thắm hương lànhViệt Nam

Tin yêu như mạ xanh lam

Thơm thơm như lúa đồng vàngtrổ bông

Tình quê có ruộng có đồng

Có ao, có lạch, có sông, cóhồ

Ngay từ tấm bé còn thơ

Đến khi khôn lớn ươm mơ vàođời

Châu thành phố thị cơ ngơi

Mỗi đường ghi dấu tên ngườihữu danh

Dựng xây sử ngọc đan thanh

Đắp bồi son sắt tinh anh TiênRồng

Kiêu hùng như núi Trường Sơn

Mênh mang như nước biển Đôngrạt rào

Ba Miền sánh bước vươn cao

Bắc Nam Trung quyện biết baonhiêu tình

Quê hương gấm vóc xinh xinh

Đi đâu cũng nước non mình đẹphơn

Tình quê thắm đượm vuông tròn

Yêu quê không đổi không sờnkhông phai

Núi cao biển rộng sông dài

Nước non một dải phương đàithiên thanh

Này em này chị này anh

Ươm mơ mãi mãi hương lànhViệt Nam.

Tháng 3 – 2009

Mấy tuổi trong đời

Bách niên là bách niên nào

Nhân sinh ai đã dự vào báchniên

Trăm năm là hậu hay tiền

Thinh không tĩnh lặng chimchuyền xa bay

Thiếu niên hoa mộng đơm cây

Nụ xuân chưa chớm tóc mâyxanh ngàn

Ngẩn ngơ phe phảy nai vàng

Dẫm vào thu tím lá vàng nhẹ rơi

Thanh niên, cái tuổi vào đời

Sông dài biển rộng trùng khơixô bờ

Tang bồng thử sức mấy mo

Phỉ chí vùng vẫy mấy bồ mớithôi

Trung niên, đứng dốc lưng đồi

Trời nghiêng nghiêng bóng nửađời trôi nhanh

Tóc không còn mái xuân xanh

Phong sương dấm muối treo cànhphù sinh

Cao niên chợt ngó lại mình

Trần gian đập dũa bóng hìnhphôi pha

An lành mỏng mảnh sương sa

Khổ đau dày cộm, trầm kha chấtchồng

Lão niên đỉnh núi mây bồng

Rừng khuya thổi mộng, cuối sôngxa bờ

Bọt bèo cát đá xác xơ

Thân tàn sức kiệt mắt mờ taiu

Đỡ trên đôi gậy lù khù

Quên sau quên trước mây mù đêmđen

Trăm năm ngọn gió trước đèn

Bách niên ư hữ, buông rèm bụibay.

Tháng 3 – 2009

Quê Cha - Đất Mẹ

Quê Cha ngàn dặm mù khơi

Đất Mẹ vạn lý một đời chia xa

Thương non, ôm ấp mái nhà

Nhớ núi, sầu mộng sơn hà chờai

Thương sông, con nước chảydài

Nhớ biển, sóng vỗ miệt màitrùng dương

Ra đi, vạn lý mù sương

Rong rêu in bóng dặm đường phânly

Nhớ xưa, mấy thuở kinh kỳ

Mà nay cũng lắm tư nghì hồn đau

“Chiều chiều ra đứng ngõ sau

Trông về quê Mẹ ruột đau chínchiều”

Đêm đêm mở cửa tịch liêu

Quê Cha hun hút quạnh hiu cuốitrời

Nhớ non, mượn gió gởi lời

Thương núi, nhờ cánh chim trờibay xa

Nhớ sông, một bến quê nhà

Thương biển, kéo cát muốn tàbờ lau

Năm năm, da thấm thịt thau

Mười năm, tóc trắng đổi màuphong sương

Hai mươi năm, những tơ vương

Ba mươi năm, lắm đoạn trườngtư lương

Nên nghe hai tiếng quê hương

Xát xây cát đá, bãi nương rêmmình

Vọng vang hai tiếng quê mình

Nhòa trong ký ức bóng hình chìmsâu

Quê Cha đất Mẹ tinh sầu.

Tháng 3 – 2009

Còn đâu tiếng nói Mẹ Cha

Đâu rồi thoang thoảng hươngcau

Đâu rồi thơm thơm nếp một

Chim ơi, sao không tiếng hót

Ve ơi, sao vẳng reo sầu

Ngập ngừng dừng bước bên cầu

Bèo tan lung linh nước chảy

Bóng mẹ, mịt mờ không thấy

Hình cha, mất hút nhạt nhòa

Vành mi rơi đọng giọt khô

Lăn lăn trên bờ ngấn lệ

Chắp tay ôm hình bóng mẹ

Thẫn thờ mơ vóc dáng cha

Lá me đưa đẩy la đà

Phất phơ một cành hoa trắng

Vành áo bao lần đã gắn

Vết mòn in dấu từ lâu

Mẹ ơi, bạc trắng hoa cau

Cha ơi, đèo heo hút gió

Đêm đêm sao mờ sao tỏ

Đi vào một cõi trơ vơ

Nhiều đêm tỉnh mộng đêm mơ

Thương Cha nhớ Mẹ vật vờ hồnđau

Nhìn trông cửa trước cửa sau

Thương Cha nhớ Mẹ ruột đauchín chiều

Đưa hồn về chốn cô liêu

Còn đâu tiếng nói yêu kiều MẹCha.

Tháng 03 – 2009

Tiếng khóc Mồ Côi

Từ ngày xa cha

Lòng buồn không tiếng nói

Đến khi mất mẹ

Miệng thêm vắng tiếng cười

Hai tiếng mồ côi

Nước mắt mềm môi

Đón nhận và mang theo

Từ nay đến cuối cuộc đời

Hương thờ quyện khói lên ngôi

Tìm Cha tìm Mẹ, lên đồi hoangvu

Trăng sao khuất bóng mây mù

Tìm Cha tìm Mẹ, ngàn thu hoenmờ

Nấm mộ tiêu sơ quạnh quẽ

Dọc đường cỏ dại lây lan

Con chim buồn bay đâu đó

Xác xơ tổ ấm hoang tàn

Mái nhà đìu hiu bỏ ngỏ

Bếp hồng lạnh lẽo tro than

Cửa trước nhện giăng màn gió

Vườn sau rau đắng ngập tràn

Đêm sâu sầu muộn canh tàn

Sao khuya ủ dột, trăng ngànchơi vơi

Nghiêng nghiêng núi ngã lưng đồi

Gập ghình sóng vỗ sông ngòibiển xa

Vọng vang tiếng nói không cha

Mất rồi tiếng mẹ, canh gà điểmsương

Trần gian biết mấy nẻo đường

Mồ côi nghe tiếng đoạn trườngai hay !!!

Tháng 03 – 2009

Nhà ma bỏ xó

Ngồi trong rọ, ôm trời thổibộng

Bốn bức tường, dẫm đất loanhquanh

Thì làm sao không tan nátđoạn đành

Đẩy một chiều, nhận một chiềuhoang tưởng

Đèo heo hút rít lạnh lùng gióchướng

Lưng chừng đồi mang vác gánhtiêu ma

Xây lâu đài trên bãi sậy phùsa

Đắp tường vách giữa bờ laucát bụi

Dưới thung lũng mơ màng đeođỉnh núi

Tiểu nhân thừa hụt hẫng vóctrượng phu

Ôm cái loa, banh cái miệngchu chu

Kê đẵn gỗ, đứng hỏng chânkhập khễnh

Như cái máy oang oang vô cảmtính

Vốn vô tâm, mục hạ, với vônhân

Đài hư hao cố đánh bóng phongthần

Vào nghĩa địa nhát ma cùngkhốc quỷ

Bã tanh hôi, ruồi muỗi bâuđen đủi

Đống tồi tàn, sâu bọ đụn mùncưa

Thi nhau dựng màn, dựng bãidây dưa

Vẽ ảo ảnh trét trây trêu phùthế

Rừng hoang dại lang thang conchó ghẻ

Hang tối tăm ủm thủm con cóckhô

Đâu đợi mai kia, dắt díu xuốngmồ

Vốn ủm thủm như nhà ma bỏ xó.

Tháng 3 – 2009

Đi tận cùng chung thỉ !

Tôi mở mắt, người ngồi yên,không nói

Tôi nhắm mắt, người đứng đó,giang tay

Dù nắng mưa, sương gió, sángtối, đêm ngày

Trải năm tháng trầm ngâm cùngvũ trụ

Tôi nhặt rong rêu bóng hình xưacũ

Cát bụi nhòa xây xát bãi phùsa

Trải tang thương, nghiệt ngãvẽ ta bà

Hằng lưu xuất huyễn thân cùngthiên thể

Hạt cát kia từ hồng hoang chưabể

Hạt muối này trong biển mặnchưa tan

Đường dọc, ngóng đợi con đườngngang

Đường tung, chờ đường hoànhcuối đỉnh

Cỡi vô thường vào chiều hoangtịch tĩnh

Đón rong rêu về quán trọ hoànghôn

Nhặt tiêu sơ để đếm những mấtcòn

Vẽ trinh nguyên quẳng trên bờthạch thảo

Hèn chi, người ngồi yên, khôngnói

Thảo nào, người đứng đó, thỏngtay

Và tôi, không biến thể mảymay

Hòa vũ trụ đi tận cùng chungthỉ.

Tháng 3 – 2009

Mặc Tử trăm năm

Mộng Cầm lặng lẽ dướiđêm trăng

Thấp thoáng bên sông bóng chịHằng

Lẩn thẩn cây đa hình chú Cuội

Âm thầm Mặc Tử kiếp trăm năm

Tháng 4 – 2009

01. Tiếng lòng nức nở quêhương 01

02. Thầm lặng 02

03. Việt Nam, quê hương cònđó 03

04. Quê hương còn đó, đợi chờ04

05. Từ đó xa mờ 05

06. Tiếng kêu cứu quê hương 06

07. Thương Thầy An Thiên 07

08. Chùa tôi 08

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/01/2016(Xem: 7551)
Phải chi mây đã ngừng bay Phải chi gió chỉ nhẹ lay bên thềm Phải chi nắng hỡi đừng lên Phải chi nỗi nhớ đành quên một lần
12/01/2016(Xem: 7207)
Tuyết rơi trắng ngập sân chùa Hồi chuông theo gió đong đưa gợi thiền Tâm bất vọng quán nhân duyên Trần gian một chuỗi ưu phiền không tên Bạc đầu còn giấc ngủ quên Dẫu mai thức dậy cũng miền chiêm bao Thả neo đời giữa lao xao Để cho tĩnh lặng đi vào cõi chân
12/01/2016(Xem: 8739)
Trang Nhà Quảng Đức chúc xuân Đạo tràng Tu viện một lòng hướng quê “Dê” đi năm “khỉ” lại về “Tâm Viên Ý Mã” nguyện thề phải tu Là “khỉ” tâm rất lu bu Lăng xăng chạy nhảy oán thù tạo gieo
11/01/2016(Xem: 10153)
Tiền thân Đức Phật một thời Từng là chú khỉ sống nơi khu rừng Thân hình to lớn hào hùng Xiết bao mạnh mẽ, vô cùng thông minh, Nhân từ nổi tiếng rừng xanh Giúp người hoạn nạn tâm thành chứa chan. Một ngày rực rỡ ánh vàng Nắng trời tỏa ấm, gió ngàn vờn quanh
09/01/2016(Xem: 11885)
Thiên nhân hỏi: - Thanh kiếm nào sắc bén nhất? Chất độc nào tàn hại nhất? Ngọn lửa nào dữ dội nhất? Bóng đêm nào đen tối nhất? - Đức Phật trả lời: Lời nói trong lúc giận dữ là thanh kiếm sắc bén nhất, dục vọng là chất độc tàn hại nhất, đam mê là ngọn lửa dữ dội nhất, vô minh là bóng đêm đen tối nhất.
09/01/2016(Xem: 5994)
Theo “ngũ dục” (1) sẽ làm mờ chân tánh Khiến bao người phải lụy hại thân tâm Áng mây che tâm trí lắm mê lầm Bao kẻ chết cũng bởi vì ngũ dục: Vàng ngọc của tiền “tài” luôn thôi thúc Biết bao người ham muốn phải chạy theo Tưởng đâu rằng có nó sẽ hết nghèo
09/01/2016(Xem: 5703)
Xưa kia ở chốn núi rừng Có đàn khỉ nọ khoảng chừng năm trăm Họp bầy nô rỡn quanh năm, Một hôm khỉ rủ nhau thăm bìa rừng Có cây cổ thụ nhiều tầng Mọc bên bờ giếng sáng ngần ánh trăng. Giếng sâu. Dưới đáy nước trong Trăng tròn in bóng bềnh bồng nổi trôi Khỉ kêu: "Thôi chết! Nguy rồi! Mặt trăng rơi xuống giếng khơi đây này
07/01/2016(Xem: 6732)
Lập Tịnh Xá: Khai truyền mối đạo Cho chúng sanh nương náu tu hành Dắt người đến chỗ thiện lành Trau tâm dồi trí để thành hiền nhân. Lập Tịnh Xá: Xây nền đạo đức Cho chúng sanh tiến bước lên đường Về miền Cực Lạc Tây Phương Là nơi cảnh Phật Niết Bàn an vui.
05/01/2016(Xem: 8836)
Dòng tộc Họ Hồ tại Việt Nam Được khai sinh từ một người duy nhất Đã hơn một ngàn năm Xuất phát tại Hương Bào Đột Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An Vào thời đại Nhà Ngô - Nhà Đinh Đại Cồ Việt Ngài chính là Đức Nguyên Tổ Hồ Hưng Dật Ngài mang họ Hồ, một tộc họ Bách Việt Văn võ tuyệt siêu, học vị trạng nguyên
02/01/2016(Xem: 19721)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì 15 năm (1278 – 1293) và làm Thái Thượng hoàng 15 năm. Trần Nhân Tông được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh minh nhất trong lịch sử Việt Nam. Ông có vai trò lãnh đạo quan trọng trong Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 2 và lần 3. Trần Nhân Tông cũng là người đã thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, lấy pháp hiệu là Đầu ĐàHoàng Giác Điều Ngự. (Tham khảo từ trang Web. Vikipedia.org VN.)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567