Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

76. Thiền sư Huệ Nam ở Hoàng Long khai Tổ hệ phái Hoàng Long

04/09/201102:42(Xem: 8707)
76. Thiền sư Huệ Nam ở Hoàng Long khai Tổ hệ phái Hoàng Long

THIỀNSƯ TRUNG HOA
HTThích Thanh Từ

TẬP 2
ĐỜI THỨMƯỜI HAI SAU LỤC TỔ

76.THIỀN SƯ HUỆ NAM
ỞHoàng Long khai Tổ hệ phái Hoàng Long - (1002-1069)

[PháiHoàng Long là một chi nhánh trong tông Lâm Tế. Tông Lâm Tếđến đây chia hai phái Hoàng Long và Dương Kỳ.]

Sưhọ Chương tên Huệ Nam ở Ngọc Sơn Tín Châu. Thuở bé đãcó vẻ thâm trầm hiện tướng đại nhân, chẳng ăn cá thịt,không ưa hát xướng. Năm mười một tuổi, Sư theo thầy TríLoan ở viện Định Thủy xuất gia. Đến mười chín tuổiSư thọ giới cụ túc. Đi du phương, Sư đến chùa Qui Tôngở Lô Sơn yết kiến Thiền sư Tự Bảo. Mỗi khi họp chúng,chúng đều ngồi chỉ riêng Sư đứng dựa ghế, Tự Bảo thườngnhìn Sư. Từ đây về sau, Sư ngồi thì tréo kiết già, đithì nhìn thẳng đến trước.

*

Sưđến Thê Hiền nương nơi Thiền sư Thị. Thê Hiền dạy chúngrất có qui củ, Sư ở đây ba năm làm người mô phạm trongchúng.

Từtạ Thê Hiền, Sư sang sông Hoài đến nương Thiền sư HoàiTrừng ở Tam Giác. Hoài Trừng trông thấy Sư liền chấp nhậncho ở.

Sau,Hoài Trừng dời trụ ở Phần Đàm. Sư cũng đồng theo. HoàiTrừng chia Sư một phần nhiệm vụ trong việc tiếp độ chúngtăng. Thiền sư Văn Duyệt thấy thế, mỗi khi đến Phần Đàmtrở về, than: Huệ Nam là món đồ hữu ích cho đạo, rấttiếc chưa gặp được thầy đào luyện.

Nhândịp Sư và Văn Duyệt cùng đi Tây Sơn, ban đêm nghỉ lại,hai người đàm đạo. Văn Duyệt nói: Thiền sư Hoài Trừngtuy là con cháu Vân Môn, nhưng pháp đạo còn khác xa Vân Môn.Sư hỏi: Khác ở chỗ nào? Văn Duyệt đáp: Vân Môn như đơnsa đã chín phen luyện, để vào sắt liền biến thành vàng;Hoài Trừng như được hống ngân nhìn thấy đẹp mắt, màđể vào lò liền chảy. Sư nổi giận cầm chiếc gối némVăn Duyệt. Sáng ra Văn Duyệt xin lỗi lại nói: Chí khí VânMôn như vua, cam chịu tử ngữ sao? Hoài Trừng có pháp dạyngười là tử ngữ. Tử ngữ mà hay làm người sống đượcsao? Nói xong Văn Duyệt liền bỏ đi. Sư kéo lại nói: Nếuvậy thì ai có thể hợp ý Thầy? Văn Duyệt bảo: Thạch SươngSở Viên thủ đoạn vượt cả mọi nơi, Thầy muốn yết kiếnthì không nên chậm trễ. Sư thầm nghĩ: Đây là việc lớncủa người hành khước vậy, Văn Duyệt là đồ đệ ThúyNham, mà dạy ta đến yết kiến Thạch Sương thì có liên hệgì đến ông đâu?

Sưliền sửa soạn khăn gói sáng hôm sau lên đường. Đi đếnnửa đường, Sư nghe Từ Minh mỗi việc đều lừa đảo Thiềnsinh, liền thối chí không đi, không đi ở lại làng Bình nhiềungày. Kế, Sư lên Hoành Nhạc đến chùa Phước Nghiêm yếtkiến Thiền sư Hiền, Thiền sư Hiền cử Sư làm thơ ký. ChợtThiền sư Hiền tịch, quận thú mời Từ Minh đến trụ trì.Được tin này, Sư rất hoan hỉ có cơ hội để nghiệm xétlời Văn Duyệt nói.

TừMinh đến, Sư trông thấy thân tâm đều cung kính. Nghe TừMinh luận nói phần nhiều chê các nơi mỗi điều đều thuộctà giải. Chính chỗ Sư được mật chỉ nơi Phần Đàm cũngbị bác bỏ. Sư nhớ lại lời nói của Văn Duyệt lúc bìnhnhật rất đúng. Sư liền thay đổi quan niệm nói: đại trượngphu trong thâm tâm cứ nghi ngại hoài sao?

Sưliền vào thất Từ Minh, thưa:

- HuệNam do tối dốt trông đạo mà chưa thấy, giờ tham thiền khihôm, nghe Thầy dạy như người đi lạc đường được xe chỉnam. Cúi xin Hòa thượng đại từ bố thí pháp khiến cho condứt hết nghi ngờ?

TừMinh cười bảo:

- Thơký đã lãnh đồ chúng và du phương nổi tiếng khắp tùnglâm, nếu còn có nghi ngờ chẳng cần khổ cầu như vậy, hãyngồi mà thương lượng.

TừMinh liền gọi thị giả đem cái ghế mời Sư ngồi. Sư vẫntừ chối và thành khẩn tha thiết cầu chỉ dạy.

TừMinh bảo:

- Thơký học thiền Vân Môn ắt thông được yếu chỉ ấy. Nhưnói: ?tha Động Sơn ba gậy? Động Sơn khi ấy nên đánh haychẳng nên đánh?

Sưthưa:- Nên đánh.

TừMinh nghiêm nghị bảo:

- Nghetiếng ba gậy liền cho là nên ăn gậy, vậy ông từ sáng đếnchiều nghe chim kêu trống đánh tiếng chuông tiếng bảng...cũng nên ăn ba gậy. Ăn gậy đến lúc nào mới thôi.

Sưchỉ nhìn sững mà thôi.

TừMinh lại bảo:

- Tôilúc đầu nghi không thể làm thầy ông. Giờ đây đã đủtư cách làm thầy ông. Ông hãy lễ bái đi.

Sưlễ bái xong, đứng dậy.

TừMinh nhắc lời trước:

- Nếuông hội được ý chỉ Vân Môn thì, Triệu Châu thường nói "bà già ở Đài Sơn bị ta khám phá", thử chỉ ra chỗ khámphá xem?

Sưmặt nóng hực mồ hôi xuất hạn không biết đáp thế nào,bị Từ Minh đuổi ra.

*

Hômsau, Sư lại vào thất, bị Từ Minh mắng chửi. Sư hổ thẹn,nhìn những người hai bên nói:

- Chínhvì chưa hiểu cầu quyết nghi, mắng chửi đâu phải qui củtừ bi thí pháp!

TừMinh cười nói:- Đó là mắng chửi sao?

Ngaycâu này, Sư đại ngộ. Làm bài tụng rằng:

Kiệt xuất tùng lâm thị Triệu Châu

Lão bà khám xứ một lai do

Như kim tứ hải thanh như cảnh

Hành nhân mạc dĩ lộ vi thù.

Dịch:

Giỏi vượt tùng lâm là Triệu Châu

Lão bà nơi khám không mối manh

Hiện nay bốn biển như gương sáng

Bộ hành thôi chớ ghét con đường.

TừMinh lấy tay chỉ ngay chữ MỘT nhìn Sư. Sư liền đổi chữấy thành chữ HỮU. Từ Minh gật đầu.

*

Sưdừng lại đây hơn một tháng, rồi từ tạ du phương. Nămấy, Sư được ba mươi lăm tuổi. Đến Kim Loan, Sư gặp đượcVăn Duyệt. Thấy nhau, Sư cười nói: Tôi nếu chẳng nhờ Sưhuynh và Cốc Tuyền thì đâu biết được Từ Minh.

*

Sau,Sư khai pháp ở Đồng An. Ngày đầu, Sư thượng đường:

- Biểntrí không tánh, bởi cái giác vọng nên thành phàm. Cái giácvọng vốn rỗng, tức tâm phàm mà thấy Phật, liền vậy thôiđi. Nghĩa là Đồng An (Sư) không chia hợp, tùy chỗ muốn điênđảo của các ông. Nam đẩu bảy, Bắc đẩu tám...

*

LúcSư trụ trì tại Qui Tông, một đêm lửa cháy chùa, đại chúngđều kêu la dậy núi, mà Sư vẫn ngồi yên như bình thường.Tăng Hồng Chuẩn muốn dời Sư chạy, bị Sư quở. Chuẩn thưa:Dù Hòa thượng chán thế gian, song đạo pháp Từ Minh trôngcậy vào chỗ nào? Sư mới chịu sửa áo đứng dậy. Lúc ấylửa đã cháy ào đến cháy nám da và rụi râu tóc của Sư.Quan địa phương dẫn dân chúng đến cứu lửa. Thấy Sư vẫnvui vẻ như thường, chỉ không ăn mà thôi. Đến hai thángsau, râu tóc mới ra lại, da thịt mới lành.

*

Sưdời về Hoàng Bá cất am bên khe suối để tên là Tích Thủy.Tăng chúng nước Mân nước Việt nghe đạo phong của Sư đuanhau tìm đến.

Sưdạy chúng:- Thiền sư Vĩnh Gia nói:

Du giang hải, thiệp sơn xuyên

Tầm sư phỏng đạo vị tham thiền

Tự tùng nhân đắc Tào Khê lộ

Liễu tri sanh tử bất tương quan.

Dịch:

Dạo sông biển, dẫm núi khe

Tìm thầy học đạo gọi tham thiền

Từ ngày nhận được Tào Khê lộ

Biết rành sanh tử chẳng tương quan.

ChưThượng tọa! cái nào gọi là dạo núi sông? cái nào gọilà tầm sư? cái nào gọi là tham thiền? cái nào gọi là hỏiđạo? Nhằm Hoài Nam, Lưỡng Chiếc, Lô Sơn, Nam Nhạc, VânMôn, Lâm Tế, mà cầu thầy hỏi đạo; Động Sơn, Pháp Nhãnmà tham thiền, ấy là nhằm bên ngoài tìm cầu, gọi là ngoạiđạo. Nếu lấy tánh Tỳ-lô làm biển trí Bát-nhã, tịch diệtlàm thiền, gọi là cầu bên trong. Nếu cầu bên ngoài thìngươi chạy mãi; nếu dừng lại cầu bên trong năm uẩn làngươi bị trói mãi. Thế nên, Thiền chẳng phải trong ngoài,chẳng phải có không, chẳng phải thật hư. Đâu chẳng nghenói: thấy trong thấy ngoài đều lầm, Phật đạo ma đạođều ác. Chợt vậy bỏ đi chừ trăng lặn núi tây, lại tìmdanh sắc chừ nơi nào danh mạo?

*

Sưở trong thất thường hỏi Tăng:

- Ngườingười trọn có sanh duyên, Thượng tọa sanh duyên tại chỗnào?

Chínhlúc vấn đáp qua lại, Sư lại duỗi tay, nói:

- Taytôi sao giống tay Phật?

Hỏichỗ sở đắc của Tông sư các vị đến tham thỉnh, Sư liềnduỗi chân nói:

- Chântôi sao giống chân lừa?

Hơnba mươi năm lấy ba câu này hỏi, học giả khó khế ngộ huyềnchỉ. Khắp các tùng lâm gọi là tam quan (ba cửa). Nếu cóai đáp thì, Sư không nói phải chẳng phải, vẫn khép mắtngồi thẳng, không ai lường được ý ấy.

PhanHưng Từ thường hỏi lý do ấy. Sư bảo:

- Đãra khỏi cửa thì lay tay đi thẳng, chẳng cần biết có kẻgác cửa.

Từngười gác cửa hỏi phải chẳng phải, ấy là người chưaqua khỏi cửa vậy. Sư tự làm tụng rằng:

Sanh duyên hữu ngữ nhân giai thức

Thủy mẫu hà tằng ly đắc hà

Đản kiến nhật đầu đông bạn thượng

Thùy năng cánh khiết Triệu Châu trà.

Dịch:

Sanh duyên có nói người đều biết

Thủy mẫu đâu từng lìa được tôm

Chỉ thấy vầng ô bờ đông tiến

Ai hay lại uống trà Triệu Châu.

*

Ngã thủ Phật thủ tịnh cử

Thiền nhân trực hạ tiến thủ

Bất động can qua đạo xuất

Đương xứ siêu Phật việt Tổ.

Dịch:

Tay ta tay Phật đồng nêu

Thẳng đó thiền nhân tiến lấy

Chẳng khua gươm giáo nói ra

Nơi đây siêu Phật vượt Tổ.

*

Ngã cước lô cước tịnh hành

Bộ bộ đạp trước vô sanh

Trực đãi vân khai nhật hiện

Phương tri thử đạo tung hoành.

Dịch:

Chân ta chân lừa đồng đi

Bước bước đạp đến vô sanh

Thẳng đợi mây tan nhật hiện

Mới biết đạo này tung hoành.

*

Tổngtụng:

Sanh duyên đoạn xứ thân lô cước

Lô cước thân thời Phật thủ khai

Vị báo ngũ hồ tham học giả

Tam quan nhất nhất thấu tương lai.

Dịch:

Chỗ dứt sanh duyên bày chân lừa

Chân lừa khi hiện tay Phật hiện

Vì bảo năm hồ khách tham tầm

Ba cửa nơi nơi suốt mai hậu.

*

Sưtrụ Hoàng Long hoằng hóa rất thạnh dám so bì với Mã Tổ,Bá Trượng. Đến niên hiệu Hy Ninh năm thứ hai (1069) ngàymười bảy tháng ba, Sư ngồi kiết già thị tịch. Sư thọsáu mươi tám tuổi, được năm mươi tuổi hạ.

Sưlà khai Tổ của Hệ phái Hoàng Long một chi nhánh trong tôngLâm Tế.



8.THIỀN SƯ ÐẠO NHẤT
MãTổ - (709 - 788)

Vìngười đời sau quá kính trọng Sư nên nhân Sư họ Mã gọilà Mã Tổ: ông Tổ họ Mã.

Sưhọ Mã, quê ở huyện Thập Phương, Hán Châu. Thuở nhỏ, Sưdung mạo lạ thường: đi như trâu, nhìn như cọp, lưỡi dàikhỏi mũi, dưới chân có hai khu ốc. Lúc bé, Sư đến chùaLa-hán xin xuất gia với Hòa thượng Ðường ở Từ Châu. SauSư thọ giới cụ túc nơi Luật sư Viên ở Du Châu.

Ðờèường khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742 T.L.), Sư tậpthiền định ở Viện truyền pháp tại Hoành Nhạc, nhân Thiềnsư Hoài Nhượng giáo hóa được giải ngộ. Bạn đồng thamhọc với Sư có sáu người, chỉ riêng Sư được truyền tâmấn.

Saukhi tạm biệt thầy, Sư đến Kiến Dương ở ngọn núi PhậtTích, kế dời sang Lâm Xuyên, sau lại đến núi Cung Công NamDương. Niên hiệu Ðại Lịch (765 T.L.) Liên soái Lộ Từ Cungvà Linh Phong, Cảnh Mộ thỉnh Sư khai đường để truyền bátông phong. Từ đây học giả bốn phương tụ hội về rấtđông. Có thể nói Giang Tây là một trường thi Phật.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Cácngươi mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâmPhật. Tổ Ðạt-ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp Thượngthừa nhất tâm, khiến các ngươi khai ngộ. Tổ lại dẫn kinhLăng-già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điênđảo không tự tin pháp tâm này mỗi người tự có, nên kinhLăng-già nói: "Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa pháp."(Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp môn.)

Phàmngười cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không riêngcó Phật, ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiệnchẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạttánh tội là không, mỗi niệm đều không thật, vì không cótự tánh nên tam giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đềulà cái bóng của một pháp, thấy sắc tức là thấy tâm, tâmkhông tự là tâm, nhân sắc mới có.

Cácngươi chỉ tùy thời nói năng tức sự là lý, trọn khôngcó chỗ ngại, đạo quả Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanhra thì gọi là sắc, vì biết sắc không, nên sanh tức chẳngsanh. Nếu nhận rõ tâm này, mới có thể tùy thời ăn cơmmặc áo nuôi lớn thai thánh, mặc tình tháng ngày trôi qua,đâu còn có việc gì.

Cácngươi nhận ta dạy hãy nghe bài kệ này:

Tâm địa tùy thời thuyết

Bồ-đề diệc chỉ ninh

Sự lý câu vô ngại

Ðương sanh tức bất sanh.

Dịch:

Ðất tâm tùy thời nói

Bồ-đề cũng thế thôi

Sự lý đều không ngại

Chính sanh là chẳng sanh.

*

Cóvị Tăng hỏi:- Hòa thượng vì cái gì nói tức tâm tức Phật?

Sưđáp:- Vì vỗ con nít khóc.

- Connít nín rồi thì thế nào?

- Phitâm phi Phật.

- Ngườitrừ được hai thứ này rồi, phải dạy thế nào?

- Nóivới y là "phi vật".

- Khichợt gặp người thế ấy đến thì phải làm sao?

- Hãydạy y thể hội đại đạo.

*

Cóvị Tăng hỏi:

- Lytứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Thầy chỉ thẳng ý Tổ sư từẤn Ðộ sang?

Sưđáp:

- Hômnay ta mệt nhọc không thể vì ngươi nói, ngươi đến hỏiTrí Tạng. Vị Tăng ấy đến hỏi Trí Tạng.

TríTạng bảo:- Sao không hỏi Hòa thượng?

Tăngđáp:- Hòa thượng dạy đến hỏi Thầy.

TríTạng hỏi:

- Hômnay tôi đau đầu, không thể vì ông nói, đến hỏi Sư huynhHải.

Tăngđến hỏi Hoài Hải, Hoài Hải bảo:- Ðến chỗ ấy tôi cũngchẳng hội.

Tăngtrở lại trình Sư, Sư bảo:- Tạng đầu bạch, Hải đầuhắc.

*

Cưsĩ Long Uẩn đến hỏi:

- Nướckhông gân xương hay thắng chiếc thuyền muôn hộc, lý nàythế nào?

Sưđáp:- Trong ấy không nước cũng không thuyền, nói gì là gânxương?

Uẩnbảo:- Người không lầm xưa nay, thỉnh Thầy để mắt nhìnlên!

Sưliền nhìn thẳng xuống.

Uẩnnói:- Một cây đàn cầm không dây, mà Thầy đàn rất hay.

Sưliền nhìn thẳng lên. Uẩn lễ bái. Sư trở về phương trượng.Uẩn theo sau thưa:- Vừa rồi muốn làm khéo trở thành vụng.

*

Mộtđêm, Trí Tạng, Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Sư xem trăng.

Sưhỏi:- Ngay bây giờ nên làm gì?

TríTạng thưa:- Nên cúng dường.

HoàiHải thưa:- Nên tu hành.

PhổNguyện phủi áo ra đi.

Sưbảo:- Kinh vào Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyệnvượt ngoài sự vật.

*

HoàiHải hỏi:- Thế nào là chỉ thú Phật pháp?

Sưđáp:- Chính là chỗ ngươi bỏ thân mạng.

Sưlại hỏi Hoài Hải:- Ngươi lấy pháp gì chỉ dạy người?

HoàiHải dựng đứng cây phất tử.

Sưbảo:- Chỉ thế thôi hay còn gì khác?

HoàiHải ném cây phất tử xuống.

*

Tănghỏi:- Thế nào được hiệp đạo?

Sưđáp:- Ta sớm chẳng hiệp đạo.

Tănghỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?

Sưliền đánh và nói:- Ta nếu không đánh ngươi, các nơi sẽcười ta.

*

ÐặngẨn Phong từ biệt Sư đi nơi khác, Sư hỏi:- Ði đến đâu?

ẨnPhong thưa:- Ði đến Thạch Ðầu.

- ÐườngThạch Ðầu trơn.

- Cócây gậy tùy thân, gặp trường thì đùa.

ẨnPhong vừa đi đến Thạch Ðầu đi nhiễu giường thiền mộtvòng, dựng tích trượng động đất một tiếng, hỏi:

- Ấylà tông chỉ gì?

ThạchÐầu nói:- Trời xanh! trời xanh!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về thưa với Sư. Sư bảo:

- Ngươinên đi lại bên ấy, nếu Thạch Ðầu nói "trời xanh!" ngươi"hư! hư!"

ẨnPhong lại đi đến Thạch Ðầu làm như trước.

ThạchÐầu bèn: Hư! hư!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về trình với Sư. Sư bảo:

- Tađã nói với ngươi "đường Thạch Ðầu trơn".

*

Cóvị Giảng sư đến hỏi:- Thiền tông truyền giữ pháp gì?

Sưhỏi lại:- Tọa chủ truyền giữ pháp gì?

- Tôigiảng được hơn hai mươi bản kinh luận.

- Ðâukhông phải là sư tử con?

- Khôngdám.

Sưthốt ra tiếng: Hư! hư!

Giảngsư nói:- Ðây là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ra khỏi hang.

Sưbèn im lặng.

Giảngsư nói:- Ðây cũng là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ở trong hang.

- Khôngra không vào là pháp gì?

Giảngsư không đáp được, bèn từ giã đi ra đến cửa, Sư gọi:

- Chủtọa!

Giảngsư xoay đầu lại.

Sưhỏi:- Là pháp gì?

Giảngsư cũng không đáp được.

Sưbảo:- Ông thầy độn căn.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Ðạokhông dụng tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? - Có tâmsanh tử, tạo tác, thú hướng đều là ô nhiễm. Nếu muốnhội thẳng đạo ấy, tâm bình thường là đạo. Sao gọi làtâm bình thường? -Không tạo tác, không thị phi, không thủxả, không đoạn thường, không phàm thánh. Kinh nói: "Chẳngphải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh thánh hiền, là hạnhBồ-tát." Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm, ứng cơ tiếpvật đều là đạo. Ðạo tức là pháp giới, cho đến diệudụng như hà sa đều không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phảivậy, tại sao nói "pháp môn tăng địa", tại sao nói "vô tậnđăng"? Tất cả pháp đều là pháp của tâm, tất cả tênđều là tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm sanh, tâm làcội gốc của muôn pháp. Kinh nói: "Biết tâm đạt cội nguồnnên hiệu là Sa-môn." Tên đồng nghĩa đồng, tất cả phápđều đồng thuần nhất không lẫn lộn.

Nếuở trong giáo môn được tùy thời tự tại thì dựng lậppháp giới trọn là pháp giới, lập chân như là chân như,lập lý tất cả pháp trọn là lý, lập sự tất cả pháptrọn là sự, nắm giở một thì ngàn theo, sự lý không khác,toàn là diệu dụng. Lại không có lý riêng, đều do xoay lạicủa tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng thì có, mà bao nhiêumặt trăng thật thì không, bao nhiêu nguồn nước thì có, màbao nhiêu tánh nước thì không, bao nhiêu sum la vạn tượngthì có, mà bao nhiêu hư không thì không, bao nhiêu lời nóiđạo lý thì có, mà bao nhiêu Tuệ vô ngại thì không; bao nhiêucác thứ thành lập đều do một tâm. Dựng lập cũng được,dẹp hết cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọnlà nhà mình, chẳng phải lìa chân mà có, nơi nơi đều chân,thảy đều là thể của nhà mình.

Nếuchẳng vậy, lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phậtpháp, các pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là chânnhư, các pháp không ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảylà dụng bất tư nghì, không đợi thời tiết. Kinh nói: "Chỗchỗ nơi nơi đều có Phật." Phật là năng nhân, có trí tuệkhéo hợp lòng người, hay phá lưới nghi cho tất cả chúngsanh, vượt ra vòng trói buộc của có và không v.v... tình chấpphàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển bánh xe khônggì hơn, vượt các số lượng, việc làm không ngại, sự lýđều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không, chẳngđể dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh khôngdiệt. Ðại tịch diệt tại triền gọi là Như lai tàng, xuấttriền gọi là Pháp thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm,hay lớn hay nhỏ, hay vuông hay tròn, hợp vật hiện hình nhưtrăng trong nước, vận dụng mênh mông, không lập mầm gốcchẳng hết hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là dụng củavô vi, vô vi là chỗ nương của hữu vi, chẳng trụ chỗ nương,nên nói: "Như không chẳng chỗ nương." Nghĩa tâm sanh diệt,nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng soi vậttượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấppháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt.Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như.

Thanhvăn tai nghe Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễuđạt không hai gọi là bình đẳng tánh. Tánh không có khác,dụng thì chẳng đồng. Tại mê là thức, tại ngộ là trí.Thuận lý là ngộ, theo sự là mê. Mê tức là mê bản tâmmình, ngộ là ngộ bản tánh mình. Một phen ngộ là hằng ngộchẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc lên khôngtrở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chungcùng cái tối phiền não. Liễu đạt cảnh giới của tâm liềntrừ vọng tưởng. Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháptánh sẵn có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồitức có chấp trước. Nếu thấy lý này là chân chánh hiệpđạo, tùy duyên qua ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnhhuân thêm, nhóm nơi tịnh nghiệp. Chỉ hay như thế, lo gì chẳngthông.

Ðệtử của Sư được nhập thất (được vào thiền thất, làđã ngộ đạo) có đến tám mươi bốn vị, mỗi người làmchủ một phương truyền hóa vô cùng.

Ðờèường niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tư (788 T.L.) khoảngtháng giêng, Sư lên núi Thạch Môn, Kiến Xương, đi kinh hànhtrong rừng thấy chỗ hang động bằng phẳng, bèn bảo thịgiả:

- Thâncũ mục của ta sẽ ở tháng sau và trở về nơi này. Nói xong,Sư trở về.

Ðếnngày mùng bốn tháng hai, Sư có chút bệnh, tắm gội xong, ngồikiết già nhập diệt, thọ tám mươi tuổi, được sáu mươituổi hạ.

Sauvua sắc ban hiệu Ðại Tịch.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567