Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

65. Thiền sư Từ Minh Sở Viên ở Thạch Sương

04/09/201102:42(Xem: 8934)
65. Thiền sư Từ Minh Sở Viên ở Thạch Sương

THIỀNSƯ TRUNG HOA
HTThích Thanh Từ

TẬP 2
ĐỜI THỨMƯỜI MỘT SAU LỤC TỔ

65.THIỀN SƯ TỪ MINH SỞ VIÊNỞThạch Sương - (987 - 1041)

Sưhọ Lý quê ở Toàn Châu, lúc nhỏ làm thư sinh, đến năm haimươi hai tuổi Sư đến chùa An Tịnh ở núi Tương xin xuấtgia. Mẹ Sư có hạnh hiền đức khuyến khích du phương. Sưdu phương đến khoảng Nhượng Miện kết bạn cùng Thủ Chi,Cốc Tuyền đồng vào Lạc Dương. Nghe danh Thiền sư ThiệnChiêu ở Phần Dương là tri thức bậc nhất trong thiên hạ,Sư quyết chí tìm đến. Khi ấy nhằm lúc triều đình cửđại binh đến hỏi tội Hà Đông Lộ Trạch, nhiều ngườikhuyên Sư đừng đi. Sư bất chấp một mình vượt sông leonúi đi đến Phần Dương.

PhầnDương trông thấy Sư liền thầm chấp nhận. Sư ở đây đãhai năm mà chưa được nhập thất (thấy tánh được gọivào trượng thất dạy riêng).

Mỗikhi Sư vào thưa hỏi, chỉ bị Phần Dương mắng chửi thậmtệ, hoặc nghe chê bai những vị khác, nếu có dạy bảo toàndùng lời thế tục thô bỉ. Một hôm Sư trách: từ ngày đếnpháp tịch này đã qua mất hai năm mà chẳng được dạy bảo,chỉ làm tăng trưởng niệm thế tục trần lao, năm tháng quanhanh việc mình chẳng sáng, mất cái lợi của kẻ xuất gia.Sư nói chưa dứt, Phần Dương nhìn thẳng vào Sư mắng: đâylà ác tri thức dám chê trách ta. Phần Dương nổi nóng cầmgậy đuổi đánh. Sư toan la cầu cứu, Phần Dương liền bụmmiệng Sư. Sư chợt đại ngộ, nói: mới biết đạo của LâmTế vượt ngoài thường tình. Sư ở lại đây hầu hạ bảynăm.

*

Sưđến Thiền sư Tụng ở Đường Minh dừng lại đây, Tụngbảo: Dương Đại Niên tri kiến cao minh, vào đạo chân thật,ngươi nên đến ra mắt.

Sưđến ra mắt Đại Niên. Đại Niên hỏi: Đối diện chẳngbiết nhau, muôn dặm lại đồng phong. Sư nói: Gần đây vânglời thỉnh của Sơn Môn. Đại Niên nói: Thật cái thoát không.Sư nói: Tháng trước rời Đường Minh. Đại Niên nói: Vừarồi ăn năn đã hỏi nhau. Sư nói: Tác gia (chân thiện tri thức).Đại Niên bèn hét! Sư nói: Gần phải. Đại Niên lại hét!Sư lấy tay vẽ một lằn. Đại Niên le lưỡi nói: Thật làLong tượng. Sư nói: Ấy là lời gì? Đại Niên gọi: Kháchty đem trà lại! vốn là người trong nhà. Sư nói: Cũng chẳngtiêu được.

Tràxong, Đại Niên lại hỏi: Thế nào là một câu Thượng tọavì người? Sư đáp: Thiết! Đại Niên nói: Thế ấy thì côgái mặc quần dài chạy trong bùn. Sư nói: Ai được giốngĐại Niên. Đại Niên nói: Tác gia, tác gia. Sư nói: Tha ônghai mươi gậy, Đại Niên vỗ trên đầu nói: Trong ấy là còncái gì? Sư vỗ tay nói: Cũng chẳng đặng bỏ qua, Đại Niêncười to.

ĐạiNiên lại hỏi: Nhớ được nhân duyên Đường Minh đươngthời ngộ đạo chăng? Sư nói: Đường Minh hỏi Thủ Sơn ?thếnào là đại ý Phật pháp?, Thủ Sơn đáp: "bên thành vua Sởsông Nhữ chảy về đông". Đại Niên hỏi: Nói như thế ýchỉ thế nào? Sư đáp: Trên nước thả lồng đèn. Đại Niênnói: Thế ấy là cô phụ người xưa rồi. Sư nói: Đại Niênnghi thì tham vấn nơi khác. Đại Niên nói: Ba chân con ếchnhảy lên trời. Sư nói: Một mặc tình nhảy. Đại Niên cườito. Sư dừng lại nơi khách xá, sớm chiều cùng Đại Niênbàn luận.

*

ĐạiNiên vào triều nói với Đô úy Lý Tôn Úc: Tôi gần đượcmột đạo nhân thật là Sư tử Tây Hà. Lý nói: Tôi bận việckhông thể đến ra mắt thì sao? Đại Niên im lặng.

ĐạiNiên trở về thưa với Sư: Lý công là người trong Phật pháp,nghe đạo phong của Thầy từ xa đến có tâm mong gặp, vìbận việc quốc chánh không thể cùng theo tôi đến đây.

Sưđến Lê Minh ra mắt Lý công. Lý công sai đứa bé ra thưa:nói được thì cùng Thượng tọa thấy nhau. Sư bảo: Ngàynay đặc biệt đến xem nhau. Đứa bé vào. Lý Công bảo ranói: văn bia khắc chữ trắng, giữa đường trồng tùng xanh.Sư đáp: Chẳng bởi tiết ngày nay, hôm khác định khó gặp.Đứa bé vào thưa lại, trở ra bạch: Đô úy nói "thế ấycùng Thượng tọa thấy nhau rồi".

Lýcông ra tiếp Sư, mời ngồi xong, Lý công hỏi: Tôi nghe ởTây Hà có con sư tử lông vàng phải chăng? Sư đáp: Ở chỗnào được tin tức ấy? Lý Công liền hét! Sư bảo: Tiếngdã can. Lý công lại hét! Sư nói: Vừa phải. Lý công cườito.

Sưtạm biệt, Lý công hỏi: Thế nào là một câu Thượng tọasắp đi? Sư nói: Khéo sắp dứt. Lý công nói: Đâu khác cácnơi. Sư hỏi: Đô úy lại làm sao? Lý công nói: Tha Thượngtọa hai mươi gậy. Sư nói: Toàn là lưu thông. Lý công hét!Sư nói: Mù! Lý công nói: Đi vui vẻ. Sư ứng: Dạ! dạ!

Từđây, Sư qua lại nhà họ Dương họ Lý kết làm bạn pháp.

LúcSư còn ở Phần Dương, nghe Phần Dương nói: ta tham vấn khắphết con cháu Vân Môn, còn hận chưa được yết kiến Thiềnsư Hiểu Thông. Sư tìm đến Động Sơn chỗ Thiền sư HiểuThông ở lại ba năm làm Thủ chúng.

*

Sưđến Ngưỡng Sơn, Dương Đại Niên gởi thơ cho Thái thú NghiXuân là Huỳnh Tông Đán thỉnh Sư trụ trì giáo hóa. Tháithú thỉnh Sư trụ tại chùa Nam Nguyên. Sau khi trụ, Sư thượngđường dạy chúng:

- Tấtcả chư Phật và pháp A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề củachư Phật đều từ kinh này ra (kinh Kim Cang).

Sưdựng đứng cây gậy, nói: Cái này là cây gậy của Nam Nguyên,cái gì là kinh?

Sưim lặng giây lâu, nói: về sau văn dài trao lại ngày khác.

Sưhét một tiếng bước xuống tòa.

*

Tănghỏi:- Thế nào là Phật?

Sưđáp:- Nước chảy ở cao nguyên.

- Thếnào là cảnh Nam Nguyên?

- SôngHoàng Hà chín khúc xuất phát từ Côn Lôn.

- Thếnào là người trong cảnh?

- Theodòng người chẳng đoái, chặt tay trông Phù Tang (Nhật Bản).

*

Sưtrụ trì Nam Nguyên ba năm, giao chùa đi du phương. Đến yếtkiến Thiền sư Chân ở Thần Đảnh. Thần Đảnh là cao đệcủa Thủ Sơn Niệm. Các Thiền sinh ít ai dám lên núi này,vì đạo phong cao vút của Ngài. Ngài ở núi ba mươi năm, mônđệ đều ăn đứt hết các nơi.

Sưđể tóc dài chẳng cạo, mặc y rách nói tiếng Sở, xin vàoyết kiến xưng là cháu trong Phật pháp. Toàn chúng trông thấySư đều cười vang, Thần Đảnh sai Đồng Tử ra hỏi: Trưởnglão nối pháp ai? Sư ngước nhìn lên nói: Chính thấy PhầnDương đến. Thần Đảnh ra xem thấy ái ngại hỏi: Phần Dươngcó sư tử Tây Hà phải chăng? Sư chỉ lại sau kêu to: Thấtngã! Đồng Tử chạy hoảng. Thần Đảnh xây đầu ngó lạingơ ngác, Sư ngồi xuống đất cởi chiếc dép xem. Thần Đảnhquên lời hỏi, cũng không nhớ Sư đang ở đó. Sư từ từđứng dậy sửa y phục ra đi, nói: nghe danh chẳng bằng thấymặt. Thần Đảnh sai người theo tìm mà chẳng gặp, bèn than:Phần Dương lại có đứa con này sao?

*

Sa-mônBôn Diên cùng Quận thú thỉnh Sư trụ trì Đạo Ngô.

Sưthượng đường:

- BảoỨng nói "câu thứ nhất tiến được kham cùng Phật Tổ làmthầy, câu thứ hai tiến được kham cùng người trời làmthầy, câu thứ ba tiến được tự cứu chẳng xong". ĐạoNgô thì chẳng thế, câu thứ nhất tiến được hòa bùn hợpnước, câu thứ hai tiến được không dây tự trói, câu thứba tiến được bốn góc dính đất. Do đó nói, ra đi thì sôngtrong biển lặng bộ hành tránh đường, đứng lại thì cànkhôn thất sắc mặt trời mặt trăng không sáng. Các ông nhằmchỗ nào hà hơi. Hiện nay có người nào hà hơi chăng? Nếucó, bước ra đối chúng hà hơi xem? Nếu không, Đạo Ngô sẽvì các ông hà hơi.

Sưbèn hư một tiếng, cầm gậy bước xuống tòa.

*

Sưthượng đường:

- ĐạoNgô đánh trống bốn đại bộ châu đồng tham. Cây gậy nằmngang, khêu động cả càn khôn đại địa. Úp bát xuống, cheđậy hằng sa thế giới. Thử hỏi, các ông nhằm chỗ nàoan thân lập mạng. Nếu là biết được nhằm Bắc Câu-lôChâu ăn cơm ăn cháo. Nếu là chẳng biết thì nằm dài trêngiường ăn cơm ăn cháo.

*

Sau,Sư trụ ở Thạch Sương. Nhân ngày giải hạ Sư dạy chúng:

- Ngàyxưa làm trẻ con, hôm nay tuổi đã già, chưa rõ ba tám chín,khó đạp đường cổ hoàng. Tay quét Hoàng Hà khô, chân đạptu-di ngã, phù sanh thân mộng huyễn, mạng người đêm khógiữ. Thiên đường cùng địa ngục đều do tâm tạo ra, núinam tùng ngọn bắc, ngọn bắc cỏ núi nam. Một giọt thấmvô biên, gốc mầm mạnh khô kháo, tham học vào năm hồ, chỉhỏi hư không thảo. Chết cổi áo trời hạ, sanh đắp mềntrăng đông, rõ ràng người vô sự, đầy đất sanh phiềnnão.

Sưhét một tiếng, bước xuống tòa.

*

Sưthượng đường:

- Mộthét phân chủ khách, chiếu dụng đồng thời hành, cần hộiý trong ấy, giữa trưa là canh ba.

Sưhét một tiếng, nói: Hãy nói là khách là chủ. Lại có ngườiphân rành được chăng? Nếu có người phân rành được thìsáng đánh ba ngàn, chiều đánh tám trăm. Nếu chưa có ngườiphân rành được thì Lão tăng mất lợi.

*

Tănghỏi:- Tổ Đạt-ma khi chưa đến thì thế nào?

Sưđáp:- Trường An đêm đêm nhà nhà trăng.

- Saukhi đến thì thế nào?

- Baochỗ nhịp ca bao chỗ buồn.

*

Sưthượng đường:

- Tacó một lời, bặt nghĩ quên duyên, khéo nói chẳng được,chỉ cốt tâm truyền. Lại có một câu không lỗi thẳng nêu.Thế nào là một câu thẳng nêu?

Sưlặng thinh giây lâu, cầm gậy vẽ một đường, hét một tiếng.

*

Sưthượng đường:

- Thuốcnhiều bệnh lắm, lưới dày cá đặc. Liền bước xuống tòa.

*

Sưdạy chúng, lấy gậy gõ giường thiền một tiếng, hỏi:

- Đạichúng hội chăng? Đâu chẳng nghe nói:

Nhất kích vong sở tri

Cánh bất giả tu trì

Chư phương đạt đạo giả

Hàm ngôn thượng thượng ky.

Tiếng gõ quên sở tri

Lại chẳng nhờ tu trì

Các nơi người đạt đạo

Đều gọi thượng thượng cơ.

HươngNghiêm ngộ thế ấy là rõ ràng ngộ Như Lai thiền, Tổ sưthiền còn chưa thấy được. Hãy nói Tổ sư thiền có cáigì đặc biệt? Nếu nhằm trong lời nói mà nhận thì lừabịp người sau. Dù cho dưới gậy lãnh lấy vẫn còn cô phụthánh trước. Muôn pháp vốn yên lặng chỉ tự người ồnnáo. Do đó, Sơn tăng ở Phước Nghiêm chỉ thấy cảnh giớiPhước Nghiêm, sáng dậy sớm, tối đi ngủ. Mây nổi trênngọn xanh, trăng lặn dưới đầm lạnh, tiếng chim kêu hótở trước đài Bát-nhã, hương hoa Sa-la rơi khấn vái bên sườnnúi. Cầm gây gậy tre ngồi trên bàn thạch, cùng Thiền sinhngũ hồ nói lời huyền vi.

Thayđầu đổi mặt đến trụ Hưng Hóa, chỉ thấy gia phong HưngHóa, đón đến đưa đi, cửa liền với thành thị xe ngựarộn ràng, ca hát tiêu tương, vượn ca Nhạc lộc, tiếng đờnca ngâm vịnh luôn luôn vào tai. Lại cùng bậc cao nhân trongtứ hải mỗi ngày bàn thiền đạo, năm tháng quên mất.

Hãynói ở núi sâu, trụ đô thành, lại có ưu liệt hay không?Thử nói xem.

Sưim lặng giây lâu, nói: chỗ chỗ đều Từ Thị cửa cửa thảyThiện Tài.

*

Niênhiệu Bảo Nguyên (1040) Lý đô úy sai sứ đến thỉnh Sư, thơviết: Bạn pháp trong nước chỉ có Thầy cùng Dương ĐạiNiên. Đại Niên đã bỏ tôi đi trước, năm nay tôi thấy giàsuy đến gấp, cái chết chực sẵn, mong được cùng Thầyhội kiến lần chót.

Sưxót thương cùng thị giả xuống thuyền đến kinh đô. Thuyềnđi trên sông, Sư làm kệ:

Trường giang hành bất tận

Đế lý đáo hà thời

Ký đắc lương phong tiện

Hưu tương lỗ trạo thi.

Sông dài đi chẳng tột

Đế đô đến bao giờ?

Đã gặp gió lành tốt

Thôi thì gác chèo chơi.

Đếnkinh đô, Sư cùng Lý đô úy hội kiến, luận bàn đạo lý.Hơn tháng sau, quả nhiên Đô úy sắp tịch. Giờ phút chót,Đô úy vẽ hình tròn, và làm bài thơ tặng Sư:

Thế giới vô y

Sơn hà phỉ ngại

Đại hải vi trần

Tu-di nạp giới.

Niệm khởi phốc đầu

Giải hạ yêu đời

Nhược mít tử sanh

Vấn thủ bì đại.

Thế giới không nương

Núi sông chẳng ngại

Đại hải vi trần

Tu-di hạt cải.

Gỡ phắt chiếc khăn

Cổi bỏ lưng thắt

Nếu tìm tử sanh

Hỏi lấy cái đãy.

Sưhỏi:- Thế nào là Phật tánh xưa nay?

Lýđáp:- Ngày nay nóng như ngày hôm qua.

Liềnđó, Lý hỏi lại Sư:- Một câu sắp đi thế nào?

Sưđáp:- Xưa nay không ngăn ngại, tùy chỗ mặc vuông tròn.

Lýnói:- Chiều đến mỏi mệt không đáp thoại.

Sưbảo:- Chỗ không Phật làm Phật.

Lýcông vui vẻ thị tịch.

*

Sưtrở về, vua Tống Nhân Tông cho thuyền đưa Sư. Đi giữa đường,Sư bảo thị giả: ta vừa bị bệnh phong. Nhìn thấy Sư miệngbị phong giật méo qua một bên. Thị giả dậm chân xuốngthuyền nói: Tại làm sao lúc bình thường quở Phật mắngTổ, hôm nay lại thế ấy? Sư bảo: Đừng lo, ta sẽ vì ngươisửa ngay lại. Sư lấy tay sửa lại, miệng ngay như cũ, nói:Từ nay về sau chẳng nhọc đến ngươi.

*

Nămsau (1041) Sư đến Hưng Hóa. Ngày mùng năm tháng giêng, Sư tắmgội xong, ngồi kiết già từ biệt chúng rồi tịch. Sư thọnăm mươi bốn tuổi, được ba mươi hai tuổi hạ.



8.THIỀN SƯ ÐẠO NHẤT
MãTổ - (709 - 788)

Vìngười đời sau quá kính trọng Sư nên nhân Sư họ Mã gọilà Mã Tổ: ông Tổ họ Mã.

Sưhọ Mã, quê ở huyện Thập Phương, Hán Châu. Thuở nhỏ, Sưdung mạo lạ thường: đi như trâu, nhìn như cọp, lưỡi dàikhỏi mũi, dưới chân có hai khu ốc. Lúc bé, Sư đến chùaLa-hán xin xuất gia với Hòa thượng Ðường ở Từ Châu. SauSư thọ giới cụ túc nơi Luật sư Viên ở Du Châu.

Ðờèường khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742 T.L.), Sư tậpthiền định ở Viện truyền pháp tại Hoành Nhạc, nhân Thiềnsư Hoài Nhượng giáo hóa được giải ngộ. Bạn đồng thamhọc với Sư có sáu người, chỉ riêng Sư được truyền tâmấn.

Saukhi tạm biệt thầy, Sư đến Kiến Dương ở ngọn núi PhậtTích, kế dời sang Lâm Xuyên, sau lại đến núi Cung Công NamDương. Niên hiệu Ðại Lịch (765 T.L.) Liên soái Lộ Từ Cungvà Linh Phong, Cảnh Mộ thỉnh Sư khai đường để truyền bátông phong. Từ đây học giả bốn phương tụ hội về rấtđông. Có thể nói Giang Tây là một trường thi Phật.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Cácngươi mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâmPhật. Tổ Ðạt-ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp Thượngthừa nhất tâm, khiến các ngươi khai ngộ. Tổ lại dẫn kinhLăng-già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điênđảo không tự tin pháp tâm này mỗi người tự có, nên kinhLăng-già nói: "Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa pháp."(Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp môn.)

Phàmngười cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không riêngcó Phật, ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiệnchẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạttánh tội là không, mỗi niệm đều không thật, vì không cótự tánh nên tam giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đềulà cái bóng của một pháp, thấy sắc tức là thấy tâm, tâmkhông tự là tâm, nhân sắc mới có.

Cácngươi chỉ tùy thời nói năng tức sự là lý, trọn khôngcó chỗ ngại, đạo quả Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanhra thì gọi là sắc, vì biết sắc không, nên sanh tức chẳngsanh. Nếu nhận rõ tâm này, mới có thể tùy thời ăn cơmmặc áo nuôi lớn thai thánh, mặc tình tháng ngày trôi qua,đâu còn có việc gì.

Cácngươi nhận ta dạy hãy nghe bài kệ này:

Tâm địa tùy thời thuyết

Bồ-đề diệc chỉ ninh

Sự lý câu vô ngại

Ðương sanh tức bất sanh.

Dịch:

Ðất tâm tùy thời nói

Bồ-đề cũng thế thôi

Sự lý đều không ngại

Chính sanh là chẳng sanh.

*

Cóvị Tăng hỏi:- Hòa thượng vì cái gì nói tức tâm tức Phật?

Sưđáp:- Vì vỗ con nít khóc.

- Connít nín rồi thì thế nào?

- Phitâm phi Phật.

- Ngườitrừ được hai thứ này rồi, phải dạy thế nào?

- Nóivới y là "phi vật".

- Khichợt gặp người thế ấy đến thì phải làm sao?

- Hãydạy y thể hội đại đạo.

*

Cóvị Tăng hỏi:

- Lytứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Thầy chỉ thẳng ý Tổ sư từẤn Ðộ sang?

Sưđáp:

- Hômnay ta mệt nhọc không thể vì ngươi nói, ngươi đến hỏiTrí Tạng. Vị Tăng ấy đến hỏi Trí Tạng.

TríTạng bảo:- Sao không hỏi Hòa thượng?

Tăngđáp:- Hòa thượng dạy đến hỏi Thầy.

TríTạng hỏi:

- Hômnay tôi đau đầu, không thể vì ông nói, đến hỏi Sư huynhHải.

Tăngđến hỏi Hoài Hải, Hoài Hải bảo:- Ðến chỗ ấy tôi cũngchẳng hội.

Tăngtrở lại trình Sư, Sư bảo:- Tạng đầu bạch, Hải đầuhắc.

*

Cưsĩ Long Uẩn đến hỏi:

- Nướckhông gân xương hay thắng chiếc thuyền muôn hộc, lý nàythế nào?

Sưđáp:- Trong ấy không nước cũng không thuyền, nói gì là gânxương?

Uẩnbảo:- Người không lầm xưa nay, thỉnh Thầy để mắt nhìnlên!

Sưliền nhìn thẳng xuống.

Uẩnnói:- Một cây đàn cầm không dây, mà Thầy đàn rất hay.

Sưliền nhìn thẳng lên. Uẩn lễ bái. Sư trở về phương trượng.Uẩn theo sau thưa:- Vừa rồi muốn làm khéo trở thành vụng.

*

Mộtđêm, Trí Tạng, Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Sư xem trăng.

Sưhỏi:- Ngay bây giờ nên làm gì?

TríTạng thưa:- Nên cúng dường.

HoàiHải thưa:- Nên tu hành.

PhổNguyện phủi áo ra đi.

Sưbảo:- Kinh vào Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyệnvượt ngoài sự vật.

*

HoàiHải hỏi:- Thế nào là chỉ thú Phật pháp?

Sưđáp:- Chính là chỗ ngươi bỏ thân mạng.

Sưlại hỏi Hoài Hải:- Ngươi lấy pháp gì chỉ dạy người?

HoàiHải dựng đứng cây phất tử.

Sưbảo:- Chỉ thế thôi hay còn gì khác?

HoàiHải ném cây phất tử xuống.

*

Tănghỏi:- Thế nào được hiệp đạo?

Sưđáp:- Ta sớm chẳng hiệp đạo.

Tănghỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?

Sưliền đánh và nói:- Ta nếu không đánh ngươi, các nơi sẽcười ta.

*

ÐặngẨn Phong từ biệt Sư đi nơi khác, Sư hỏi:- Ði đến đâu?

ẨnPhong thưa:- Ði đến Thạch Ðầu.

- ÐườngThạch Ðầu trơn.

- Cócây gậy tùy thân, gặp trường thì đùa.

ẨnPhong vừa đi đến Thạch Ðầu đi nhiễu giường thiền mộtvòng, dựng tích trượng động đất một tiếng, hỏi:

- Ấylà tông chỉ gì?

ThạchÐầu nói:- Trời xanh! trời xanh!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về thưa với Sư. Sư bảo:

- Ngươinên đi lại bên ấy, nếu Thạch Ðầu nói "trời xanh!" ngươi"hư! hư!"

ẨnPhong lại đi đến Thạch Ðầu làm như trước.

ThạchÐầu bèn: Hư! hư!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về trình với Sư. Sư bảo:

- Tađã nói với ngươi "đường Thạch Ðầu trơn".

*

Cóvị Giảng sư đến hỏi:- Thiền tông truyền giữ pháp gì?

Sưhỏi lại:- Tọa chủ truyền giữ pháp gì?

- Tôigiảng được hơn hai mươi bản kinh luận.

- Ðâukhông phải là sư tử con?

- Khôngdám.

Sưthốt ra tiếng: Hư! hư!

Giảngsư nói:- Ðây là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ra khỏi hang.

Sưbèn im lặng.

Giảngsư nói:- Ðây cũng là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ở trong hang.

- Khôngra không vào là pháp gì?

Giảngsư không đáp được, bèn từ giã đi ra đến cửa, Sư gọi:

- Chủtọa!

Giảngsư xoay đầu lại.

Sưhỏi:- Là pháp gì?

Giảngsư cũng không đáp được.

Sưbảo:- Ông thầy độn căn.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Ðạokhông dụng tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? - Có tâmsanh tử, tạo tác, thú hướng đều là ô nhiễm. Nếu muốnhội thẳng đạo ấy, tâm bình thường là đạo. Sao gọi làtâm bình thường? -Không tạo tác, không thị phi, không thủxả, không đoạn thường, không phàm thánh. Kinh nói: "Chẳngphải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh thánh hiền, là hạnhBồ-tát." Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm, ứng cơ tiếpvật đều là đạo. Ðạo tức là pháp giới, cho đến diệudụng như hà sa đều không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phảivậy, tại sao nói "pháp môn tăng địa", tại sao nói "vô tậnđăng"? Tất cả pháp đều là pháp của tâm, tất cả tênđều là tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm sanh, tâm làcội gốc của muôn pháp. Kinh nói: "Biết tâm đạt cội nguồnnên hiệu là Sa-môn." Tên đồng nghĩa đồng, tất cả phápđều đồng thuần nhất không lẫn lộn.

Nếuở trong giáo môn được tùy thời tự tại thì dựng lậppháp giới trọn là pháp giới, lập chân như là chân như,lập lý tất cả pháp trọn là lý, lập sự tất cả pháptrọn là sự, nắm giở một thì ngàn theo, sự lý không khác,toàn là diệu dụng. Lại không có lý riêng, đều do xoay lạicủa tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng thì có, mà bao nhiêumặt trăng thật thì không, bao nhiêu nguồn nước thì có, màbao nhiêu tánh nước thì không, bao nhiêu sum la vạn tượngthì có, mà bao nhiêu hư không thì không, bao nhiêu lời nóiđạo lý thì có, mà bao nhiêu Tuệ vô ngại thì không; bao nhiêucác thứ thành lập đều do một tâm. Dựng lập cũng được,dẹp hết cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọnlà nhà mình, chẳng phải lìa chân mà có, nơi nơi đều chân,thảy đều là thể của nhà mình.

Nếuchẳng vậy, lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phậtpháp, các pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là chânnhư, các pháp không ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảylà dụng bất tư nghì, không đợi thời tiết. Kinh nói: "Chỗchỗ nơi nơi đều có Phật." Phật là năng nhân, có trí tuệkhéo hợp lòng người, hay phá lưới nghi cho tất cả chúngsanh, vượt ra vòng trói buộc của có và không v.v... tình chấpphàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển bánh xe khônggì hơn, vượt các số lượng, việc làm không ngại, sự lýđều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không, chẳngđể dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh khôngdiệt. Ðại tịch diệt tại triền gọi là Như lai tàng, xuấttriền gọi là Pháp thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm,hay lớn hay nhỏ, hay vuông hay tròn, hợp vật hiện hình nhưtrăng trong nước, vận dụng mênh mông, không lập mầm gốcchẳng hết hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là dụng củavô vi, vô vi là chỗ nương của hữu vi, chẳng trụ chỗ nương,nên nói: "Như không chẳng chỗ nương." Nghĩa tâm sanh diệt,nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng soi vậttượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấppháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt.Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như.

Thanhvăn tai nghe Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễuđạt không hai gọi là bình đẳng tánh. Tánh không có khác,dụng thì chẳng đồng. Tại mê là thức, tại ngộ là trí.Thuận lý là ngộ, theo sự là mê. Mê tức là mê bản tâmmình, ngộ là ngộ bản tánh mình. Một phen ngộ là hằng ngộchẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc lên khôngtrở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chungcùng cái tối phiền não. Liễu đạt cảnh giới của tâm liềntrừ vọng tưởng. Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháptánh sẵn có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồitức có chấp trước. Nếu thấy lý này là chân chánh hiệpđạo, tùy duyên qua ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnhhuân thêm, nhóm nơi tịnh nghiệp. Chỉ hay như thế, lo gì chẳngthông.

Ðệtử của Sư được nhập thất (được vào thiền thất, làđã ngộ đạo) có đến tám mươi bốn vị, mỗi người làmchủ một phương truyền hóa vô cùng.

Ðờèường niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tư (788 T.L.) khoảngtháng giêng, Sư lên núi Thạch Môn, Kiến Xương, đi kinh hànhtrong rừng thấy chỗ hang động bằng phẳng, bèn bảo thịgiả:

- Thâncũ mục của ta sẽ ở tháng sau và trở về nơi này. Nói xong,Sư trở về.

Ðếnngày mùng bốn tháng hai, Sư có chút bệnh, tắm gội xong, ngồikiết già nhập diệt, thọ tám mươi tuổi, được sáu mươituổi hạ.

Sauvua sắc ban hiệu Ðại Tịch.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567