Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

34_Cốt Tủy Kinh Bát Nhã (bài giảng của TT Nguyên Tạng)

03/04/202210:47(Xem: 6346)
34_Cốt Tủy Kinh Bát Nhã (bài giảng của TT Nguyên Tạng)




Cốt tủy Kinh Bát Nhã

Bài pháp thoại giải thích kệ thứ 34 trong Nghi thức đảnh lễ Tam Bảo do Đức Trưởng Lão HT Thích Trí Thủ biên soạn được Giảng Sư TT Thích Nguyên Tạng livestream vào ngày 26/7/2020 trong mùa đại dịch COVID


Kính bạch Giảng Sư, một chút hỗ thẹn trong con sau khi nghe hết bài pháp thoại này dù trong nhiều bài pháp thoại khác Giảng Sư đã có sơ lược qua về bộ kinh đồ sộ và quan trọng nhất trong Phật Giáo Đại Thừa…nhưng hôm nay nghe lại những lời tha thiết như vắt từ tim óc Giảng Sư và con đã tìm đọc lại lời Trần tình về Cảo Bản Dịch Phẩm Đại Bát Nhã của Đại Trưởng Lão Hòa.Thượng Thích Trí Nghiêm do HT Thích Đỗng Minh viết tại Nha Trang năm 2003 cũng như tìm hiểu lại những công trình tiếp nối để có được những ấn bản về Kinh Đại Bát Nhã mà Tu Viện Quảng Đức đang lưu trữ và gần đây hơn nửa năm về trước (2021 ) Giảng Sư đã giới thiệu Bộ Tống Luận Đại Bát Nhã mà theo Giảng Sư đây có thể gọi là …bản sớ giải đồ sộ thứ hai về Kinh Đại Bát Nhã, theo sau Đại Trí Độ Luận ở Việt Nam do Lão Cư Sĩ Thiện Bửu dành 10 năm lao nhọc, vừa học Kinh vừa viết luận bản này để xiển dương tư tưởng Bát Nhã theo tinh thần truyền bá và lưu thông.

Con có chút hối hận cho những suy nghĩ quá thấp kém của mình ngày trước …có thể nói ty liệt khi biết Kinh Đại Bát Nhã có tất cả 600 quyển, gồm 5 triệu chữ trong 25 ngàn câu, (là bộ kinh khổng lồ trong tàng kinh cát của Phật Giáo Đại Thừa, do Đức Thế Tôn thuyết giảng trong 22 năm. ) vì nghĩ rằng ….với căn cơ của mình như vậy không thể nào mình có thể hiểu được chi bằng cứ việc học từ từ căn bản Tứ Diệu Đế và các bộ kinh Trung Bộ là cũng đủ tiêu chuẩn của người Phật Tử rồi .

Trở về năm 2001 từ khi con được chiêm bái Xá Lợi Phật tại chùa Xá Lợi trong chuyến về VN thăm lại Sư Bà Diệu Thuyền Trụ trì chùa Hùng Long Tự / Phú Quốc và được truyền trao các bộ kinh quý, nhưng con chưa hề biết tới bộ kinh sách quá khổng lồ này và đúng như Giảng Sư nói … cho tới 20 năm sau muốn hiểu trọn vẹn từng 262 chữ của Bổ khuyết Bát Nhã Tâm Kinh đã là một điều rất khó cho hàng hậu học sơ cơ như chúng con rồi …..trừ những ai có Trí Hữu Dư vì các Tổ đã gọi là Bổ Khuyết Tâm kinh và đã để vào cuối thời tụng kinh là có hậu ý chỉ rõ bài kinh này rất quan trọng và chứa đầy đủ tất cả kinh điển và bài Bổ khuyết này sẽ điền khuyết cho tất cả sự thiếu sót trong suốt giờ đọc tụng trước . Kính tri ân Giảng Sư đã giải tỏa được nỗi lòng của con

Thế nhưng, may quá trong thư viện bé tí của con từ năm 2013 đã có bộ luận Đại Trí Độ của Đại Trưởng Lão HT Thích Thiện Siêu và hơn 15 dĩa MP3 do HT Thích Thiện Trí giảng giải cũng như 10 dĩa MP3 tóm tắt của HT Thích Giác Toàn …nhưng thật ra cho đến bây giờ con vẫn chưa mang được tư tưởng này vào tim vào óc như Giảng Sư và vì thế trộm nghĩ bài trình pháp này chắc hẳn có nhiều khiếm khuyết nhưng con kính xin hứa với Giảng Sư …sẽ ghi đúng như thật những gì con đã nghe và có sưu tầm những điều con không nghe được rõ như chi tiết “ Thập bát Không “ ….Kính xin Giảng Sư và các đạo hữu niệm tình tha thứ .

Nào chúng ta cùng Giảng Sư đi vào nghi thức kệ 34 nhé !

 

Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như điển
Ưng tác như thị quán.
HÒA: Nhất tâm đảnh lễ Đại Bát nhã ba la mật đa kinh hội thượng vô lượng thánh hiền. (1 lạy)

Mọi pháp hữu vi trong thế gian
Như chiêm bao, huyễn hóa, bọt nước,
Bóng trong gương, điện chớp, sương mai.
Thời thời nên quán chiếu như thế.
HÒA: Một lòng kính lạy vô lượng Thánh Hiền trên pháp hội Phật nói Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa. (1 lạy)



Giảng Sư giới thiệu nghi thức đảnh lễ này được rút từ câu kệ. Trong kinh Đại Bát Nhã một bộ kinh gồm 600 quyển đã được kết tập từ những lời thuyết giảng do chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong suốt 22 năm qua 16 pháp hội, ở bốn nơi ( 1. Núi Linh thứu ở gần thành Vương xá. - 2. Vườn Cấp cô độc. Tịnh xá Kỳ Viên -3. Cung vua trời Tha hóa tự tại -4. Tinh xá Trúc lâm ở gần thành Vương xá. )

Trước khi đi vào cốt tủy ra Kinh Đại Bát Nhã, Giảng Sư đã tường thuật lại mọi chi tiết về việc phiên dịch từ tiếng Phạn sang Hán Văn do Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (Lúc ấy là khoảng thời kì giữa của sự thành lập kinh điển Đại thừa. Trước ngài Huyền trang đã có một số kinh Bát nhã được dịch ra Hán văn, nhưng vì chưa được đầy đủ nên ngài Huyền trang tổ chức dịch lại tại chùa Ngọc hoa cung Công việc phiên dịch được bắt đầu vào tháng giêng năm Hiển khánh thứ 5 (660) đời vua Cao tông nhà Đường đến tháng 10 năm Long sóc thứ 3 (663) thì hoàn tất. Năm sau, ngài Huyền trang thị tịch tại chùa Ngọc hoa cung.

Và tại Việt Nam HT Thích Trí Nghiêm (1911-2013) đã tự phiên dịch khởi dịch bộ kinh này từ năm 1972 và sau khi được phân công (khoảng giữa năm 1973, theo quyết định của Hội đồng Giáo phẩm Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Hội đồng Phiên dịch Tam Tạng gồm 18 vị được thành lập với Hòa Thượng Trí Tịnh làm Trưởng ban, Hòa Thượng Minh Châu làm Phó trưởng ban và Hòa Thượng Quảng Độ làm Tổng thư ký. Trong kỳ họp tại Viện Đại Học Vạn Hạnh vào những ngày 20, 21, 22 tháng 10 năm 1973 nhằm thảo luận phương thức, nội dung và chương trình làm việc, Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm được Hội đồng phân công phiên dịch bộ Đại Bát Nhã 600 quyển này. ) thì Ngài đã dịch được gần 100 quyển.Đây là bộ kinh lớn nhất trong Đại Tạng, đã được Ngài dịch suốt 8 năm (1972-1980) mới xong và đã dịch theo bản biệt hành, gồm 24 tập (mỗi tập 25 quyển), và cũng đóng thành 24 tập như nguyên bản chữ Hán. trên dưới 1.000 trang, mỗi trang độ 1.500 chữ, tổng cộng khoảng 4.500.000 chữ .

Cũng theo lời Giảng Sư, Ngài là một cao tăng thạc đức cự phách với 93 năm trụ thế và 70 hạ Lạp mà Giảng Sư đã được đại thiện duyên làm thị giả Ngài trong 3 mùa an cư tại Viện Hải Đức Nha Trang trên đồi Hạ Thuỷ và những mẫu chuyện tiến hành để có bộ kinh lựu trữ này kính xin ghi chép đúng lời Trần tình của HT Thích Đỗng Minh (1927-2005) cũng như do chính Giảng sư đã kể lại rất trùng hợp như một in ra vậy .

Theo đó ” Kinh Đại Bát Nhã; được in lần đầu là năm 1998 tại Saigon và năm 2004 tại Mỹ đều có lời lời tự tình của chính Đại Lão HT Tri Nghiêm kể lại những việc rất mầu nhiệm và cảm ứng “đã được Giảng sư đọc lại với giọng xúc động vô cùng và kính nhắc lại khoảng thời gian ấn tống :

….Đến năm 1993, Hòa Thượng dịch giả đã ngoài 80 tuổi, mà dịch phẩm Kinh Đại Bát Nhã vẫn chưa được Hội đồng Phiên dịch ấn hành! Thời điểm này, Thượng Tọa Thích Tịnh Hạnh (ở Đài-loan) đang chủ xướng công việc phiên dịch Hán Tạng thành Việt Tạng. Do đó, Thượng Tọa đã xin phép Hòa Thượng dịch giả, tình nguyện đứng ra in và phát hành dịch phẩm này. Nhận thấyvăn dịch của Hòa Thượng cổ kính, Thượng Tọa Tịnh Hạnh xin Ngài nhờ người nhuận văn lại. Hòa Thượng đồng ý. Sau khi liên lạc và được sự đồng ý của Hòa Thượng Thích Minh Châu, Hòa Thượng dịch giả nhận lại một trong hai bản đánh máy của Cảo Bản và giao lại cho tôi (vì bộ Đại Bát Nhã nằm trong số 24 tập của Đại Tạng Kinh Đại Chánh Tân Tu mà tôi nhận phụ trách dịch cho Thượng Tọa Tịnh Hạnh). Thoạt đầu, Hòa Thượng cho tôi biết Ngài chọn cư sĩ Tịnh Minh (Đặng Ngọc Chức) và cư sĩ Giác Tuệ (Trần Nguyên Sanh) nhuận văn bộ dịch phẩm của Ngài. Nhưng sau đó, vì cư sĩ Tịnh Minh bận dạy học và ở xa, không thể đảm trách được, tôi đề nghị cư sĩ Bảo Quang (Lê Từ Vũ) thay thế và được Hòa Thượng đồng ý. Công việc nhuận văn của hai vị cư sĩ được thực hiện tại tổ đình Hội-phước (chùa Cát, Nha-trang). Những điểm cần bàn thảo trong lúc nhuận văn được trực tiếp đem lên Hoàng Trúc Am (trú xứ của Hòa Thượng) để thỉnh tôn ý của Ngài. (Ngài cẩn thận dạy như vậy ngay từ đầu).

Nhuận văn xong quyển nào (từ nguyên bản bộ biệt hành), cư sĩ Giác Tuệ đọc lại để tôi dò với nguyên bản trong Tạng Đại Chánh. Nhân đây, tôi thấy rằng, giữa hai bản chỉ có một ít chỗ khác từ mà không khác nghĩa, hoặc có chỗ thêm từ mà nghĩa giống nhau.

Sau khi phần việc nhuận văn và dò lại với nguyên bản hoàn tất, Cảo Bản được đánh vào vi tính và giao cho Thượng Tọa Tịnh Hạnh. Nhân lúc này, Hòa Thượng Thích Quảng Độ cũng vừa được phóng thích nên Thượng Tọa Tịnh Hạnh nhờ Ngài giảo chính lại. Sau khi xem xong, Hòa Thượng Quảng Độ rất hoan hỉ và tán thán. Ngài nói nhân lúc tôi đến thăm Bộ Đại Bát Nhã do Trưởng Lão Trí Nghiêm dịch và quý vị nhuận văn lại như vậy là tốt.

Tôi lật xem chỉ thấy Hòa Thượng Quảng Độ sửa một vài chữ, như Đại Lão được sửa lại làTôn giả?, Ngài nói với tôi rằng: Tôn giả linh thiêng và đạo vị hơn Đại Lão.

Trước khi Thượng Tọa Tịnh Hạnh nhờ Hòa Thượng Thích Quảng Độ giảo chính, trong một buổi họp tại chùa Long-sơn (Nha-trang), do Thượng Tọa Tịnh Hạnh chủ trì, tôi chứng minh, với sự hiện diện của hơn 20 dịch giả (kể cả hai cư sĩ Bảo Quang và Giác Tuệ), cư sĩ Nguyên Huệ phát biểu với tư cách ban biên tập: Trong những dịch phẩm đã dịch xong thì bộ Đại Bát Nhãtương đối hoàn chỉnh nhất. Thượng Tọa Tịnh Hạnh cho biết sẽ giao cho cư sĩ Thanh Tuệ bên Pháp chuẩn bị in dịch phẩm Kinh Đại Bát Nhã này trước tiên. Đó là năm 1999. Nhưng mãi cho đến nay, tháng 2 năm 2003, dịch phẩm Kinh Đại Bát Nhã của Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm vẫn chưa thấy ra mắt!

Đại Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm đã viên tịch ngày 13 tháng 1 năm 2003.

Nay, nhân tang lễ cố Đại Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm, quí Tôn Đức Thiền Sư và Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam tại Hoa-kỳ, cùng đồng bào Phật tử hải ngoại, phát tâm ấn hành bộ Kinh Đại Bát Nhã (đã được nhuận văn) này, để làm pháp cúng dường giác linh Đại Trưởng Lão Hòa Thượng.( tức là vào lễ tiểu tường ) do Nhị Tường ở Nha Trang đánh máy và Diễm Tuyết layout gửi đi và thế là vào năm 2004 tại Mỹ đã có khổ A4 với 14 tập …

Vậy thì Tư tưởng chính yếu cốt tủy của Kinh Bát Nhã là gì ?

Bát Nhã” là tiếng phiên âm của chữ Phạn “Prajna”, có nghĩa là trí tuệ, là trí sáng suốt có thể thông hiểu mọi việc ở đời và cũng là trí tuệ đạt đến bờ bên kia (bờ giải thoát).

Toàn bộ kinh nhắm mục đích nói rõ ràng, hết thảy mọi hiện tượng trong thế gian đều do nhân duyên (các mối quan hệ tương đối) hòa hợp mà có, là giả dối không thật. Phải nhận thức chân tướng của các pháp (hiện tượng) bằng trí tuệ bát nhã thì mới có thể nắm bắt được chân lí tuyệt đối mà đạt đến cảnh giới giác ngộ giải thoát.

Và đo đó Đức Phật giới thiệu Tánh Không - THẬP BÁT KHÔNG (Mười tám thứ không được lập ra để phá các loại tà kiến. )
Đó là:

1. Nội không Chỉ cho 6 chỗ bên trong như mắt... không có ngã, ngã sở và không có các pháp như mắt...
2. Ngoại không: Chỉ cho 6 chỗ bên ngoài như sắc, thanh hương, vị xúc, pháp ….tất cả không có ngã, ngã sở vì tất cả đều do ta chấp có đối tượng và các pháp như sắc...
3-Nội ngoại không: Tức nói chung 12 chỗ trong và ngoài như 6 căn, 6 cảnh không có ngã, ngã sở và không có các pháp như 6 căn, 6 cảnh...
4. Không không: Không bị vướng mắc vào 3 không nói trên.
5. Đại không: Tức các thế giới trong 10 phương không có tướng định phương vị đây kia, xưa nay.
6. Đệ nhất nghĩa không: cũng gọi Thắng nghĩa không, Chân thực không.
Tức lìa các pháp ra thì không có thực tướng Đệ nhất nghĩa đế nào khác, không chấp vào thực tướng của vạn pháp
7. Hữu vi không: Tức pháp do nhân duyên sinh ra và pháp tướng của nhân duyên đều không.
8. Vô vi không : Không bám dính vào pháp niết bàn
.9. Tất cánh không : cũng gọi Chí cánh không….rốt ráo cũng không
Tức dùng hữu vi không, vô vi không phá tất cả pháp, rốt ráo không còn gì.
10. Vô thủy không: cũng gọi Vô hạn không, vô tế không, Vô tiền hậu không.
Tức tất cả pháp tuy sinh khởi từ vô thủy nhưng cũng xa lìa tướng chấp thủ đối với pháp này(pháp vô thủy).
11. Tán không: cũng gọi Tán vô tán không, Bất xả không, Bất xả li không.
Tức các pháp chỉ do giả hòa hợp mà có, cho nên rốt cuộc thì không có tướng chia lìa tan diệt.
12. Tánh không: cũng gọi Bản tánh không, Phật tánh không.
Tức tự tánh các pháp là không.
13. Tự tướng không: cũng gọi Tự cộng tướng không, Tướng không.
Tức tướng tổng biệt, đồng dị của các pháp đều không.
14. Chư pháp không: cũng gọi Nhất thiết pháp không.
Tức tất cả pháp uẩn, xứ, giới... tự tướng bất định, lìa tướng chấp thủ.
15. Bất khả đắc không: cũng gọi Vô sở hữu không.
Tức trong các pháp do nhân duyên sinh, không có ngã và pháp.
16. Vô pháp không: cũng gọi Vô tính không, Phi hữu không.
Tức nếu các pháp đã hoại diệt thì không có tự tính, các pháp vị lai cũng vậy.
17. Hữu pháp không: cũng gọi Tự tính không, Phi hữu tính không.
Tức các pháp chỉdo nhân duyên mà có, cho nên cái có ở hiện tại tức chẳng phải có thật.
18. Vô pháp hữu pháp không: cũng gọi Vô tính tự tính không.

Tức hết thảy pháp sinh diệt và pháp vô vi trong 3 đời đều không có thật.

Tôi thật ngưỡng phục Giảng sư khi Ngài thao thao thuyết giảng một cách hùng hồn khi nói rằng 18 Tánh Không này chỉ có trong kinh Đại Bát Nhã và sở dĩ Đức Phật phải dùng đến 22 năm chỉ vì một mục đích phá vỡ cái CHẤP CÓ của chúng sinh từ bao đời do nghiệp chướng, và thốt lên THỊ CHƯ PHÁP KHÔNG TƯỚNG, BẤT SINH BẤT DIỆT …” và còn phải đưa thêm 10 thí dụ để chỉ rõ cái Tánh Không này như sau :

Thập dụ chỉ rõ mọi pháp thế gian đều như 1- HUYỄN, 2-SÓNG NẮNG, 3- TRĂNG DƯỚI NƯỚC, 4- HƯ KHÔNG, 5- TIẾNG VANG, 6- THÀNH CÀN THÁT BÀ, 7- CHIÊM BAO, 8- BÓNG, ẢNH, 9- BÓNG TRONG GƯƠNG, 10-HOÁ .

Tôi rất tâm đắc khi Giảng Sư đã ngâm 4 câu thơ của Ngài Từ Đạo Hạnh để diễn tả chuyện chấp có chấp không trên thế gian qua thí dụ bóng trăng dưới nước thật là tuyệt diệu, theo đó một hạt bụi cũng gọi là có ….

Tác hữu trần sa hữu,
Vi không nhất thiết không.
Hữu, không như thủy nguyệt,
Vật trước hữu không không.

Dịch

Có thì có tự mảy may,
Không thì cả thế gian này cũng không.
Thử xem bóng Nguyệt lòng sông
Ơ hay có có , không không là gì

Tôi tuy tự hỏi thầm nhưng lại tin chắc rằng “ Phải chăng Giảng Sư là một Thiền sư đã ngộ được yếu chỉ huyền cơ “ nên mỗi mỗi một thập dụ lại dẫn chứng bằng một bài thơ tuyệt vời của thi sĩ danh tiếng . Kìa…Chế Lan Viên với “ Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh “ để nói về Cung trời nơi có thành Càn Thát Bà ….

Lời kết :

Kính bạch Giảng Sư, thật là đại duyên cho con được nghe lại đoạn kết của bài giảng này thật nhiều lần để rồi đồng tâm nhất trí cùng Giảng Sư rằng Cốt tủy của Kinh Đại Bát Nhã đã được tóm tắt trọn vẹn trong câu đầu của Bổ Khuyết Tâm Kinh Bát Nhã “QUÁN TỰ TẠI BỒ TÁT HÀNH THÂM BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA THỜI CHIẾU KIẾN NGŨ UẨN GIAI KHÔNG “ ..đó là nhờ có trí tuệ mới thấy được vạn pháp đều như huyễn ->hoá cho nên sẽ không thấy khổ đau và phiền lụy và đó cũng chính là ngay tại mỗi phút giây tại đây và bây giờ ta đang sống trong cảnh giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà thì còn biết chi đến Vô vi Niết Bàn vì trong Thập Bát Không, Đức Phật đã khuyên chúng ta không chấp trước vào Niết Bàn ( điều 8- Vô vi không ) .

Giảng Sư đã chỉ dẫn đến rốt ráo phải học phẩm Tịnh Hạnh trong Kinh Hoa Nghiêm và 10 Hạnh Phổ Hiền một cách tinh tường thì sẽ được Nhất Niệm và chính trong mỗi sát na mà ta giữ được Chánh niệm thì đó cũng gọi là Bát Nhã .

Kính đa tạ Giảng Sư , những lời tâm huyết sau cùng của Ngài đã mang dư âm của Chư Tổ ngày xưa vì thương xót nên đã khuyên hàng đệ tử ….Thôi thì nếu còn yếu kém quá chưa thể với tới Bát Nhã được thì hãy :

“Thà rằng chấp có như núi Tu Di
Không nên chấp không như hạt cải “

Để rồi dần dần khi gặp được thiện hữu trí thức thì may ra tránh khỏi đọa lạc .

Một lần nữa kính trân trọng tri ân Giảng Sư đã mang lại cho chúng đệ tử những gì tinh yếu nhất trong kinh Bát Nhã , Hoa Nghiêm và Pháp Hoa để thấy ra được chỉ có “Ngay tại đây và bây giờ , nơi thực tại hiện tiền “ đã là Niết Bàn rồi vì lúc nào cũng nhớ rằng mọi pháp trên đời kể cả thân ta đều do nhân duyên mà có, cho nên cái có ở hiện tại tức chẳng phải có thật. ( chỉ tạm gọi là có …HỮU PHÁP KHÔNG ) .

“Chư pháp tùng bản lai
Thường tự tịch diệt tướng “

Dù mọi lời chúc không thể diễn tả được thành ý của một người học Phật được bậc đại thiện hữu tri thức chỉ ra cho mình cái THẤY ngay trong giờ phút hiện tại được nghe pháp thoại này, nhưng kính xin Ngài nhận nơi đây lòng thành kính tri ân của một đệ tử được học Pháp với Ngài .

Kính trân trọng,

Diệu kỳ thay,
…bài pháp thoại “ Cốt tủy kinh Bát Nhã “ !
Ai được nghe …
Tỉnh táo, tâm giao hoà …Thực tại là đây
Lồng lộng cùng gió, nhẹ nhàng như mây
Khi hiểu ra THẬP BÁT KHÔNG và THẬP DỤ

Kính đa tạ Giảng Sư
Chỉ có kinh điển Phật Giáo …siêu việt ưu tú
Cái tạm gọi là Có …đều giả hợp do nhân duyên
Không chấp thủ , không dính mắc …vượt thoát ưu phiền .
Cực lạc là đây …tìm chi Niết Bàn cảnh giới ?

Trí bát nhã …diệu dụng chỉ ra nẻo tới
Tìm gặp trong phẩm Tịnh Hạnh kinh Hoa Nghiêm
Phối hợp “ thập quảng đại nguyện Bồ Tát Phổ Hiền “
Kính ngưỡng Phật hai hai năm chỉ dạy điều lợi ích
Chỉ có con đường này …đến bờ kia
“Bát nhã ba la mật” là pháp sâu xa nhất!



Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Huệ Hương kính trình pháp




***
 
Mục lục: 108 bài kệ lễ Tam Bảo
cong duc le Phat-thich nguyen tang
***

Mục lục 33 vị Tổ Thiền Tông Ấn-Hoa

to su long tho
***


Trở về mục lục bài giảng của TT Nguyên Tạng
243_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Khuong Tang Hoi-2
youtube
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/03/2023(Xem: 3573)
Hạnh Phúc Trong Từng Hơi Thở (bài giảng của SC TN Giới Bảo)
07/03/2023(Xem: 2347)
Kinh Lương Hoàng Sám- S.C Giới Bảo Dẫn Chúng Trì Tụng Năng Lực Tiêu Trừ Nghiệp Chướng Lớn
23/12/2022(Xem: 13597)
Các video sau được sưu tập và biên tập sao cho mỗi video đều có mục lục chi tiết (ngoại trừ các bài giảng lẻ), kèm theo thời điểm lúc giảng các mục để người xem có thể dễ dàng theo dõi. Ngoài ra nếu vô tình nghe một đoạn bất kỳ cũng có thể biết được Sư bà đang giảng tới mục nào vì tên mục đó có ghi phía dưới màn hình.
26/03/2022(Xem: 12623)
❝Trên đường đạo không gì bằng tinh tấn, Không gì bằng trí tuệ của đời ta, Sống điêu linh trong kiếp sống ta bà, Chỉ tinh tấn là vượt qua tất cả.❞ Kính chia sẻ cùng chư Tôn đức, Pháp hữu và qúy Phật Tử Lịch Pháp thoại và khóa tu tại Hoa Kỳ trong tháng 4 và tháng 5-2022 với sự hướng dẫn của Tỳ kheo Như Nhiên. Th Tánh Tuệ CHƯƠNG TRÌNH HAI NGÀY TU HỌC tại Tu viện Đạo Viên tiểu bang Maryland Khóa tu chủ đề: TIẾP XÚC VỚI THỰC TẠI. Với sự hướng dẫn của thầy Thích Tánh Tuệ California, Thầy Viên Ngộ trụ trì Tu Viện Đạo Viên, Maryland và Thầy Tâm Nguyên trụ trì Tu Viện Hạnh Phúc, Florida. Tu học hai ngày thứ Bảy & Chủ nhật (April 09 & 10, 2022) và ngắm Hoa Anh Đào vùng thủ độ Hoa Thịnh Đốn vào ngày thứ hai sau khóa tu.
07/02/2022(Xem: 17824)
Kính đa tạ Thầy đã giới thiệu 14 lời vàng của HT Thích Trí Tịnh (1916-2014 ) một Bồ Tát thị hiện đã mang kho tàng kinh các đến với Phật Tử VN trong và ngoài nước nhưng cuối cùng di chúc để lại cho đời chỉ vỏn vẹn 14 lời vàng này lại là Kim Chỉ Nam cho những ai muốn tu tập giải thoát ( LÀM LÀNH-LÁNH DỮ-THƯƠNG NGƯỜI- THƯƠNG VẬT-ĂN CHAY-NIỆM PHẬT -TỤNG KINH ) và Bộ Toàn tập Kinh Hoa Nghiêm 4 quyển cũng như Ngũ Kinh Tịnh Độ mà Ngài đã thọ trì hằng ngày từ A lại da thức khởi phát.
01/02/2022(Xem: 31284)
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà (loạt bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong mùa dịch cúm Covid-19)
09/12/2021(Xem: 17702)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
30/11/2021(Xem: 24845)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
25/11/2021(Xem: 29379)
315. Sáu Thời Sám Hối do Vua Trần Thái Tông biên soạn Đây là Thời Pháp Thoại thứ 315 của TT Nguyên Tạng từ 6.45am, Thứ Năm, 25/11/2021 (20/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com/channel/UCxfUXUxU65FtOjrehu9zMMw Facebook: https://www.facebook.com/ThichNguyenTang/
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567