Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

85. Thiền Sư Hải Chu Vĩnh Từ, Tổ thứ 61, đời thứ 24 Thiền Phái Lâm Tế

13/10/202109:19(Xem: 11466)
85. Thiền Sư Hải Chu Vĩnh Từ, Tổ thứ 61, đời thứ 24 Thiền Phái Lâm Tế


231_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Hai Chu Pho Tu-1

Nam Mô A Di Đà Phật

 

Kính bạch Sư Phụ

 

Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học về Thiền Sư Hải Chu Phổ Từ (1355-1450). Ngài thuộc tổ thứ 61, tính từ sơ tổ Ca Diếp, đời thứ 27 sau Lục Tổ Huệ Năng và cũng là Tổ thứ 24 của Thiền Phái Lâm Tế.

 

Thiền sư Hải Chu họ Từ, người tỉnh Giang Tô. Thuở nhỏ, Sư thấy vị Tăng thì phát tâm hoan hỉ. Một hôm Sư nghe nói đến chuyện sanh tử thì phát tâm xuất gia, Sư đến chùa Cảnh Đức trên núi Đại Tuỳ, huyện Bành, Thành Đô (nay là tỉnh Tứ Xuyên), xin xuất gia với Hoà Thượng Chiếu Nguyệt.

Sau khi Hoà Thượng Chiếu Nguyệt viên tịch, Sư vào núi Tây Sơn ẩn tu suốt 8 năm.

 

Năm 1427 Sư đến Kim Lăng tham vấn với Ngài Vạn Phong.

Sau đó, Sư đến học đạo với Ngài Đông Minh.

Một hôm, tổ Đông Minh hỏi: “ông đã từng tham vấn ai chưa?”

Sư thưa: “bạch Hoà Thượng, con đã tham học với HT Vạn Phong”.

Tổ Đông Minh hỏi: “HT Vạn Phong hiện đang ở đâu?”.

Sư im lặng không trả lời

Tổ Đông Minh quở: “vậy sao ông nói đã từng tham học với HT Vạn Phong?

Sư trở về phòng, suốt ba ngày đêm quên ăn bỏ ngủ, chợt thấy chiếc đèn đang treo bị đứt dây rớt xuống đất, ngài hốt nhiên đại ngộ, liền trình sở chứng lên tổ Đông Minh và được Tổ ấn chứng, HT Vạn Phong đã đi vào pháp giới tánh.

 

Sư Phụ giải thích:

1-Theo Tổ Sư Thiền hỏi mà không trả lời là đã ngộ. Im lặng là tỏ sự kính trọng. Im lặng bị quở là động lực giúp cho đệ tử được triệt ngộ. Sau ba ngày ba đêm quên ăn quên ngủ, tiếp tục tham công án giúp cho triệt ngộ.

 

2-hốt nhiên đại ngộ, Hốt-nhiên là bất ngờ, bất chợt, đột ngột, thình lình, tới rất mau, không kịp biết trước; Đại ngộ là giác ngộ rộng lớn. Hốt-nhiên Đại Ngộ là “giác ngộ một cách bất ngờ”, Không có qua bộ óc lý giải mà chơn tâm đột ngột sáng tỏ, tự động nhận ra đúng như thực tế trùm khắp không gian thời gian. Chữ “đại” ở đây có hai ý: 1/Điều cốt lỏi, điều quan trọng nhất. 2/Cường độ mạnh mẽ của “ngộ”.

 

3-Sư phụ giải thích câu "HT Vạn Phong hiện đang ở đâu?" bằng cách dẫn câu hỏi " Khi Phật Thích Ca nhập diệt tại thành câu Thi Na ngài về đâu ?", Sp giải nghĩa chữ "Như Lai" rất chi tiết để giải đáp thắc mắc.

Như Lai tiếng Phạn gọi là Tathagatha) có nghĩa là: "Đức Phật không từ đâu đến và cũng không đi về đâu, nên gọi là Như lai" (vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ cố danh Như lai). Cũng có nghĩa: Đức Phật đến (lai) từ sự thật (Như).  Phật có nghĩa là từ chân lý mà đến, do chân như mà hiện thân, cho nên tôn xưng Phật là Như Lai.  Trong  Kinh Trường A-hàm, quyển 20, kinh Thanh Tịnh, có ghi: “Đức Phật từ đầu hôm thành Vô thượng chánh giác (ở Bồ-đề đạo tràng) cho đến đêm cuối cùng (ở Câu-thi-na), trong khoảng thời gian đó có nói điều gì, thì tất cả những điều ấy đều như thật, cho nên gọi là Như Lai. Lại nữa, Như Lai nói sự việc như vậy, sự việc như vậy mà nói, nên gọi là Như Lai”. Luận Đại Trí Độ, quyển 55, ghi: “Do tu hành 6 pháp ba-la-mật, đắc thành Phật đạo, cho nên gọi là Như Lai; trí tuệ biết tất cả các pháp Như, từ trong Như mà đến, nên gọi là Như Lai”.

Về sự, chúng ta có thể nói “Đức Phật nhập diệt là không đi về đâu, mà là nhập vào pháp giới tánh, vào cõi giới thanh tịnh pháp thân Tỳ Lô Giá Na”.

Kính mời xem tiếp


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 34113)
Ðạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Ðạo Phật. Dân chúng thường nói "Ðạo Phật là đạo của ông bà", hay "Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...".
05/04/2013(Xem: 16688)
Sau khi Ðức Thế Tôn thành đạo, Ngài suy nghĩ rằng: "Con đường ly dục là con đường tốt nhất để đạt được sự thanh tịnh. An trú trong đại thiền định mới hàng phục được chúng ma". Ở tại vườn Lộc Uyển, Ngài chuyển bánh xe pháp về 4 chân lý độ cho 5 anh em Kiếu Trần Như đều chứng được đạo quả.
04/04/2013(Xem: 7380)
Giới thiệu: Trong bài kinh nầy, Đức Phật tóm tắt các điều cần yếu của một cư sĩ Phật tử: thọ trì Tam Quy (Phật-Pháp-Tăng), thực hành Ngũ Giới, và sống theo tinh thần "tự lợi, lợi tha", giúp cho bản thân được thăng tiến và đồng thời cũng giúp đỡ, khuyến khích người khác cùng được thăng tiến trong Chánh Pháp.
04/04/2013(Xem: 7396)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch : Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp", nghĩa là pháp tối thượng (PHIÊN DỊCH DANH NGHĨA TẬP 4), cũng dịch là "giáo", là "truyền", nghĩa là giáo pháp được lần lượt truyền trao nhau (NHẤT THIẾT KINH ÂM NGHĨA 24)
04/04/2013(Xem: 10950)
Kinh A Di Đà là một bản kinh rất phổ biến được truyền tụng hàng ngày trong đời sống đạo của Phật tử ở các nước Viễn Đông châu Á, nhất là ở Việt Nam. Vị trí của kinh luôn luôn được xây dựng trên căn bản của niềm tin; và trong lòng người hành trì, kinh chính là con đường dẫn đến thế giới Tịnh độ - một thế giới không có khổ đau, không có sinh lão bệnh tử, thế giới của niềm phúc lạc vô biên.
04/04/2013(Xem: 7114)
1. Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (Phạn ngữ: Mahà-Prajnàpàramità- Sùtra) là bộ kinh vĩ đại nhất của Phật giáo Bắc truyền, xét về số lượng cũng như diệu lý. Kinh gồm 600 quyển, chiếm tới 3 tập với 3.000 trang in khổ lớn của Đại Tạng Kinh Đại Chính Tân Tu (ĐTK/ĐCTT, No 220, các tập 5,6,7), do Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng (602-664) dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán.
04/04/2013(Xem: 5277)
Vaisâli (Tỳ-da-li), thủ phủ của Vajji (Bạt-kỳ), một cường quốc theo chế độ cộng hòa thị tộc của người Vajji, mà các lân bang quen gọi là Licchavì, là một đô thị phát triển trù phú thời đức Thích Tôn tại thế, và những người Licchavì giàu có, vinh quang, được ví như các thiên thần cõi trời Ðao-lợi (Trayastrimsa).
04/04/2013(Xem: 5999)
Kinh Giải Thâm Mật gồm năm quyển do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch tại chùa Hoằng Phúc niên hiệu Trinh Quán thứ 21 (năm 647) đời Ðường. Tương truyền bản tiếng Phạn bộ kinh này có mười vạn bài tụng, bản dịch hiện nay là bản lược dịch có một ngàn năm trăm bài tụng, chia làm 8 phẩm. Trước đó, quyển kinh này đã có ba bản dịch
04/04/2013(Xem: 5513)
Kinh Hoa Nghiêm, gọi đủ là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, là bộ kinh điển trọng yếu hiển bày ý nghĩa tuyệt vời về nhân hạnh quả đức của Phật-đà như tạp hoa trang nghiêm rộng lớn viên mãn, vô tận vô ngại, qua các vị Bồ-tát lớn Phổ Hiền, Văn-thù, sau khi Phật thành đạo tại các nơi như Bồ Đề Tràng v.v…
04/04/2013(Xem: 6072)
Kinh Pháp Hoa là một trong những bộ kinh lớn của hệ thống Kinh tạng Đại thừa Phật giáo, được các học giả phương Tây cho là 1 trong 20 Thánh thư phương Đông. Sự hành trì tụng niệm một cách sâu rộng và bền bỉ của Phật tử đối với Kinh Pháp Hoa cho thấy rằng đây là một bộ kinh đặc biệt về cả hai mặt triết lý và huyền bí. Ở Việt Nam, Kinh Pháp Hoa được trì tụng hàng ngày như một thời khóa tu học kể cả chư tăng lẫn Phật tử tại gia.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567