Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

192. Thiền Sư Ẩn Phong Đời thứ 3 sau Lục Tổ Huệ Năng (Là đệ tử đắc pháp của thiền sư Mã Tổ Đạo Nhất)

01/12/202011:57(Xem: 11151)
192. Thiền Sư Ẩn Phong Đời thứ 3 sau Lục Tổ Huệ Năng (Là đệ tử đắc pháp của thiền sư Mã Tổ Đạo Nhất)





Nam mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ

Bạch Sư Phụ hôm nay chúng con được học bài thứ 192 về Thiền Sư Ấn Phong. Ngài thuộc đời thứ 3 sau Lục Tổ Huệ Năng, là đệ tử đắc pháp của Mã Tổ Đạo Nhất.

Cuộc đời của Ngài rất đơn giản, không rõ ngày sanh và ngày viên tịch, chỉ biết được Ngài có thị hiện thần thông diệu dụng vào cuối đời.

Ngài Ấn Phong họ Đặng quê ở Phúc Kiến, Ngài đến học với Mã Tổ nhưng không đắc pháp nên Ngài đến Tổ Hy Thiên Thạch Đầu.

Ngài hỏi Tổ Hy Thiên :”làm sao để hiểu đạo”
Tổ Hy Thiên đáp :”ta cũng chẳng hội đạo”.

Sư Phụ giải thích, sự hiểu đạo là phải nghe lại tiếng lòng của mình, đạo không có gì để hiểu để đạt đến,  đó là cái của riêng mình, mình nhận ra cái của mình thì không có gì là hiểu, là đạt, là chứng cả. Nếu có hiểu là còn đối đãi, còn phân biệt, còn sinh diệt và còn khổ đau.

Sau đó ngài Ấn Phong trở lại lẩn thứ nhì, thứ ba học với Mã Tổ. Lẩn này nghe Mã Tổ nói một câu thì Ngài ngộ liền.

Một hôm ngài Ấn Phong làm chấp tác đẩy xe đất, Mã Tổ ngồi duỗi chân trên đường.

Ngài thưa:- Thỉnh Sư phụ rút chân.

Mã Tổ bảo:- Đã duỗi thì không rút.

Ngài trình bạch: Đã tiến thì không lùi.

Ngài bèn đẩy xe qua, cán chân Mã Tổ bị thương. Mã Tổ vào pháp đường cầm chiếc búa và ra lệnh " Vừa rồi ai đẩy xe cán chân Lão tăng bị thương, hãy ra đây".

Ngài mạnh dạn bước ra đưa cổ trước Mã Tổ. Sư phụ Mã Tổ liền dẹp búa.

Sư phụ giải thích rằng: Sư phụ Mã Tổ duỗi chân ra thử thách xem đệ tử có đủ nội lực vượt qua chướng ngại không, ngài Ấn Phong đã không lùi bước là thành tựu đạo nghiệp. Mã Tổ đã hy sinh chịu đau một chút để nhìn thấy bản lai diện mục của người đệ tử.


Ngài  Ẩn Phong đến tham vấn Thiền Sư Nam Tuyền Phổ Nguyện đang giảng pháp cho đệ tử. Tổ Nam Tuyền chỉ tịnh bình và ra công án :”đệ tử nào có thể đem nước đến cho ta nhưng không được đụng bình". Ngài Ấn Phong đem bình đổ nước trước mặt Tổ. Tổ im lặng và giải tán.

Sư phụ giải thích ngài Ẩn Phong không dính mắc vào cảnh, không bị kẹt vào ngôn ngữ giả lập, cứ đem nước đổ ra trước mặt ngài Nam Tuyền một cách tự tại để trưng bày “cái thấy” của mình, vì ngài đã thấy tự tánh của mình, nên không còn mắc cái bẫy ngôn ngữ của Sư Phụ như các đệ tử khác phải suy nghĩ cách nào để “không đụng bình mà vẫn đem nước tới”.

Cuối đời, Thiền Sư lên núi Ngũ Đài Sơn để giáo hoá, lúc tới huyện Hoài Tây Ngài gặp nhóm lính nổi dậy chống triều đình. Ngài thi triển thần thông để chấm dứt chiến tranh, ngài liền ném cây tích trượng lên hư không, Ngài bay theo tích trượng, binh lính thấy Ngài bay hư không, hoảng sợ trước phép thần thông của ngài và liền vứt bỏ binh khí.

Khi hoà bình lập lại, Ngài tự biết là Ngài phạm lỗi, nên Ngài lên động Kim Cang để  viên tịch. Ngài biết những bậc tiền bối đã có thị hiện viên tịch bằng ngồi viên tịch, nằm viên tịch, đứng viên tịch, nhưng chưa có ai lộn ngược viên tịch và ngài đã làm như vậy, chúng đệ tử không thể hạ nhục thân của ngài xuống để làm lễ tang. Lúc ấy có vị sư cô, em gái của Ngài tới một tay vịn Ngài và nói :”lão huynh lúc sống không giữ luật, lúc chết rồi còn dùng thần thông làm mê hoặc người”, nói rồi sư cô xô nhẹ, thân của ngài ngã xuống.

Sư phụ giải thích rằng Ngài Ẩn Phong biết mình có lỗi, phạm luật Phật chế là sử dụng thần thông không trình bạch hoặc xin phép với chư vị Trưởng lão". Đức Phật không cho xử dụng thần thông vì làm tâm đại chúng bị vọng tưởng điên đảo. Sư phụ có kể ở Việt Nam, Hoà Thượng Nguyên Ngôn là người duy nhất thị hiện tướng đứng để viên tịch. Lúc sinh thời Hoà Thượng  Nguyên Ngôn ở Chùa Ấn Quang và dạy giáo lý ở Trường Cơ Bản Phật Học Vĩnh Nghiêm nơi SP theo học 4 năm.

Bạch Sư Phụ, con kính tri ơn Sư Phụ tận dụng thời gian cách ly vì Đại dịch Covid đã dày công biên soạn cuộc đời chứng đắc kỳ diệu của những Thiền Sư. Cuộc đời của Ngài Ấn Phong rất đẹp tuy phải lận đận trải qua tu học với hai vị Tổ mới Ngộ đạo và ra tay nghĩa hiệp dùng thần thông để chấm dứt chiến tranh, mang lại hòa bình an vui cho mọi người. Con kính ngưỡng công hạnh của Thiền Sư Ẩn Phong.

Cung kính và tri ơn,
Đệ tử Quảng Tịnh Tâm,
(Montréal, Canada)




192_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su An Phong


Phương tiện
phô triển thần thông vẫn ... phạm giới luật ! 
Con kính dâng Thầy bài thơ sau khi nghe pháp thoại sáng nay
về Thiền Sư Ẩn Phong. Kính đa tạ và tri ân Thầy, HH



Học qua sử liệu :
Chuyện Ngài Ẩn Phong thị tịch ...cách lộn ngược, 
Khi bị quở trách ...nhận tội, ngã xuống ngay, 
Lại thêm... Ngộ  được huyền chỉ... thật hay..
Tham vấn  khắp nơi, nhiều lần....sau cùng  ...Mã Tổ !

Cán chân Thầy ... chí kiên quyết được bộc lộ, 
Vượt chướng ngại, đường tu ..." tiến chẳng lùi" 
Nếu bị phạt mà Thầy hiểu ... sẽ  rất vui 
Dù nơi Thạch Đầu, khi cắt cỏ .... được khai thị về “cái ấy “

Bài pháp thoại,  Giảng Sư giúp  con nghiệm lấy ! 
Từ từ chậm rãi tư duy ...chớ quá nhanh, 
Ngủ, nghi cũng là diệu dụng .. trời xanh !
“Tâm bình thường là Đạo”, chớ vội tìm cứu cánh. 
Còn phân biệt nhị biên .... bao giờ đến Thánh ? 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật 

Huệ Hương 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/04/2013(Xem: 5470)
Từ ngữ A-hàm (Àgama) nói theo nghĩa rộng là chỉ cho những giáo thuyết được truyền thừa, hoặc các Thánh điển do sưu tập các giáo thuyết ấy tạo thành. Do vậy, thông thường nói Kinh A-hàm tức chỉ cho 4 bộ hoặc 5 bộ Thánh điển của Phật giáo Nguyên thủy.
03/04/2013(Xem: 5385)
Kinh Duy Ma Cật xuất hiện vào thế kỷ thứ hai sau Tây lịch, nay không còn trọn nguyên văn chữ Phạn, dịch thuật chỉ dựa vào bản Hán và Tây Tạng. Trước có 6 bản dịch, nay còn chỉ 3 bản: 1. Phật thuyết Duy Ma Cật kinh, Chi Khiêm đời Ngô dịch, 2 quyển. 2. Duy Ma Cật Sở Thuyết kinh, do Cưu Ma La Thập dịch, gồm 3 quyển. 3. Thuyết Vô Cấu Xưng kinh, do Huyền Trang dịch, gồm 6 quyển.
03/04/2013(Xem: 4922)
Kinh tạng Nikàya, Pàli và A-hàm Hán tạng là những bộ kinh thuộc Phật giáo truyền thống, còn gọi là Kinh tạng Nguyên thủy. Đó là những bộ kinh chứa đựng những gì Đức Phật đã dạy suốt trong 45 năm truyền giáo, gồm những giáo lý căn bản như Tứ diệu đế, Duyên khởi, Vô ngã ...
03/04/2013(Xem: 5456)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật. Trong số 500 Tỳ kheo này, 499 vị đã đắc quả A La Hán, chỉ trừ tôn giả A Nan.
03/04/2013(Xem: 5039)
Sau khi Phật Niết bàn độ 100 năm, các Tỳ kheo Bạt Kỳ ở Tỳ Xá Ly đề ra 10 điều phi pháp như sau: 1/ Tỳ kheo ăn muối gừng để dành qua đêm vẫn hợp pháp, 2/ Tỳ kheo ăn xong, nhận được thức ăn khác, dùng hai ngón tay cầm thức ăn để ăn vẫn hợp pháp, 3/ Tỳ kheo ăn xong, rời khỏi chỗ, rồi ngồi ăn lại vẫn hợp pháp, ...
03/04/2013(Xem: 5065)
Sau Phật Niết bàn 100 năm thì Đại hội kết tập Pháp Tạng lần thứ hai diễn ra, và sau lần kết tập lần thứ 2 đúng 118 năm lại diễn ra cuộc kết tập lần thứ 3. Như vậy lần kết tập này xảy ra sau Phật Niết bàn 218 năm, tức là 325 năm trước Tây lịch. Đại hội lần này do Hoàng đế A Dục (Asoka) đề xướng và bảo trợ .
03/04/2013(Xem: 8378)
Sau Phật Niết bàn khoảng 400 năm, tại nước Kiền Đà La (Gandhàra) có vua Ca Nị Sắc Ca (Kanishca) trị vì, đất nước phú cường, danh vang khắp nơi ,các nước xung quanh đều quy phục. Trong những lúc rảnh rỗi việc triều đình, nhà vua thường đọc kinh Phật. Mỗi ngày vua thỉnh một vị cao tăng vào cung thuyết pháp.
03/04/2013(Xem: 5177)
Sau lần kết tập pháp tạng thứ tư đúng 2015 năm thì đến lần kết tập pháp tạng thứ 5. Theo sự ghi chép của Pàli giáo sử chương 6 và sử Miến Điện; thì vào năm 1871, quốc vương Miến Điện là Mẫn Đông (Mindon - tại vị từ 1853 - 1878) đứng ra triệu tập 2400 vị cao tăng, cử hành kết tập Tam tạng giáo điển lần thứ 5, tại thủ đô Man-Đức -Lặc (Mandalay), chính quốc vương làm người hộ pháp.
03/04/2013(Xem: 6137)
Đại Tạng Kinh chữ Hán là một bộ tổng vựng các kinh sách Phật Giáo, nhưng bao gồm rất nhiều lĩnh vực như : triết học, lịch sử, ngôn ngữ, văn học, nghệ thuật, lịch toán, y dược, thiên văn... Đây là một kết tinh của văn hóa Trung Quốc và văn hóa nước ngoài có ảnh hưởng sâu xa đối với sự phát triển của văn hóa thế giới.
03/04/2013(Xem: 7583)
Kinh Tạp A Hàm là một trong tứ A Hàm. Sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, năm trăm đại đệ tử kết tập kinh điển ở thành Diệp Quật, những kinh điển sau khi được thẩm định, mới chính thức trở thành chuẩn mực tu tập cho hàng Thánh chúng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567