Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

37. Tứ niệm xứ

24/02/201116:04(Xem: 8772)
37. Tứ niệm xứ

PHÁ MÊ KHAI NGỘ
Lê Sỹ Minh Tùng

37. Tứ niệm xứ

Tứ là bốn. Niệm là nhớ, nghĩ đến. Vậy Tứ Niệm Xứ có nghĩa là bốn điều mà kẻ tu hành phải dụng tâm nghĩ đến. Đó là:

¨ Quán Thân bất tịnh

¨ Quán Tâm vô thường

¨ Quán Pháp vô ngã

¨ Quán Thọ thì khổ

1) Quán Thân bất tịnh: Quán là tập trung tư tưởng để quan sát cho kỹ càng, còn bất tịnh là dơ bẩn. Vậy quán thân bất tịnh có nghĩa là tập trung tư tưởng để quan sát một cách kỷ càng về sự dơ bẩn của thân ta.

Ai dám bảo cái thân của chúng ta thì dơ bẩn?

Thử nghĩ trong đời nầy không có cái gì mà chúng ta quý hơn là cái thân của chúng ta. Hằng ngày chúng ta nâng niu cưng chìu nó. Nó muốn cái gì thì chúng ta thỏa mãn cho nó ngay. Chúng ta mua nhà đẹp cho nó ở, sắm xe sang cho nó lái và nấu thức ăn ngon cho nó thưởng thức. Chúng ta còn đi mall để mua sắm áo quần áo đẹp cho nó mặc. Đôi khi tệ hại hơn nữa là chúng ta còn giám làm những điều tội lỗi để cho nó được sung sướng. Nếu mà đã coi trọng nó như vậy mà nói nó là dơ bẩn, tanh hôi thì làm sao có thể tin cho được.

Nhưng chúng ta hãy nhìn kỹ lại là thân của chúng ta dơ bẩn ngay từ lúc chúng ta còn nằm trong bụng mẹ. Cái thai nhi thì đỏ lưởng và nằm lẫn lộn trong máu me nhơ nhớp. Đến khi chào đời rồi lớn lên thì cái thân này lại còn tệ hại hơn nữa. Thật vậy, nếu vài ngày mà không tắm thì ai dám lại gần. Còn lúc ăn uống vào và khi tống ra thì chẳng ma nào chịu nổi. Bên ngoài thì đã thế còn bên trong như ruột, gan, phèo phổi thì còn tệ hại hơn nhiều. Đến khi bệnh hoạn thì ho hen với nước mũi nước giải chảy ra phát ớn. Khi người đến lúc già thì má hóp, da nhăn, răng long, tóc rụng, nay đau, mai yếu. Thật là thê thảm.

Vậy Thân là bất tịnh chớ còn gì nữa. Nhưng thói thường thì con người lúc nào cũng quý yêu cái thân cả. Nếu thân thích cái gì thì mình thích cái đó còn thân ghét cái gì thì mình cũng ghét theo. Cũng bởi tại cái vô minh nên chúng ta làm nô lệ cho thân của chính mình và từ đó gây ra nghiệp báo để phải chịu quả đời đời không dứt. Do đó chúng ta phải sáng suốt quyết tâm không làm nô lệ cho cái thân này nữa để đừng cho tham, sân, si phát khởi và từ đó thân, khẩu, ý không có cơ hội tạo ra ác nghiệp.

2) Quán Tâm vô thường: có nghĩa là tri thức của tâm chúng ta thì thay đổi bất thường. Tâm thức của con người thay đổi vô cùng vô tận. Ý niệm nầy vừa phát sinh thì ý niệm khác đã thay thế. Từ khi thức giấc đến khi đi ngũ thì trong tâm thức chất chứa biết bao là ý niệm. Chánh có, tà có, thiện có, ác có làm cho tâm con người bất an và lo âu phiền não. Do đó, chúng ta phải hiểu rằng cái tâm thì biến đổi không ngừng và đó chính là nguyên nhân để sinh ra vô số vọng tưởng phiền não. Cái tham, sân, si, mạn, nghi… đều do nó tác sinh mà ra.

Vậy chúng ta phải đổi cái tâm si mê, ngu muội thành ra cái tâm giác ngộ để trừ ngã chấp và thoát ra vòng sinh tử luân hồi.

3) Quán Pháp vô ngã: Phàm cái gì tự nó có thể giữ được hình dáng để làm cho chúng ta khi nhìn thấy nó có thể biết đó là vật gì thì cái đó gọi là pháp. Trong thế gian vũ trụ nầy không có một vật gì mà tự nó có thể phát sinh và tồn tại mà không cần sự trợ giúp của những nhân duyên khác. Cái thân tứ đại của chúng ta là do đất, nước, gió, lửa, không gian và thức tạo thành nên tự nó không thể sống được mà con người cần phải ăn uống, hít thở…Vì thế tất cả vạn pháp trong thế gian không có tự tánh, chủ thể hay vô ngã. Đã là vô ngã thì nó không bền, không chắc, tạm bợ và sau cùng cũng bị hủy hoại bởi luật vô thường của tạo hóa mà thôi.

Cũng như trong giấc chiêm bao, một khi chúng ta nằm mộng thì cảnh nầy hay cảnh khác thay phiên nhau hiện ra làm cho chúng ta lầm tưởng những cảnh tượng đó là cảnh thật. Nhưng khi thức dậy thì chúng ta mới nhận ra đó chỉ là giấc chiêm bao mà thôi. Còn con người chúng ta vì bị mê lầm nên không thể nhận ra sự giả dối của sự vật. Trong khi tâm thì duyên với cảnh và cảnh thì duyên với tâm mà chúng ta cứ tưởng là có thật. Thật ra tất cả các pháp đều không tự tướng nên chúng được gọi là vô ngã.

Đã biết pháp là vô ngã thì bên ngoài chúng ta không bị hoàn cảnh kích thích, còn bên trong không bị phiền não lay động, quay cuồng theo sự múa rối của giả cảnh. Vì thế, chúng ta muốn tự tại cũng không đạt được cũng như muốn an vui, thường trú mà phải trôi lẫn vào vòng sinh tử.

Nếu chúng ta chứng được pháp vô ngã rồi thì cảnh cũng vô ngã và tâm thức cũng vô ngã do đó không còn cái chi để mà ghét, mà thương, mà phải chịu luân hồi sanh tử nữa.

Pháp vô ngã sẽ đem lại cho chúng ta tính vị tha và dĩ nhiên là không bao giờ làm tổn thương cho ai cả.

4) Quán Thọ thì khổ: thọ là nhận lãnh. Tại sao lại phải nhận lãnh cái khổ?

Trước hết ta thọ nhận cuộc đời. Nhưng cuộc đời không phải là một chuổi dài đau khổ thì là gì? Bởi vì sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ và đến lúc chết cũng còn khổ. Nói chung, hễ càng thọ nhiều trên cõi đời này thì chúng ta càng khổ bấy nhiêu. Khi đã biết “thọ thì khổ” thì chúng ta phải tìm phương pháp để đối trị với nó bởi vì thọ là do tham mà có và chính cái tham là nguồn gốc đưa đến sự phiền não đã ăn sâu trong lòng chúng ta từ lâu đời lâu kiếp.

Vậy phải làm thế nào để tránh nó?

Như trên chúng ta đã biết, hễ thọ nhiều thì khổ nhiều còn thọ ít thì khổ ít. Càng gánh công danh phú quý thì vai càng nặng và khổ càng nhiều. Trái lại, nếu chúng ta không lãnh thọ thì tâm không bị giao động. Nói một cách tổng quát là đối với mọi cảnh vật, chúng ta thấy không có gì đáng ưa, không có gì đáng ghét, không có gì đáng vui mừng thì sẽ không có gì đau khổ. Vì thế cuộc đời của chúng ta mới được an nhiên tự tại và không còn khổ đau nữa.

Sau cùng, chúng ta cố gắng chứng cho được bốn sự thật nầy thì sự chấp ngã, chấp pháp, tham, sân, si sẽ dần dần tan biến.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/09/2021(Xem: 15183)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
03/09/2021(Xem: 3782)
Thanh Lương là bút hiệu của Thích Thiện Sáng, một hành giả Thiền tông. Thế danh Trương Thượng Trí, sinh năm 1956, lớn lên trên cù lao Ông Chưởng, bên dòng sông Hậu giữa trời thơ đất mộng An Giang. Bản chất thông minh, mẫn tuệ, có trực giác bén nhạy, ngay từ thời còn bé nhỏ đã có những biểu hiện khác thường như trầm tư, ưa đọc sách đạo lý suốt ngày, thích ăn chay trường, thương súc vật và học hành ở trường lớp thì tinh tấn, luôn luôn dẫn đầu, xuất sắc.
03/09/2021(Xem: 5798)
Có những người làm gì cũng hay, viết gì cũng hay. Tôi luôn luôn kinh ngạc về những người như vậy. Họ như dường lúc nào cũng chỉ ra một thế giới rất mới, mà người đời thường như tôi có ngó hoài cũng không dễ thấy ra. Đỗ Hồng Ngọc là một người như thế.
30/08/2021(Xem: 5356)
Phàm ở đời, những ai muốn xây dựng sự nghiệp lớn, đều phải có đức nhẫn nhục để vượt qua bao lần thất bại mới đạt được thành công. Khi đạt được mục đích rồi, vẫn phải tiếp tục nhẫn nhục, bởi vì ở đời, đâu phải người ta chỉ chịu nhẫn nhục trên con đường xây dựng sự nghiệp không thôi, mà còn phải đối đầu với những ganh tỵ phá rối của những kẻ xấu hãm hại mình trên nhiều phương diện khác. Nếu không nhẫn nhục chịu đựng thì mình rất dễ dàng có những hành động không kiểm soát đưa tới nguy hại cho chính bản thân mình và những người liên hệ. Cho nên có thể nói đức tính nhẫn nhục cần đi theo với mình suốt cả cuộc đời.
28/08/2021(Xem: 3580)
Tác phẩm "Crossing the Threshold of Hope" (Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng) của Giáo Hoàng John Paul II ấn hành năm 1994. Nguyên tác bằng tiếng Ý, tới bây giờ đã dịch sang 53 ngôn ngữ. Trong sách, Giáo Hoàng có một số nhận định sai lầm về Phật Giáo.
07/05/2021(Xem: 16919)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
22/02/2021(Xem: 3511)
Với lịch sử 2500 năm, đạo Phật đã trải qua hàng trăm thế hệ nhân sinh mà mỗi thế hệ đều có dấu ấn của sự trải nghiệm riêng qua từng chặng đường lịch sử, xã hội, văn hóa và dân tộc. Hiện tại, lớp người trẻ trên thế giới này được mệnh danh là “Thế hệ Z” (Gen Z). Thế hệ Z là giới trẻ được sinh từ năm 1996 trở đi. Đây là thế hệ đầu tiên có cơ hội tiếp xúc với công nghệ điện tử ngay từ nhỏ. Thế giới khổng lổ và thay đổi từng giây nhanh như chong chóng của phương tiện truyền thông điện tử. Từ Facebook, Youtube, Tweeter, Instagram… đến mạng internet rộng lớn, thế hệ Z năng động, độc lập và tìm kiếm thông tin tính theo đơn vị phút trong khi thế hệ phụ huynh, cha ông phải tính theo ngày, theo tháng. Thế hệ Z thì đang đi với tốc độ máy bay mà thế hệ cha anh và ông bà thì vẫn còn đi với tốc độ xe hơi, xe má,y xe đạp hay thậm chí là đi bộ. Bởi vậy khoảng cách giữa các thế hệ càng ngày càng xa. Theo ước tính thì trong vòng khoảng 10 năm nữa (2030), thế hệ Z sẽ làm chủ thế giới về mọi
29/11/2020(Xem: 12697)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
13/03/2020(Xem: 17947)
Quyển "The Buddha and His Teachings" (Đức Phật và Phật Pháp) được ấn hành tại Sài gòn năm 1964 nhờ sự phát tâm bố thí của liệt vị Phật tử Việt Nam. Đạo hữu Phạm Kim Khánh, pháp danh Sunanda, đã dày công phiên dịch thiên khái luận nhỏ bé này ra tiếng mẹ đẻ với mục đích đáp lại phần nào lòng mong ước của những ai muốn hiểu Đức Phật và giáo lý của Ngài. Công đức này được hàng Phật tử Việt Nam ghi nhận. Trong hiện tình, nước Việt Nam không mấy được yên ổn. Bao nhiêu người đang đau khổ, về vật chất cũng như tinh thần. Không khí căng thẳng này quả không thích hợp với việc làm có tánh cách tinh thần và đạo đức
11/10/2018(Xem: 7464)
Khi chúng ta đã muốn được trong sạch thảnh thơi, muốn trút bỏ tội lỗi cho lòng được nhẹ nhàng, thư thái, thì tất nhiên chúng ta phải tìm phương pháp để trừ cho hết buị bặm, tẩy trừ cho hết tội lỗi. Trong Đạo Phật, phương pháp tẩy trừ ấy gọi là sám hối.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567