Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

8. Tam tạng kinh

24/02/201116:04(Xem: 8501)
8. Tam tạng kinh

PHÁ MÊ KHAI NGỘ
Lê Sỹ Minh Tùng

8. Tam tạng kinh

Trong tất cả 49 năm hành đạo, Đức Phật đã để lại cho Phật giáo 5 bộ kinh. Những kinh pháp của Ngài nói ra là dựa theo khả năng thu nhập của hàng đệ tử. Kinh điển chỉ được viết ra một thời gian dài sau khi Đức Phật nhập diệt. Năm bộ kinh đó là:

v Phật nói Kinh Hoa Nghiêm: Sau khi Ngài thành đạo, Ngài nói trong thiền định bộ kinh Hoa Nghiêm trong 21 ngày để dẫn dắt các vị Bồ-tát lên địa vị Đẳng giác và Diệu giác. Kinh nầy là kinh cao siêu nhất của Phật giáo. Một niệm tâm trong thiền định mà ngài Thiên Thai có thể chứng được 3000 pháp biến dịch.

v Phật nói Kinh A-Hàm: Đây là bộ kinh rất căn bản cho tất cả mọi người để hiểu rõ mà tự tu và tự độ. Ngài đã thuyết giảng gần 12 năm và dùng những thí dụ rất thực tế để chỉ rõ chân lý.

v Phật nói Kinh Phương Đẳng: Đức Phật đã dùng 8 năm để giảng dạy phương pháp tự giác ngộ cho chính bản thân ta đến giác tha là phải cố gắng giác ngộ cho tất cả chúng sinh.

v Phật nói Kinh Bát Nhã: Ngài đã dùng đến 22 năm trong 49 năm hành đạo để thuyết giảng kinh Bát Nhã. Kinh này giảng dạy đạo lý chân không của vũ trụ và thuyết minh cái thật tướng, vô tướng của các pháp.

v Phật nói Kinh Pháp Hoa và Niết Bàn: Trong 8 năm còn lại trước khi Ngài nhập diệt, Đức Phật đã nêu rõ nguyên nhân tại sao Ngài xuất hiện trên thế gian nầy:”Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến’. Sau đó Ngài phú chúc, thọ ký cho hàng đệ tử tương lai sẽ thành Phật.

Đến đây nhiệm vụ thuyết pháp độ sanh của Ngài đã viên mãn. Sau khi Đức Phật nhập diệt, toàn bộ kinh sách được gom góp lại và được gọi là Tam Tạng kinh (Pitaka). Tam Tạng kinh được chia làm:

Ø Kinh tạng (Sutra-pitaka): bao gồm những giáo lý của Đức Phật để áp dụng tùy theo căn cơ của mỗi chúng sinh.

Ø Luật tạng (Vinaya-pikata): đây là luật thiên trì dùng để giúp trị những điều gây tội ác của chúng sinh.

Ø Luận tạng (Abhidharma): Tất cả những kinh điển thuộc về loại nầy đếu được dùng để bàn luận, và trả lời những lý lẽ cao siêu của Phật giáo.

Trong lịch sử của Phật giáo liên quan đến kinh điển cho hậu thế, thì chúng ta thấy có tất cả 4 lần đại hội:

1. Thời kỳ kết nạp thứ nhất: Bốn tháng sau khi Đức Phật nhập diệt, Ngài Ca Diếp thay Phật, thống suất tăng chúng, đã triệu tập một đại hội gồm khoảng 55 đại đệ tử ở thành Vương Xá (Raajagrika). Trong kỳ đại hội này, ngài Ca Diếp được suy tôn ngồi ghế chủ tọa và ngài có nhiệm vụ đọc Luận tạng, còn ngài A Nan, là vị đệ tử thường theo Phật nghe nhiều và nhớ lâu, được cử ra đọc Kinh tạng, và sau cùng ngài Ưu Bà Ly là vị đệ tử thông suốt và nghiêm trì giới luật nhất, được cử ra để đọc Luật tạng. Đại hội nầy được mệnh danh là kỳ kết tập thứ nhứt.

2. Thời kỳ kết tập thứ hai: Khoảng 100 năm sau khi Đức Phật nhập diệt, vì có sự bất đồng ý kiến về giới điều, nên tăng chúng chia làm 2 nhóm, họp riêng ở hai thành Vaisaly và Vajji.

Nhóm Tăng sĩ ở thành Vaisaly đồng ý là: ”không nên sửa đổi những điều luật của Phật truyền dạy, mặc dầu Đức Thế Tôn đã có di huấn rằng nếu chư Tăng đồng ý cùng nhau là thấy điều luật nào của Như Lai đã chế định là ít quan trọng thì được phép sửa chữa”.
Trong khi đó nhóm tăng ở Vajji sửa đổi mười điều luật của Phật và gọi họ là phái Tiến thủ hay là Đại chúng bộ.
3. Thời kỳ kết tập thứ ba: khoảng 274 năm trước Tây lịch, Hoàng Đế A Dực lại triệu tập hơn 1000 vị Đại trưởng lão tại thành Pataliputra dưới quyền chủ tọa của ngài Mục Kiền Liên Tứ Đế (Mogaliputta Tissa). Sau 9 tháng làm việc, hội nghị đã hoàn thành công tác kết tập kinh điển, ngoài ra lại còn chỉnh đốn Tăng giới, bài trừ những hàng Tu sĩ phạm trai, phá giới, vô kỷ luật.

4. Thời kỳ kết tập lần thứ tư: Khoảng 600 năm sau khi Đức Phật nhập diệt, vua Cà Ni Sắc Ca (Kaniska) đã triệu tập 500 vị Bồ tát, 500 vị Tỳ kheo, cùng 500 Cư sĩ tại gia họp tại thành Ca Thấp Di La để kết tập Kinh điển dưới quyền chủ tọa của hai ngài Hiệp Tôn Giả và Thế Hựu.

Tóm lại, thì hai kỳ kết tập đầu chưa cần đến sự biên chép, nghĩa là chỉ đọc tụng lại, xem lời lẽ nào là của Đức Phật đã nói ra, hay xét cho những ý nghĩa nào là đúng với chánh pháp. Cho đến kỳ kết tập thứ ba và thứ tư thì mới dùng đến văn tự để biên chép thành sách vở. Trong sự biên chép nầy, chư tăng chia làm hai phái: phái nam thì ghi bằng văn Pali, còn phái bắc thì chép lại bằng văn Phạn.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/09/2021(Xem: 3749)
Thanh Lương là bút hiệu của Thích Thiện Sáng, một hành giả Thiền tông. Thế danh Trương Thượng Trí, sinh năm 1956, lớn lên trên cù lao Ông Chưởng, bên dòng sông Hậu giữa trời thơ đất mộng An Giang. Bản chất thông minh, mẫn tuệ, có trực giác bén nhạy, ngay từ thời còn bé nhỏ đã có những biểu hiện khác thường như trầm tư, ưa đọc sách đạo lý suốt ngày, thích ăn chay trường, thương súc vật và học hành ở trường lớp thì tinh tấn, luôn luôn dẫn đầu, xuất sắc.
03/09/2021(Xem: 5727)
Có những người làm gì cũng hay, viết gì cũng hay. Tôi luôn luôn kinh ngạc về những người như vậy. Họ như dường lúc nào cũng chỉ ra một thế giới rất mới, mà người đời thường như tôi có ngó hoài cũng không dễ thấy ra. Đỗ Hồng Ngọc là một người như thế.
30/08/2021(Xem: 5327)
Phàm ở đời, những ai muốn xây dựng sự nghiệp lớn, đều phải có đức nhẫn nhục để vượt qua bao lần thất bại mới đạt được thành công. Khi đạt được mục đích rồi, vẫn phải tiếp tục nhẫn nhục, bởi vì ở đời, đâu phải người ta chỉ chịu nhẫn nhục trên con đường xây dựng sự nghiệp không thôi, mà còn phải đối đầu với những ganh tỵ phá rối của những kẻ xấu hãm hại mình trên nhiều phương diện khác. Nếu không nhẫn nhục chịu đựng thì mình rất dễ dàng có những hành động không kiểm soát đưa tới nguy hại cho chính bản thân mình và những người liên hệ. Cho nên có thể nói đức tính nhẫn nhục cần đi theo với mình suốt cả cuộc đời.
28/08/2021(Xem: 3550)
Tác phẩm "Crossing the Threshold of Hope" (Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng) của Giáo Hoàng John Paul II ấn hành năm 1994. Nguyên tác bằng tiếng Ý, tới bây giờ đã dịch sang 53 ngôn ngữ. Trong sách, Giáo Hoàng có một số nhận định sai lầm về Phật Giáo.
07/05/2021(Xem: 16547)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
22/02/2021(Xem: 3482)
Với lịch sử 2500 năm, đạo Phật đã trải qua hàng trăm thế hệ nhân sinh mà mỗi thế hệ đều có dấu ấn của sự trải nghiệm riêng qua từng chặng đường lịch sử, xã hội, văn hóa và dân tộc. Hiện tại, lớp người trẻ trên thế giới này được mệnh danh là “Thế hệ Z” (Gen Z). Thế hệ Z là giới trẻ được sinh từ năm 1996 trở đi. Đây là thế hệ đầu tiên có cơ hội tiếp xúc với công nghệ điện tử ngay từ nhỏ. Thế giới khổng lổ và thay đổi từng giây nhanh như chong chóng của phương tiện truyền thông điện tử. Từ Facebook, Youtube, Tweeter, Instagram… đến mạng internet rộng lớn, thế hệ Z năng động, độc lập và tìm kiếm thông tin tính theo đơn vị phút trong khi thế hệ phụ huynh, cha ông phải tính theo ngày, theo tháng. Thế hệ Z thì đang đi với tốc độ máy bay mà thế hệ cha anh và ông bà thì vẫn còn đi với tốc độ xe hơi, xe má,y xe đạp hay thậm chí là đi bộ. Bởi vậy khoảng cách giữa các thế hệ càng ngày càng xa. Theo ước tính thì trong vòng khoảng 10 năm nữa (2030), thế hệ Z sẽ làm chủ thế giới về mọi
29/11/2020(Xem: 12522)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
13/03/2020(Xem: 17834)
Quyển "The Buddha and His Teachings" (Đức Phật và Phật Pháp) được ấn hành tại Sài gòn năm 1964 nhờ sự phát tâm bố thí của liệt vị Phật tử Việt Nam. Đạo hữu Phạm Kim Khánh, pháp danh Sunanda, đã dày công phiên dịch thiên khái luận nhỏ bé này ra tiếng mẹ đẻ với mục đích đáp lại phần nào lòng mong ước của những ai muốn hiểu Đức Phật và giáo lý của Ngài. Công đức này được hàng Phật tử Việt Nam ghi nhận. Trong hiện tình, nước Việt Nam không mấy được yên ổn. Bao nhiêu người đang đau khổ, về vật chất cũng như tinh thần. Không khí căng thẳng này quả không thích hợp với việc làm có tánh cách tinh thần và đạo đức
11/10/2018(Xem: 7436)
Khi chúng ta đã muốn được trong sạch thảnh thơi, muốn trút bỏ tội lỗi cho lòng được nhẹ nhàng, thư thái, thì tất nhiên chúng ta phải tìm phương pháp để trừ cho hết buị bặm, tẩy trừ cho hết tội lỗi. Trong Đạo Phật, phương pháp tẩy trừ ấy gọi là sám hối.
29/09/2018(Xem: 8823)
Thái tử Siddhãrtha Gautama (Pãli) hay Siddhattha Gotama (Sanskrist) hoặc Sĩ-Đạt-Ta (Tất-Đạt-Đa) Cồ-Đàm, sau khi thành đạo được các Phật tử tôn kính xem Ngài là một bậc đạo sư vĩ đại, vì Ngài là người đã giác ngộ viên mãn, là người tự biết mình thực sự thoát khỏi vòng quay luân hồi sinh tử, là người hiểu rõ được nguyên tắc vận hành khách quan của hiện tượng thế gian. Sau đó truyền bá kinh nghiệm giác ngộ của mình cho người hữu duyên không phân biệt giai cấp, tôn giáo, dạy họ phương pháp tu tập chấm dứt khổ đau phiền não trong cuộc sống thế gian, hầu kinh nghiệm được hạnh phúc tối thượng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567