Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

4. Thành đạo

24/02/201116:04(Xem: 8278)
4. Thành đạo

PHÁ MÊ KHAI NGỘ
Lê Sỹ Minh Tùng

4. Thành đạo

Thái tử ngồi nhập định dưới gốc cây Bồ-đề suốt 49 ngày đêm, và trong 49 ngày đêm đó, Ngài đã không ngừng chiến đấu với bọn Ma-vương. Ma vương ở đây không chỉ giản dị như là những bọn quỷ sứ, răng nanh, sừng nhọn, hoặc là đầu trâu, mặt ngựa, đến bao vây để cố tìm mọi cách hãm hại Ngài, mà Ma vương ở đây chính là: Phiền não ma, Ngũ uẩn ma, Pháp hành ma, Tứ diệt ma, và Chư thiên ma. Vậy ảnh hưỡng của nó như thế nào?

o Phiền não ma: Đức Phật đã giải thích Phiền não ma trong một đoạn kinh sau đây:

“Này Ma vương, dục lục là ma quán thứ nhất, hai là bất mãn, ba là đói khát, bốn là ái dục, năm là uể oải, buồn ngủ, sáu là sợ hãi, bảy là hoài nghi, tám là phỉ bang và cố chấp, chín là danh lợi, và mười là tự cao, tự đại, kênh kiệu. Này Ma vương, hùng binh của ngươi là thế, chúng luôn luôn thường trụ trong con người xấu xa đê tiện, kẻ hèn yếu thì thất bại, nhưng người nào hạnh phúc được chứng sẽ đạt được chân hạnh phúc. Ta thà chết trên chiến trường còn hơn sống mà thất bại”

Vì đã biết rõ đối thủ cuả mình như thế nào, nên với sự kiên tâm và thủ chí, Ngài đã khắc phục được Phiền não ma với tâm nguyện chuyển ác thành thiện, chuyển mê thành ngộ. Chiến thắng phiền não ma là một chiến thắng từ trong nội tâm và vì thế sự chiến thắng này sẽ chứng tỏ lối tu hành khổ hạnh khi xưa là lầm đường, lạc hướng.

o Ngũ uẩn ma: Trong chúng ta ai ai cũng có một cái gọi là cái Ta. Cái Ta chính là sự tạo thành bởi ngũ uẩn, mà ngũ uẩn thì gồm có: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Vì năm món nầy quay cuồng biến chuyển không ngừng trong ta, lúc thì sanh, lúc thì diệt, lúc thì ẩn, lúc thì hiện. Cũng vì sự biến đổi nầy mà đã phát sinh ra không biết bao nhiêu là vọng tưởng trong tâm của chúng ta, hay nói một cách khác là ngũ uẩn chính là vọng tưởng về bản ngã. Do đó, chúng ta có thể nói bản ngã là vọng huyển, vô tưởng, hay ảo giác. Khi đã nhận thấy rõ sự nguy hiểm của cái bản ngã nầy, thì Đức Phật phải phá cho bằng được cái Ta của sự vô thường, có tan, có hợp để đạt đến sự an vui thanh tịnh.

o Pháp hành ma: Ma chướng nầy có ý ám chỉ những hành động tạo Nghiệp của Thân, Khẩu, Ý. Những Nghiệp thiện ác này phát xuất từ phiền não và cũng chính nó đã đưa sự đau khổ càng lúc càng tăng và như thế thì kiếp luân hồi sẽ xoay vần bất diệt. Bởi thế Đức Phật dạy rằng:

“Vì bị chi phối bởi tham lam, sân hận, si mê mà Nghiệp hình thành, đó là căn nguyên của mọi đau khổ. Đoạn diệt được tham, sân, si tức là hủy diệt động lực hình thành của nghiệp và mọi đau khổ sẽ chấm dứt”.

o Tứ diệt ma: Trong thân tứ đại của chúng ta, luật vô thường đóng một vai trò quan trọng, bởi vì chúng ta có sanh tất có tử. Nhưng cứ mỗi một giây, một phút chúng ta đang chết dần chết mòn chứ đâu phải đợi đến khi chúng ta xuôi tay nhắm mắt mới gọi là chết. Thật vậy, cứ một phút trôi qua, thì chúng ta già đi một tí, nhưng vì nó biến đổi quá nhanh nên chúng ta không nhận thấy mà thôi. Khi nào chúng ta còn vô minh, ái dục, phiền não và ô nhiễm, thì chúng ta còn bị định luật sinh tử chi phối. Còn trái lại Đức Phật đã tận diệt những thứ nầy nên Ngài không còn hành, tức không còn tạo nghiệp. Không có hành, thì thức không sanh, mà nếu thức không sanh, thì danh sắc, tức thân tâm không sanh. Thân tâm không sanh thì không có Lục nhập: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Và từ đó nó không sinh ra vui, khổ, yêu, ghét. Không có những thứ này, thì chúng ta không muốn bám lấy để giữ gìn nó và cuối cùng không sinh thì không già, không chết. Đức Phật không còn vô minh, ái dục… nên Ngài đã hoàn toàn thoát ra vòng sinh tử.

o Chư thiên ma: Đây là loại ma quán duy nhất từ bên ngoài còn bốn loại ma kể trên đều là nội ma cả. Chư thiên ma nầy thì không đáng ngại bằng các nội ma ở trong tâm, do đó Đức Phật lại dạy rằng:”Dù chiến thắng vạn quân ở chiến trường không bằng chiến thắng chính mình, vì đó là chiến thắng cao thượng nhất”. Những chư thiên ma nầy xuất phát từ những vị Trời, những vị quỷ thần trong cãnh giới A-tu-là, dạ xoa. Đôi khi chúng phá phách, và cũng đôi khi chúng phục tòng. Chỉ có nhũng bậc tu hành ở những nơi thanh vắng, hoặc người kém đức có thể bị chúng đe dọa, nhưng đối với những bậc đức độ cao dầy, với ý chí sắt đá không những không khiếp nhược trước bọn ma quỷ này mà họ còn đem lòng Từ Bi Hỷ Xả của mình để hóa độ chúng trở về với chánh đạo.

Nhờ năng lực an trụ của tham thiền nhập định, như một bình nước đã được lắng trong không còn chút bợn nhơ, Ngài cảm thấy tâm hồn thật là thư thái và sáng suốt lạ thường. Thế rồi, với tâm vắng lặng, ổn định và trong sáng như pha lê, Ngài lần lượt chứng được tam minh:

Túc Mệnh Minh: Vào canh hai, Ngài chứng được Túc Mệnh Minh (Pubbe Nivasanusita nana). Chính cái minh nầy đã cho Ngài thấy rõ tất cả được quãng đời quá khứ của mình trong tam giới. Theo thứ tự, Ngài biết được trước đây Ngài là ai, tên gì, sống ở đâu. Từ đời sống hiện tại này, ký ức Ngài không còn bị hạn chế bởi luật sinh tử nữa. Ngài bắt đầu nhận ra kiếp trước của Ngài là một thiền nhân, tên là Setaketu, đến đời sống trên trái đất này, nhưng trước đó một kiếp thì Ngài là Thái tử Vesantara. Rồi trở lui lại ba đời, bốn, mười, hai mươi, một trăm, một ngàn, một trăm ngàn cho đến khi Ngài còn là một người tu khổ hạnh trẻ tuổi có tên là Thiên Tuệ (Sumedha). Lúc đó Ngài khiêm tốn trước Đức Phật Nhiên Đăng (Dipankara) và phát nguyện như sau: ”Ôi! Mong sao một ngày kia con sẽ trở nên một bậc Toàn giác có đủ mọi năng lực như Ngài”. Và cứ thế mà vô số kiếp mở ra trước sự quan sát của Ngài.

Thiên Nhãn Minh: Vào lúc nữa đêm, Ngài chứng được Thiên nhãn minh (Catupapata nana). Minh nầy giúp Ngài biết về việc sinh và tử của chúng sinh dựa trên cái nghiệp (Karma) mà chính họ đã tạo ra. Do đó Ngài cũng nhận ra rằng tùy theo các hành động thiện hay bất thiện của chúng sinh mà họ sẽ sinh vào đời sau như thế nào. Cái màng nhện rối răm của những tương quan của quá khứ, hiện tại, và tương lai đã trở nên quá rõ ràng và Ngài đã thấy chúng sinh luân hồi tùy theo những hành động thiện hoặc bất thiện của họ.

Lậu Tận Minh: Và sau cùng khi đến canh tư, thì Ngài chứng được Lậu tận minh (Asavakkaya nana). Đây là minh cuối cùng đã giúp cho Ngài thấu hiểu nguồn gốc của sự đau khổ và phương pháp diệt trừ những nỗi khổ đau nầy để được giải thoát ra khỏi cảnh sanh tử luân hồi. Khi đã hiểu rỏ căn nguyên gốc rễ thì Ngài nói rằng: “Đây là khổ, là phiền não, là ô nhiễm. Đây là nguyên nhân đau khổ, phiền não và ô nhiễm.Đây là sự tận diệt mọi khổ đau, ô nhiễm và cũng chính đây là con đường dẫn đến sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau”. (Đây chính là Tứ Diệu đế).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 18655)
Đã hơn 3 năm qua,kể từ khi Cố Đại lão Hòa thượng Thích Thiện Siêu,bậc Tôn sư của chúng tôi viên tịch, cuốn sách nhỏ này là tập thứ 5 sau 4 tập “Chữ nghiệp trong ...
08/04/2013(Xem: 16816)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là " Phật Giáo Thánh Kinh " do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa). Nữ Phật tử đã dày công trích yếu trong ba Tạng giáo điển: Kinh, Luật, Luận, những đoạn cốt yếu cao siêu, thích ứng, thiết thực, rõ ràng và dễ hiểu.
08/04/2013(Xem: 5612)
Quý vị biết không, gần đây có nhiều người đến khuyên tôi thế nầy: “Thầy ơi, lúc nầy Thầy cứ tu đi thì mọi việc sẽ tốt đẹp, Thầy đừng làm chi hết, bởi vì Thầy có làm chi thì sẽ đụng tới...
08/04/2013(Xem: 25276)
Ðạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Ðạo Phật. Dân chúng thường nói "Ðạo Phật là đạo của ông bà"...
05/04/2013(Xem: 3236)
Để thảo luận vấn đề thường được nhiều người hỏi: sự khác nhau giữa đạo Phật Đại thừa và đạo Phật Nguyên thủy là gì? Để hiểu được điều này chính xác, chúng ta hãy ôn lại lịch sử của đạo Phật và tìm nguồn gốc của đạo Phật Đại thừa và đạo Phật Nguyên thủy.
02/04/2013(Xem: 4883)
Nhìn lại thân thể của mình mỗi ngày là một trong những phương pháp thực tập rất căn bản của thiền học. Tiếp xúc với thân thể của ta bằng con mắt thiền quán, ta thấy sự có mặt của thân thể đối với ta là sự có mặt của một thực tại mầu nhiệm.
28/03/2013(Xem: 5963)
Phật dạy chúng sanh trong sanh tử vô minh từ vô thủy kiếp đến nay, gốc từ vô minh, do vô minh nên thấy biết và tạo nghiệp sai lầm. Biểu hiện của thấy biết sai lầm thì rất nhiều, trong đó sự thiếu sáng suốt và lòng tự mãn là biểu hiện nổi bật nhất. Đây cũng là căn bệnh trầm kha của đa phần những con người bảo thủ, sôi nổi, nhưng lại nhìn chưa xa, trông chưa rộng. Từ đó, cuộc sống của họ khung lại trong cái vị kỷ nhỏ hẹp, phiêu bồng trôi giạt theo từng bước vong thân.
27/03/2013(Xem: 3629)
Một vị vua là một người cai trị thuộc dòng dõi hoàng gia. Đức Phật xác định, một vị vua là “vị thủ lĩnh của những người đàn ông”. Các tôn giáo khác nhau có những lý luận khác nhau về nguồn gốc và bản chất của một vị đế vương.
27/03/2013(Xem: 5088)
Phật giáo, giống như những tôn giáo khác, nhấn mạnh vào những giá trị tinh thần hơn là vào những giá trị vật chất; vào việc buông xả những tài vật của thế gian hơn là chấp chặt vào chúng; và vào khía cạnh tâm linh của đời sống hơn là vào khía cạnh trần tục của nó. Tuy nhiên, Phật giáo không hoàn toàn không quan tâm đến phương diện đời sống vật chất và thế tục.
26/03/2013(Xem: 3796)
Tốt và xấu là những tiêu chí để đánh giá đạo đức. Thông thường, một người tốt được nghĩ là một người có đạo đức, và ngược lại. Cũng như vậy, những hành vi được xem là tốt khi hành vi ấy tuân theo những nguyên tắc đạo đức nào đó; và ngược lại, những hành vi được coi là xấu khi chúng chệch ra khỏi những nguyên tắc đạo đức.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567