Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kinh Nền Tảng Đạo Đức Xã hội

04/04/201318:57(Xem: 5034)
Kinh Nền Tảng Đạo Đức Xã hội

KINH TỤNG HẰNG NGÀY

TỔNG HỢP 49 KINH CĂN BẢN CỦA HAI TRUYỀN THỐNG PHẬT GIÁO NAM TÔNG VÀ BẮC TÔNG

Tỳ-kheo Thích Nhật Từ
biên soạn

---o0o---

KINH NỀN TẢNG ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI

Thứ mười một

Chính tôi nghe chuyện như vầy:

Một thời Đức Phật đủ đầy người theo.

Hai trăm năm chục Tỳ-kheo,

Ở Kỳ-xà-quật thành La-duyệt-kỳ.

Trước giờ thọ thực thường thì,

Thế Tôn mang bát, khoác y vào thành.

Khi Ngài đi đến vườn cây,

Thấy con trưởng giả là chàng Thiện Sanh.

Hàng ngày mỗi sáng ra vườn,

Đê đầu đảnh lễ sáu phương chí thành.

Hướng về Nam Bắc Đông Tây,

Hướng về Trên Dưới chắp tay lễ thần.O

***

Bấy giờ Đức Phật Thế Tôn,

Thấy người lễ lạy sáu phương chân thành.

Ngài liền thăm hỏi Thiện Sanh:

Vì sao mới sáng một mình ra đây,

Vì sao ra giữa vườn này,

Vì sao tắm rửa hình hài mới xong,

Tỏ niềm cung kính một lòng,

Đã liền đảnh lễ khắp cùng sáu phương?

Thiện Sanh trước Phật tỏ tường,

Lúc cha con chết, người luôn dạy rằng:

Nếu con muốn đáp thâm ân,

Phải thường mỗi sáng lễ thần sáu phương.O

*

Thế Tôn giảng giải pháp lành,

Cho người nhân nghĩa tín thành hiếu trung.

Nhân vì cách lễ sáu phương

Phật nói diệu nghĩa tỏ tường thâm sâu.

Thiện Sanh lạy Phật mong cầu,

Xin Ngài chỉ dạy trước sau ghi lòng.

Cho con hiểu rõ cội nguồn,

Cho trí con sáng tâm buông mê lầm.

*

Phật liền ban dạy lời rằng:

Lắng nghe ! Con hãy ân cần lắng nghe !

Nghe rồi suy xét, hành trì,

Chuyên cần chánh niệm luôn khi khôngdừng. O

I.

1. Thực hành mười bốn pháp thường,

Để mà che chở sáu phương an lành.

Gọi là khéo sống, khéo hành,

Không cho bốn nghiệp phát sanh não phiền.

Tiêu trừ bốn nghiệp trước tiên,

Dối gian, trộm cướp, sát sinh, dâm loàn.

Bốn nhân sinh nghiệp hung tàn,

Tham lam, sân hận, kinh hoàng, ngu si.

Sáu nhân xui khiến tài suy:

“Rong chơi lêu lỏng; rượu chè buông lung,

La cà đàn hát tiệc tùng;

Đam mê cờ bạc; rối tung cửa nhà;

Giao du bè bạn xấu xa;

Trây lười biếng nhác, sanh ra đủ điều.”O

*

2. Sáu nhân phá sản hại nhiều,

Mỗi nhân còn có sáu điều hiểm nguy.

2.1 Sáu điều hại của rượuchè,

Tiềm tàng trong cái đam mê rượu nồng:

Làm cho tốn của hao tài;

Dễ sinh gây gỗ; người ngoài miệt khinh;

Dễ dàng bệnh tật nảy sinh;

Tổn thương danh dự thật tình đâu hay;

Xấu danh mất nết thẹn thay;

Lại còn trí lực mỗi ngày một suy. O

*

2.2 Rong chơi lêu lỏng thường thì,

Tự mang sáu nghiệp hiểm nguy vô mình:

“Tựthân không thể giữ gìn;

Vợ con đâu dễ được mình chở che;

Bảo trì tài sản dễ gì;

Xảy ra việc ác, người nghi cho liền;

Nạn nhân: miệng tiếng huyên thuyên;

Tự mình chuốt lấy lụy phiền thương đau;

Du hành đường phố trái thời,

Sáu điều tai hại xin người tránh xa.” O

*

2.3 La cà tửu điếm phòng trà,

Tự mình chuốc lấy ác tà đấy thôi:

“Tâm bị đàn hát cuốn lôi,

Tâm bị điệu múa gọi mời đắm say.

Tâm mê tiếng chúc tụng hay,

Tâm theo tiếng nhạc quên ngày trôi qua.

Tâm mê tiếng ngọt lời ca.

Vui theo tay nhịp tâm xa pháp lành.”O

*

2.4 Đam mê cờ bạc đỏ đen,

Sáu điều nguy hại thường xuyên đó là:

“Thắng thì kẻ oán hận ta;

Thua thì cay cú thành ra muộn phiền;

Hiện thời suy sụp của tiền;

Những điều mình nói ai thèm tin đâu;

Hãy tránh loại bạn ấy mau;

Gần chuốc tai hoạ, xa nhau an bình.” O

*

2.5 Sáu điều nguy hại thường rình,

Giao du bạn ác mất mình dễ thay:

“Chỉ vì cờ bạc chuyền tay;

Chỉ vì đàn điếm tâm nay đổi màu;

Chỉ vì trục lợi tham tàn;

Chỉ vì lường gạt, mưu toan hại người.”O

*

2.6 Sáu điều tai hại cho người,

Cũng vì biếng nhác trây lười sinh ra:

“Lạnh không làm việc, nệ hà;

Nắng thì nực nội rồi ra không làm;

Trễ thì sợ việc không kham;

Sớm thì ngại khó không làm được đâu;

Đói thì thấy việc càu nhàu;

No thì tức bụng không sao mà chìu.”O

*

II.

1. Những người tham muốn đủ điều,

Những người làm ít nói nhiều, nịnh ta.

Những người hoang đãng tiêu pha,

Đó là bốn loại phải xa chớ gần.

*

1.1Loại người cho ít xin nhiều,

Vật gì cũng lấy, đặt điều mưu toan,

Loại người vì sợ mà làm

Bốn loại người ấy chớ ham đến gần.O

*

1.2 Loại người quỳ lụy thường là:

“Mọi điều mới cũ làm ra thân tình.

Khéo lời cốt lợi cho mình,

Khi mà đến việc lộ hình ra thôi.

Vô tài bất lực hỡi ôi !

Bấy giờ mới rõ lòngngười trắng đen.”O

*

1.3 Loại người nịnh hót sợ thay:

“Gặp điều bất chính vỗ tayđồng tình.

Loại người tâm thiện không sinh,

Khen mình trước mặt, đâm mình sau lưng.” O

*

1.4 Loại người hoang đãng khốn cùng,

Bốn điều vẫn khiến họa chung đó là:

“Bạn khi chè rượu la cà;

Bạn khi đình đám xa hoa tiệc tùng;

Bạn khi đàn hát buông lung;

Bạn khi cờ bạc chung cùng không xa.” O

*

2. Bạn nên gần gũi đó là:

“Bạn từng giúp đỡ cho ta rộng đường;

Bạn khi cùng cực tìm nương;

Bạn khi sung sướng cũng thường vui lây;

Bạn cùng vui sướng hôm nay;

Bạn khi đau khổ vơi đầy thương ta.” O

*

Bạn bè cần chỗ thật thà,

Suy cùng bốn hạng để mà kết thân:

“Một là chung thuỷ thật tâm;

Hai là nhân hậu quên thân chí tình;

Ba là lợi lạc hết mình;

Bốn là nhân ái tận tình với ta.” O

*

2.1 Bạn bè chung thuỷ đó là:

“Những điều thầm kín đưa ra tâm tình.

Giữ gìn bí mật bạn mình,

Không hề bỏ bạn mặc tình khó khăn.

Xả thân vì nghĩa kim bằng.”

Đó là bốn việc bạn hằng cho ta. O

*

2.2 Bạn bè nhân hậu thường là:

“Thấy bạn lêu lổng, thiết tha khuyên về.

Giữ dùm của cải chẳng nề,

Là nơi nương tựa những khi hãi hùng.

Nguy nan giúp đỡ đến cùng,

Đó là bạn hữu thực lòng giúp ta.” O

*

2.3 Bạn bè lợi lạc thường là:

“Cản ngăn việc ác khi ta thực hành.

Động viên khuyến khích làm lành,

Nói những việc lợi mà mình chưa nghe.

Chỉ đường sinh cõi trời kia.”

Đó là bốn việc thực thi bạn hiền. O

*

2.4 Bạn bè nhân ái thường quen:

“Thấy người hoạn nạn vực lên không cười.

Thấy người hạnh phúc thì vui,

Cản ngăn lời ác dắt lui bạn mình.

Ai ca ngợi bạn thực tình,

Lại càng khuyến khích đồng thanh thêmvào.”O

*

III

Sáu phương cần hiểu như sau:

Mẹ cha ơn nặng hàng đầu: Phương Đông.

Phương Nam thầy dạy mở lòng,

Phương Tây là hướng vợ chồng đấy thôi.

Bạn bè phương Bắc rõ rồi,

Người làm: phương Dưới dễ thời không thông.

Phương Trên là hướng Sa-môn,

Bà-la-môn cũng được tôn phương này.

Sáu phương yên ổn đủ đầy,

Tinh tấn hộ niệm chớ hay biếng lười. O

*

1. Năm điều con cái phải ghi:

“Dưỡng nuôi cha mẹ hộ trì phương Đông;

Mẹ cha cung phụng hết lòng;

Mọi điều gánh vác, đề phòng chuyện xa;

Giữ gìn truyền thống của nhà;

Đó mới thật xứng hưởng gia tài Người

Cúng dường hiếu thảo mẹ cha,

Lúc còn tại thế hay qua đời rồi.”O

*

2. Được con cư xử thế thời,

Năm điều cha mẹ khôn nguôi thực hành.

Những gì năm việc trọng khinh ?

“Ngăn con những việc dễ sinh ác tà.

Dạy con tâm thẳng, thật thà ,

Thương con chân thật, bao la bể trời.

Thương con vô tận ngàn khơi,

Gả chồng dựng vợ yên đời cho con.

Phương Đông sẽ được bình an,

Mọi điều an ổn vô vàn lo chi.”O

3. Năm điều đệ tử thường ghi,

“Phụng thờ thầy giáo hộ trì phương Nam.

Cung nghinh chào kính đàng hoàng,

Đi theo phụng sự đảm đang đúng thì.

Mọi điều lo liệu chẳng vì,

Chú tâm thâu đạt những khi học hành.O

*

4. Được trò tôn trọng thật tình,

Năm điều thầy giáo dặn mình nên theo:

“Dạy điều đã hiểu thật nhiều,

Bảo ban mọi thứ, thường theo hộ trì.

Dạy trò không dấu điều gì,

Ngợi khen những việc đáng thì ngợi khen.

Thầy cần dạy dỗ trò nên,

Trò thì nương bóng thầy trên đường đời.”

Phương Nam được chở che rồi,

Không còn kinh hoảng, hẳn thời sợ chi.O

*

5. Năm điều chồng phải khắc ghi,

Để mà đối đãi hộ trì phương Tây.

“Ngọt ngào yêu mến vợ hoài,

Không thường phiền nhiễu hay bày miệt khinh.

Đặt niềm tin tưởng chân thành,

Giao quyền cho vợ“tự mình nội gia”,

Sửa sang trang điểm vợ ta,

Những điều hợp lý thì ta nên chìu.”O

*

6. Được chồng đối xử tin yêu,

Vợ dùng năm cách noi theo tỏ lòng:

“Luôn luôn thành tín với chồng,

Hai bên thân quyến coi đồng như nhau.

Giữ gìn tài sản chồng giao,

Khéo làm tròn phận nâng cao gia đình.

Siêng năng tháo vát tận tình,

Thông minh thu vén gia đình yên vui.”

Phương Tây được chở che rồi,

Không còn kinh hoảng yên vui sợ gì.O

*

7. Họ hàng bè bạn tốt nhau,

Năm điều cư xử làm đầu nhớ ghi.

“Là giúp đỡ lúc hàn vi,

Đó là chỗ dựa những khi nguy nàn.

Đó là tôn trọng họ hàng,

Đó là sướng khổ kinh hoàng có nhau.

Đó là giữ của bạn giao,

Mọi điều chân thật chớ nào giấu chi.”O

*

8. Được người đối xử vậy thì,

Năm điều phải giữ hộ trì Bắc phương.

“Đó là chia sẻ vui buồn,

Đó là lời nói thân thương ngọt ngào.

Đó là lợi lạc cho nhau,

Đó là thành thật trước sau rõ ràng.” O

*

9. Năm điều chủ phải nên làm,

Hộ trì phương Dưới thương hàng công nhân.

“Việc thì tuỳ sức chia phân,

Công lao sòng phẳng, uống ăn đủ đầy.

Bệnh thời chạy chữa tìm thầy,

Tận tâm thương mến tiếp tay giúp người.

Mệt thì cho phép nghỉ ngơi.”

Đó là năm việc chủ thời khắc ghi. O

*

10. Đấy là trách nhiệm chủ nhân,

Còn người giúp việc cũng cần hành theo.

“Dậy thường trước chủ ít nhiều,

Ngủ thời sau chủ là điều dĩ nhiên.

Bằng lòng của cải hiện tiền,

Siêng năng khéo léo, thường xuyên chuyên cần.

Với bè bạn khách tương lân,

Thực tâm khen chủ, ân nhân của mình.”

Được vầy phương Dưới yên bình,

Còn gì phải sợ phải gìn giữ luôn.O

*

11. Thiện Sanh: Phải khắc tâm thường,

Năm điều luôn giữ cúng dường Sa-môn.

Hộ trì như vậy phương Trên,

“Hết lòng từ thiện thường xuyên tinh cần.

Có lòng từ thiện nói năng,

Có lòng từ thiện ý căn bảo tồn.

Có lòng tiếp đón Sa-môn,

Một lòng tha thiết chí tôn cúng dường.

Thiện nam, tín nữ hãy thường,

Trọn lòng cung kính cúng dường Sa-môn.”O

*

Bậc Sa-môn dạy năm điều,

Khuyên người lánh ác tạo nhiều phước duyên.

Pháp môn vi diệu vô biên

Tâm từ nhắc nhở dạy khuyên từng lời.

Dạy điều chưa biết để tường,

Dạy điều đã biết để thường trau tâm.

Giúp người hiểu pháp thậm thâm,

Chân tình giúp họ gieo mầm sanh thiên.”

Làm tròn năm pháp dạy khuyên

Phường Trên an ổn cửa thiền lạc bang.O

*

Thế Tôn giảng dạy vừa xong,

Ngài liền tóm tắt mấy dòng kệ sau:

Phương Đông: cha mẹ đứng đầu,

Phương Nam là hướng bấy lâu cho thầy.

Vợ chồng là chính phương Tây,

Bạn bè: phương Bắc xưa nay đấy mà.

Người làm: phương Dưới đâu xa,

Phương Trên đức cả chính là Sa-môn.O

Dù bậc trưởng giả sang giàu

Hay con trưởng giả tâm đâu khác gì,

Giáo pháp vi diệu cao nghì

Một lòng tôn kính đương khi ở đời.

Chết thì sanh được cõi trời,

Sống thì an tịnh làm người vui thay.

Những ai đức hạnh đủ đầy,

Lời thường hòa nhã, tỏ bày thanh tao.

Lợi người đừng nệ chút nào,

Cân phân lợi lộc làm sao cho đồng.

Của mình cho họ hưởng cùng,

Rõ ràng bốn việc này không dễ làm.

Như xe chở nặng khó kham,

Nếu không bốn việc lại càng khó hơn.

Những ai hiếu dưỡng song đường,

Pháp này trong cõi vô thường nhân gian.O

Khiến người có trí vui làm,

Được thì quả lớn, danh càng lan xa.

Cúng dường những bậc xuất gia,

Chỗ ngồi, tứ sự cùng là thức ăn.

Những gì thiết yếu cúng dâng,

Nhờ vào phước cúng, tiếng tăm lan truyền. O

Không vì tư lợi nhỏ nhen,

Thấy điều lợi lạc thì khuyên nên làm.

Dưới trên hoà thuận hợp bàn,

Ắt là danh dự lại càng tăng thêm.

Học nghề là việc trước tiên,

Rồi sau mới nghĩ thu thêm lợi vào.

Khi nào tiền của dồi dào,

Bảo trì cẩn thận trước sau giữ gìn.

Tiêu xài phung phí không nên,

Chọn người kết bạn trước tiên cũng cần.

Hạng người gây sự xảo tâm,

Thà rằng không bạn, chứ đừng giao du.

Của tiền tích lũy từ từ,

Như ong làm mật cần cù siêng năng.

Cũng như của báu góp dần,

Trước còn ít ỏi, lần lần có dư.

Một là ăn uống đủ thôi,

Hai là làm việc ở đời siêng năng.

Ba là tích trữ khi cần,

Dự phòng những lúc khó khăn khỏi buồn.

Bốn là buôn bán làm vườn,

Cấy cày chọn đất để thường tốt luôn.

Năm là xây dựng chùa chiền,

Sáu là nhà cửa cúng dường chư tăng.

Tại gia sáu việc ấy cần,

Thường xuyên chú ý thật tâm đúng thời.

Ai làm như vậy được rồi,

Cửa nhà vững chắc yên vui ai bằng.O

*

Thiện Sanh lúc ấy thưa rằng:

Điều này quá chỗ còn hằng mong đây.

Pháp Thế Tôn vi diệu thay,

Nhờ Ngài giảng giải lời này cho con.

Xưa con úp mặt chưa khôn,

Nay con ngước mặt đã trông thấy rồi.

Như điều đậy kín bao đời,

Bây giờ đã rõ nhờ Ngài mở ra.

Như mê vừa tỉnh vậy mà,

Như trong nhà tối người ta lên đèn.

Để người có mắt được nhìn,

Rõ ràng những thứ đắm chìm xung quanh. O

*

Thế Tôn thuyết pháp tài tình,

Ngài dùng phương tiện tùy duyên diễn bày.

Thế Tôn thuyết pháp kỳ tài

Ngài dùng phương tiện để khai ngộ người.

Phàm phu ngu muội rối bời,

Được nghe thời pháp sáng soi tâm hồn.

Vì sao ai đã biết không ?

Bởi vì Phật vốn tương đồng Thế Tôn.

Vốn là chánh đẳng xưa nay,

Vốn là chánh giác thường khai mở đường.

Để người ngu muội náu nương,

Như là nương ánh thái dương rạng ngời.O

***

Con xin kính cẩn vâng lời,

Nương Phật, nương Pháp đồng thời nươngTăng.

Xin Ngài thương kiếp nhiễu nhương,

Cho con xin được về nương pháp lành.

Trọn đời tự nguyện lòng mình,

Các điều trộm cắp, sát sinh không gần.

Xa lìa gian dối, tà dâm,

Một lòng thanh tịnh, tinh cần siêng năng.

Nghe lời Phật dạy ân cần,

Thiện Sanh hoan hỉ thành tâm phụng hành. O

Nam-mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật.(3 lần, xá 3 xá) OOO


--- o0o ---
Chân thành cảm ơn Thầy Nhật Từ đã gởi tặng bản Kinh điện tử này
( Quang Duc Website 04/2002)
--- o0o ---
Trình bày : Nguyên Hân- Nguyên Phúc

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2023(Xem: 6185)
Ngưỡng bạch Chư Tôn Thiền Đức, thân mẫu chúng con khi sinh tiền dốc lòng vun trồng cội phúc, gieo nhân chí thiện cần mẫn cực nhọc lo lắng cho chúng con. Nhớ lại những khi răn bảo dặn dò, những lúc nhọc nhằn nuôi dưỡng. Nhưng hởi ôi ! Ân sâu chưa trả, nghĩa nặng chưa đền mà ngày nay người đã vĩnh viễn ra đi để lại muôn vàn nhớ thương cho con cháu. Thật: Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng, Con muốn phụng dưỡng mà Cha Mẹ đã khuất bóng.
14/09/2023(Xem: 1347)
1) Nhẹ nhàng ra đi an lành trong tiếng Niệm 'Nam Mô A Di Đà Phật" của người thân trong gia đình 2) Thành tựu hạnh hiếu thảo cho tất cả người con dâu rể và các cháu qua việc tận tụy chữa bệnh, đặc biệt chăm sóc Ba Mười của Bé Thảo (Tâm Tịnh gọi bằng Cậu Mười_nằm liệt giường) trong khoảng thời gian 11 tháng (kể cả 2-3 tháng nằm tại Khoa Hồi Sức Tích Cực Chống Độc Bệnh Viện Đà Nẵng). Các con (kể cả dâu và rể) thường xuyên thay phiên túc trực chăm sóc Ba hàng đêm, ngày, đặc biệt là con dâu Thủy và con gái út Thảo bằng cả tấm lòng hiếu thảo của mình.
03/05/2023(Xem: 128042)
Chết và tái sinh. Thích Nguyên Tạng (sách, tái bản 2007) Phật giáo khắp thế giới . Thích Nguyên Tạng (sách) Pháp Sư Tịnh Không, người truyền bá giáo lý Tịnh Độ (sách) Từ bi và nhân cách . Dalai Lama. Thích Nguyên Tạng dịch (sách) Pháp ngữ của Hòa Thượng Tịnh Không . T. Ng. Tạng dịch (sách) Hỏi hay đáp đúng . Ven. Dhammika. Thích Nguyên Tạng dịch (sách) Các Bộ Phái Phật Giáo ở Ấn Độ. Dr.Nalinaksha Dutt.T Ng. Tạng dịch (sách)
29/04/2023(Xem: 2443)
Những ngày sau tết âm lịch, nhất là càng gần đến Đại Lễ Phật Đản, tôi càng đau đáu tâm huyết lan toả Chánh Pháp, muốn Pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nằm sẵn trong Kinh Phật gốc Nikaya lan toả đến muôn nơi, đến thật nhiều những người con của Phật, không chỉ quý vị xuất sĩ mà cả các cư sĩ tại gia. Và cứ thế tôi tìm cách tặng Kinh Nikaya, tạo duyên để Nikaya đến nhiều nhất những người thân và học trò thật sự muốn tu tập theo Chánh Pháp, hết sức có thể.
11/09/2022(Xem: 2218)
Sáng 10-9 (15-8-Nhâm Dần), chư tôn đức Tăng Ni cùng đông đảo Phật tử đã vân tập tại Chánh điện chùa Long Sơn để dự lễ Huý Nhật lần thứ 9 (2013-2022) đức Trưởng lão Hoà thượng Thích Chí Tín, trụ trì chùa Long Sơn và hiệp kỵ chư tôn Hoà thượng giáo phẩm, lãnh đạo GHPGVN Tỉnh Khánh Hoà qua các thời kỳ. Tham dự buổi lễ Hiệp kỵ có sự hiện diện của HT. Thích Quảng Thiện – thành viên Hội đồng Chứng minh Trung ương Giáo Hội, Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN Tỉnh Khánh Hoà; HT. Thích Minh Thông - Uỷ viên Hội đồng Trị sự, Trưởng Ban Trị sự GHPGVN Tỉnh Khánh Hoà, cùng chư tôn Hoà thượng, Thượng toạ, Đại đức Tăng Ni các tự viện gần xa. Trước đó, vào tối ngày 09 tháng 9 (14-8- Nhâm Dần) chư Tôn đức Bổn tự và quý Phật tử đã tụng kinh Di giáo trước ban thờ di ảnh quý Ngài.
15/08/2022(Xem: 3581)
Đại đức Tăng xin lắng nghe, tôi Tỳ Kheo .. xin vì Tăng xướng lên các tiêu tướng bốn phương của Tiểu Giới (tức là Giới Trường) từ gốc đông-nam của trú xứ này, lấy (nói lên vật dùng làm Tiêu Tướng) làm nêu. Từ đông-nam đây về hướng tây (nói đến đây, Tỳ Kheo xướng tướng đi đến góc tây-nam thì dừng lại, đứng yên, hướng về phía chúng tăng, bạch tiếp) đến góc tây-nam, lấy .. làm nêu. Từ tây-nam đây về hướng bắc (nói đến đây, Tỳ Kheo xướng tướng đi đến góc tây-bắc thì dừng lại, đứng yên, hướng về phía chúng Tăng bạch tiếp) đến góc tây-bắc, lấy .. làm nêu. Từ tây-bắc đây về hướng đông (nói đến đây, Tỳ Kheo xướng tướng đi đến góc đông-bắc thì dừng lại, đứng yên, hướng về phía chúng Tăng bạch tiếp) đến góc đông-bắc, lấy .. làm nêu. Từ đông-bắc đây về hướng nam (nói đến đây, Tỳ Kheo xướng tướng đi đến góc đông-nam thì dừng lại, đứng yên, hướng về phía chúng Tăng bạch tiếp) trở lại góc đông-nam, lấy . Làm nêu. Đây là xướng xong một vòng gồm các tiêu tướng ngoài
14/08/2022(Xem: 4785)
Người đạo đức tình thương Trăng thanh nước bích Kiều môn cùng dòng họ Thích Ni chúng đồng phái nhà thiền Nghìn nhà một bát hóa duyên Muôn dặm cô thân ứng cúng
16/07/2022(Xem: 10674)
Bồ đề nhất bá bát Diệt tội đẳng hà sa Viễn ly tam đồ khổ Xích sắc biến liên hoa Nam Mô A Di Đà Phật.
06/02/2022(Xem: 12221)
Quang Lưu xứ xứ u minh thất, Ảnh hóa phân thân tọa đạo tràng, Nguyện độ hương linh qui bổn quốc. Cửu liên đài trực vãng Tây Phương. Nam mô Tiến Linh Diên (Vãng Sanh) Bồ Tát Dịch nghĩa: Nơi nơi ngục tối hiện hào quang Ảnh hoá phân thân ngồi đạo tràng Nguyện độ hương linh về bổn quốc Đài sen chín phẩm thẳng Tây phương Nam Mô Tiến Linh Diên ( Vãng Sanh) Bồ Tát
09/01/2022(Xem: 5135)
Chúng con cung kính nghe rằng: Núi Tuyết tu nhơn, Khổ hạnh sáu năm quả mãn; Sao Mai ứng dạng, Hân hoan muôn đức công thành! Một Phật giáng sanh, Muôn loài hưởng phước! Nay có Tăng chúng, Và chư Phật tử chúng con.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567