Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kinh Nền Tảng Đạo Đức Xã hội

04/04/201318:57(Xem: 5396)
Kinh Nền Tảng Đạo Đức Xã hội

KINH TỤNG HẰNG NGÀY

TỔNG HỢP 49 KINH CĂN BẢN CỦA HAI TRUYỀN THỐNG PHẬT GIÁO NAM TÔNG VÀ BẮC TÔNG

Tỳ-kheo Thích Nhật Từ
biên soạn

---o0o---

KINH NỀN TẢNG ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI

Thứ mười một

Chính tôi nghe chuyện như vầy:

Một thời Đức Phật đủ đầy người theo.

Hai trăm năm chục Tỳ-kheo,

Ở Kỳ-xà-quật thành La-duyệt-kỳ.

Trước giờ thọ thực thường thì,

Thế Tôn mang bát, khoác y vào thành.

Khi Ngài đi đến vườn cây,

Thấy con trưởng giả là chàng Thiện Sanh.

Hàng ngày mỗi sáng ra vườn,

Đê đầu đảnh lễ sáu phương chí thành.

Hướng về Nam Bắc Đông Tây,

Hướng về Trên Dưới chắp tay lễ thần.O

***

Bấy giờ Đức Phật Thế Tôn,

Thấy người lễ lạy sáu phương chân thành.

Ngài liền thăm hỏi Thiện Sanh:

Vì sao mới sáng một mình ra đây,

Vì sao ra giữa vườn này,

Vì sao tắm rửa hình hài mới xong,

Tỏ niềm cung kính một lòng,

Đã liền đảnh lễ khắp cùng sáu phương?

Thiện Sanh trước Phật tỏ tường,

Lúc cha con chết, người luôn dạy rằng:

Nếu con muốn đáp thâm ân,

Phải thường mỗi sáng lễ thần sáu phương.O

*

Thế Tôn giảng giải pháp lành,

Cho người nhân nghĩa tín thành hiếu trung.

Nhân vì cách lễ sáu phương

Phật nói diệu nghĩa tỏ tường thâm sâu.

Thiện Sanh lạy Phật mong cầu,

Xin Ngài chỉ dạy trước sau ghi lòng.

Cho con hiểu rõ cội nguồn,

Cho trí con sáng tâm buông mê lầm.

*

Phật liền ban dạy lời rằng:

Lắng nghe ! Con hãy ân cần lắng nghe !

Nghe rồi suy xét, hành trì,

Chuyên cần chánh niệm luôn khi khôngdừng. O

I.

1. Thực hành mười bốn pháp thường,

Để mà che chở sáu phương an lành.

Gọi là khéo sống, khéo hành,

Không cho bốn nghiệp phát sanh não phiền.

Tiêu trừ bốn nghiệp trước tiên,

Dối gian, trộm cướp, sát sinh, dâm loàn.

Bốn nhân sinh nghiệp hung tàn,

Tham lam, sân hận, kinh hoàng, ngu si.

Sáu nhân xui khiến tài suy:

“Rong chơi lêu lỏng; rượu chè buông lung,

La cà đàn hát tiệc tùng;

Đam mê cờ bạc; rối tung cửa nhà;

Giao du bè bạn xấu xa;

Trây lười biếng nhác, sanh ra đủ điều.”O

*

2. Sáu nhân phá sản hại nhiều,

Mỗi nhân còn có sáu điều hiểm nguy.

2.1 Sáu điều hại của rượuchè,

Tiềm tàng trong cái đam mê rượu nồng:

Làm cho tốn của hao tài;

Dễ sinh gây gỗ; người ngoài miệt khinh;

Dễ dàng bệnh tật nảy sinh;

Tổn thương danh dự thật tình đâu hay;

Xấu danh mất nết thẹn thay;

Lại còn trí lực mỗi ngày một suy. O

*

2.2 Rong chơi lêu lỏng thường thì,

Tự mang sáu nghiệp hiểm nguy vô mình:

“Tựthân không thể giữ gìn;

Vợ con đâu dễ được mình chở che;

Bảo trì tài sản dễ gì;

Xảy ra việc ác, người nghi cho liền;

Nạn nhân: miệng tiếng huyên thuyên;

Tự mình chuốt lấy lụy phiền thương đau;

Du hành đường phố trái thời,

Sáu điều tai hại xin người tránh xa.” O

*

2.3 La cà tửu điếm phòng trà,

Tự mình chuốc lấy ác tà đấy thôi:

“Tâm bị đàn hát cuốn lôi,

Tâm bị điệu múa gọi mời đắm say.

Tâm mê tiếng chúc tụng hay,

Tâm theo tiếng nhạc quên ngày trôi qua.

Tâm mê tiếng ngọt lời ca.

Vui theo tay nhịp tâm xa pháp lành.”O

*

2.4 Đam mê cờ bạc đỏ đen,

Sáu điều nguy hại thường xuyên đó là:

“Thắng thì kẻ oán hận ta;

Thua thì cay cú thành ra muộn phiền;

Hiện thời suy sụp của tiền;

Những điều mình nói ai thèm tin đâu;

Hãy tránh loại bạn ấy mau;

Gần chuốc tai hoạ, xa nhau an bình.” O

*

2.5 Sáu điều nguy hại thường rình,

Giao du bạn ác mất mình dễ thay:

“Chỉ vì cờ bạc chuyền tay;

Chỉ vì đàn điếm tâm nay đổi màu;

Chỉ vì trục lợi tham tàn;

Chỉ vì lường gạt, mưu toan hại người.”O

*

2.6 Sáu điều tai hại cho người,

Cũng vì biếng nhác trây lười sinh ra:

“Lạnh không làm việc, nệ hà;

Nắng thì nực nội rồi ra không làm;

Trễ thì sợ việc không kham;

Sớm thì ngại khó không làm được đâu;

Đói thì thấy việc càu nhàu;

No thì tức bụng không sao mà chìu.”O

*

II.

1. Những người tham muốn đủ điều,

Những người làm ít nói nhiều, nịnh ta.

Những người hoang đãng tiêu pha,

Đó là bốn loại phải xa chớ gần.

*

1.1Loại người cho ít xin nhiều,

Vật gì cũng lấy, đặt điều mưu toan,

Loại người vì sợ mà làm

Bốn loại người ấy chớ ham đến gần.O

*

1.2 Loại người quỳ lụy thường là:

“Mọi điều mới cũ làm ra thân tình.

Khéo lời cốt lợi cho mình,

Khi mà đến việc lộ hình ra thôi.

Vô tài bất lực hỡi ôi !

Bấy giờ mới rõ lòngngười trắng đen.”O

*

1.3 Loại người nịnh hót sợ thay:

“Gặp điều bất chính vỗ tayđồng tình.

Loại người tâm thiện không sinh,

Khen mình trước mặt, đâm mình sau lưng.” O

*

1.4 Loại người hoang đãng khốn cùng,

Bốn điều vẫn khiến họa chung đó là:

“Bạn khi chè rượu la cà;

Bạn khi đình đám xa hoa tiệc tùng;

Bạn khi đàn hát buông lung;

Bạn khi cờ bạc chung cùng không xa.” O

*

2. Bạn nên gần gũi đó là:

“Bạn từng giúp đỡ cho ta rộng đường;

Bạn khi cùng cực tìm nương;

Bạn khi sung sướng cũng thường vui lây;

Bạn cùng vui sướng hôm nay;

Bạn khi đau khổ vơi đầy thương ta.” O

*

Bạn bè cần chỗ thật thà,

Suy cùng bốn hạng để mà kết thân:

“Một là chung thuỷ thật tâm;

Hai là nhân hậu quên thân chí tình;

Ba là lợi lạc hết mình;

Bốn là nhân ái tận tình với ta.” O

*

2.1 Bạn bè chung thuỷ đó là:

“Những điều thầm kín đưa ra tâm tình.

Giữ gìn bí mật bạn mình,

Không hề bỏ bạn mặc tình khó khăn.

Xả thân vì nghĩa kim bằng.”

Đó là bốn việc bạn hằng cho ta. O

*

2.2 Bạn bè nhân hậu thường là:

“Thấy bạn lêu lổng, thiết tha khuyên về.

Giữ dùm của cải chẳng nề,

Là nơi nương tựa những khi hãi hùng.

Nguy nan giúp đỡ đến cùng,

Đó là bạn hữu thực lòng giúp ta.” O

*

2.3 Bạn bè lợi lạc thường là:

“Cản ngăn việc ác khi ta thực hành.

Động viên khuyến khích làm lành,

Nói những việc lợi mà mình chưa nghe.

Chỉ đường sinh cõi trời kia.”

Đó là bốn việc thực thi bạn hiền. O

*

2.4 Bạn bè nhân ái thường quen:

“Thấy người hoạn nạn vực lên không cười.

Thấy người hạnh phúc thì vui,

Cản ngăn lời ác dắt lui bạn mình.

Ai ca ngợi bạn thực tình,

Lại càng khuyến khích đồng thanh thêmvào.”O

*

III

Sáu phương cần hiểu như sau:

Mẹ cha ơn nặng hàng đầu: Phương Đông.

Phương Nam thầy dạy mở lòng,

Phương Tây là hướng vợ chồng đấy thôi.

Bạn bè phương Bắc rõ rồi,

Người làm: phương Dưới dễ thời không thông.

Phương Trên là hướng Sa-môn,

Bà-la-môn cũng được tôn phương này.

Sáu phương yên ổn đủ đầy,

Tinh tấn hộ niệm chớ hay biếng lười. O

*

1. Năm điều con cái phải ghi:

“Dưỡng nuôi cha mẹ hộ trì phương Đông;

Mẹ cha cung phụng hết lòng;

Mọi điều gánh vác, đề phòng chuyện xa;

Giữ gìn truyền thống của nhà;

Đó mới thật xứng hưởng gia tài Người

Cúng dường hiếu thảo mẹ cha,

Lúc còn tại thế hay qua đời rồi.”O

*

2. Được con cư xử thế thời,

Năm điều cha mẹ khôn nguôi thực hành.

Những gì năm việc trọng khinh ?

“Ngăn con những việc dễ sinh ác tà.

Dạy con tâm thẳng, thật thà ,

Thương con chân thật, bao la bể trời.

Thương con vô tận ngàn khơi,

Gả chồng dựng vợ yên đời cho con.

Phương Đông sẽ được bình an,

Mọi điều an ổn vô vàn lo chi.”O

3. Năm điều đệ tử thường ghi,

“Phụng thờ thầy giáo hộ trì phương Nam.

Cung nghinh chào kính đàng hoàng,

Đi theo phụng sự đảm đang đúng thì.

Mọi điều lo liệu chẳng vì,

Chú tâm thâu đạt những khi học hành.O

*

4. Được trò tôn trọng thật tình,

Năm điều thầy giáo dặn mình nên theo:

“Dạy điều đã hiểu thật nhiều,

Bảo ban mọi thứ, thường theo hộ trì.

Dạy trò không dấu điều gì,

Ngợi khen những việc đáng thì ngợi khen.

Thầy cần dạy dỗ trò nên,

Trò thì nương bóng thầy trên đường đời.”

Phương Nam được chở che rồi,

Không còn kinh hoảng, hẳn thời sợ chi.O

*

5. Năm điều chồng phải khắc ghi,

Để mà đối đãi hộ trì phương Tây.

“Ngọt ngào yêu mến vợ hoài,

Không thường phiền nhiễu hay bày miệt khinh.

Đặt niềm tin tưởng chân thành,

Giao quyền cho vợ“tự mình nội gia”,

Sửa sang trang điểm vợ ta,

Những điều hợp lý thì ta nên chìu.”O

*

6. Được chồng đối xử tin yêu,

Vợ dùng năm cách noi theo tỏ lòng:

“Luôn luôn thành tín với chồng,

Hai bên thân quyến coi đồng như nhau.

Giữ gìn tài sản chồng giao,

Khéo làm tròn phận nâng cao gia đình.

Siêng năng tháo vát tận tình,

Thông minh thu vén gia đình yên vui.”

Phương Tây được chở che rồi,

Không còn kinh hoảng yên vui sợ gì.O

*

7. Họ hàng bè bạn tốt nhau,

Năm điều cư xử làm đầu nhớ ghi.

“Là giúp đỡ lúc hàn vi,

Đó là chỗ dựa những khi nguy nàn.

Đó là tôn trọng họ hàng,

Đó là sướng khổ kinh hoàng có nhau.

Đó là giữ của bạn giao,

Mọi điều chân thật chớ nào giấu chi.”O

*

8. Được người đối xử vậy thì,

Năm điều phải giữ hộ trì Bắc phương.

“Đó là chia sẻ vui buồn,

Đó là lời nói thân thương ngọt ngào.

Đó là lợi lạc cho nhau,

Đó là thành thật trước sau rõ ràng.” O

*

9. Năm điều chủ phải nên làm,

Hộ trì phương Dưới thương hàng công nhân.

“Việc thì tuỳ sức chia phân,

Công lao sòng phẳng, uống ăn đủ đầy.

Bệnh thời chạy chữa tìm thầy,

Tận tâm thương mến tiếp tay giúp người.

Mệt thì cho phép nghỉ ngơi.”

Đó là năm việc chủ thời khắc ghi. O

*

10. Đấy là trách nhiệm chủ nhân,

Còn người giúp việc cũng cần hành theo.

“Dậy thường trước chủ ít nhiều,

Ngủ thời sau chủ là điều dĩ nhiên.

Bằng lòng của cải hiện tiền,

Siêng năng khéo léo, thường xuyên chuyên cần.

Với bè bạn khách tương lân,

Thực tâm khen chủ, ân nhân của mình.”

Được vầy phương Dưới yên bình,

Còn gì phải sợ phải gìn giữ luôn.O

*

11. Thiện Sanh: Phải khắc tâm thường,

Năm điều luôn giữ cúng dường Sa-môn.

Hộ trì như vậy phương Trên,

“Hết lòng từ thiện thường xuyên tinh cần.

Có lòng từ thiện nói năng,

Có lòng từ thiện ý căn bảo tồn.

Có lòng tiếp đón Sa-môn,

Một lòng tha thiết chí tôn cúng dường.

Thiện nam, tín nữ hãy thường,

Trọn lòng cung kính cúng dường Sa-môn.”O

*

Bậc Sa-môn dạy năm điều,

Khuyên người lánh ác tạo nhiều phước duyên.

Pháp môn vi diệu vô biên

Tâm từ nhắc nhở dạy khuyên từng lời.

Dạy điều chưa biết để tường,

Dạy điều đã biết để thường trau tâm.

Giúp người hiểu pháp thậm thâm,

Chân tình giúp họ gieo mầm sanh thiên.”

Làm tròn năm pháp dạy khuyên

Phường Trên an ổn cửa thiền lạc bang.O

*

Thế Tôn giảng dạy vừa xong,

Ngài liền tóm tắt mấy dòng kệ sau:

Phương Đông: cha mẹ đứng đầu,

Phương Nam là hướng bấy lâu cho thầy.

Vợ chồng là chính phương Tây,

Bạn bè: phương Bắc xưa nay đấy mà.

Người làm: phương Dưới đâu xa,

Phương Trên đức cả chính là Sa-môn.O

Dù bậc trưởng giả sang giàu

Hay con trưởng giả tâm đâu khác gì,

Giáo pháp vi diệu cao nghì

Một lòng tôn kính đương khi ở đời.

Chết thì sanh được cõi trời,

Sống thì an tịnh làm người vui thay.

Những ai đức hạnh đủ đầy,

Lời thường hòa nhã, tỏ bày thanh tao.

Lợi người đừng nệ chút nào,

Cân phân lợi lộc làm sao cho đồng.

Của mình cho họ hưởng cùng,

Rõ ràng bốn việc này không dễ làm.

Như xe chở nặng khó kham,

Nếu không bốn việc lại càng khó hơn.

Những ai hiếu dưỡng song đường,

Pháp này trong cõi vô thường nhân gian.O

Khiến người có trí vui làm,

Được thì quả lớn, danh càng lan xa.

Cúng dường những bậc xuất gia,

Chỗ ngồi, tứ sự cùng là thức ăn.

Những gì thiết yếu cúng dâng,

Nhờ vào phước cúng, tiếng tăm lan truyền. O

Không vì tư lợi nhỏ nhen,

Thấy điều lợi lạc thì khuyên nên làm.

Dưới trên hoà thuận hợp bàn,

Ắt là danh dự lại càng tăng thêm.

Học nghề là việc trước tiên,

Rồi sau mới nghĩ thu thêm lợi vào.

Khi nào tiền của dồi dào,

Bảo trì cẩn thận trước sau giữ gìn.

Tiêu xài phung phí không nên,

Chọn người kết bạn trước tiên cũng cần.

Hạng người gây sự xảo tâm,

Thà rằng không bạn, chứ đừng giao du.

Của tiền tích lũy từ từ,

Như ong làm mật cần cù siêng năng.

Cũng như của báu góp dần,

Trước còn ít ỏi, lần lần có dư.

Một là ăn uống đủ thôi,

Hai là làm việc ở đời siêng năng.

Ba là tích trữ khi cần,

Dự phòng những lúc khó khăn khỏi buồn.

Bốn là buôn bán làm vườn,

Cấy cày chọn đất để thường tốt luôn.

Năm là xây dựng chùa chiền,

Sáu là nhà cửa cúng dường chư tăng.

Tại gia sáu việc ấy cần,

Thường xuyên chú ý thật tâm đúng thời.

Ai làm như vậy được rồi,

Cửa nhà vững chắc yên vui ai bằng.O

*

Thiện Sanh lúc ấy thưa rằng:

Điều này quá chỗ còn hằng mong đây.

Pháp Thế Tôn vi diệu thay,

Nhờ Ngài giảng giải lời này cho con.

Xưa con úp mặt chưa khôn,

Nay con ngước mặt đã trông thấy rồi.

Như điều đậy kín bao đời,

Bây giờ đã rõ nhờ Ngài mở ra.

Như mê vừa tỉnh vậy mà,

Như trong nhà tối người ta lên đèn.

Để người có mắt được nhìn,

Rõ ràng những thứ đắm chìm xung quanh. O

*

Thế Tôn thuyết pháp tài tình,

Ngài dùng phương tiện tùy duyên diễn bày.

Thế Tôn thuyết pháp kỳ tài

Ngài dùng phương tiện để khai ngộ người.

Phàm phu ngu muội rối bời,

Được nghe thời pháp sáng soi tâm hồn.

Vì sao ai đã biết không ?

Bởi vì Phật vốn tương đồng Thế Tôn.

Vốn là chánh đẳng xưa nay,

Vốn là chánh giác thường khai mở đường.

Để người ngu muội náu nương,

Như là nương ánh thái dương rạng ngời.O

***

Con xin kính cẩn vâng lời,

Nương Phật, nương Pháp đồng thời nươngTăng.

Xin Ngài thương kiếp nhiễu nhương,

Cho con xin được về nương pháp lành.

Trọn đời tự nguyện lòng mình,

Các điều trộm cắp, sát sinh không gần.

Xa lìa gian dối, tà dâm,

Một lòng thanh tịnh, tinh cần siêng năng.

Nghe lời Phật dạy ân cần,

Thiện Sanh hoan hỉ thành tâm phụng hành. O

Nam-mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật.(3 lần, xá 3 xá) OOO


--- o0o ---
Chân thành cảm ơn Thầy Nhật Từ đã gởi tặng bản Kinh điện tử này
( Quang Duc Website 04/2002)
--- o0o ---
Trình bày : Nguyên Hân- Nguyên Phúc

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/06/2014(Xem: 7428)
Thời xưa, khi mới bắt đầu tu tập, tôi rất muốn tụng kinh và đi hỏi xem nên tụng cuốn nào. Được khuyên bảo và tôi mua cuốn “Chư kinh nhật tụng”. Thầy chùa bảo, cứ tụng đi, tụng hàng ngày.
07/06/2014(Xem: 6687)
Trong hai ngày 08, 09-5-Giáp Ngọ (tức 04 và 05.6.2014), TT.Thích Thiện Thông, trụ trì chùa Sắc tứ Minh Thiện, xã Diên Lạc (Diên Khánh); Đại đức Thích Như Chuẩn, trụ trì chùa Phước Duyên, xã Diên Phước (Diên Khánh) đã thành kính tổ chức lễ tưởng niệm húy nhật lần thứ 6 HT Thích Huệ Đăng, tổ Khai sơn chùa Phước Duyên, phương trượng chùa Sắc tứ Minh Thiện, nguyên Ủy viên Ban Hoằng Pháp Trung Ương Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam.
06/06/2014(Xem: 6364)
Ngày 07-5-Giáp Ngọ (tức 02 đến 05.6.2014), TT.Thích Quảng Tâm, UV Ban Nghi lễ GHPGVN tỉnh Khánh Hòa, trụ trì chùa Thanh Hải (xã Cam Thịnh Đông, TP.Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa) đã thành kính trang nghiêm tổ chức lễ tưởng niệm húy nhật lần thứ 44 tổ Khai sơn chùa Thanh Hải HT.Thích Nhơn Hưng. Chứng minh và tham dự có Đại lão HT.Thích Đồng Giải nguyên Trưởng Ban Trị sự GHPGVN huyện Củng Sơn, Chứng minh BTS GHPGVN huyện Sông Cầu, trụ trì chùa Linh Đài - Hòa Đa (Phú Yên) chư tôn đức Tăng và môn đồ pháp quyến, cùng thân quyến Tổ Khai sơn, Phật tử chùa Thanh Hải, đạo tràng chùa Linh Sơn Pháp Ấn, chùa Linh Thứu, chùa Linh Quang (TP.Nha Trang).
10/05/2014(Xem: 15327)
Tập sách Phù Tang Ký Sự do Đại Đức Thích Phước Thái biên soạn, ghi lại cuộc hành trình trong chuyến đi Nhật Bản lần đầu tiên của tác giả và của đoàn. Tổng số người đi là 25 người đa số là những liên hữu trong đạo tràng Quang Minh. Mục đích của chuyến đi nầy, nhằm thực hiện cầu an, cầu siêu cho các nạn nhân thiên tai sóng thần đã xảy ra vào ngày 11 tháng 3 năm 2011, tại tỉnh Miyagi thành phố Sendai thuộc miền Đông Bắc Nhật Bản. Ai cũng biết đó là trận thiên tai sóng thần ác liệt đã gây ra thiệt hại nặng nề về tài sản và sinh mạng. Có hơn 15.000 người chết và trên 3.000 người bị mất tích. Đồng thời, đoàn cũng cỏn đến thăm viếng thuyết giảng và ủy lạo cho 24 gia đình nghèo tại chung cư Hiệp Hội Từ Thiện. Ngoài ra, đoàn còn đi tham quan chiêm bái những danh lam thắng cảnh ở một vài nơi khác. Tất cả đã được tác giả ghi lại từng ngày, từng nơi, mà đoàn đã đi qua và thực hiện. Ngoài việc ghi chép theo lịch trình thời gian ra, tác giả còn cho chúng ta biết qua một vài vấn đề có liên quan đến đ
05/04/2014(Xem: 14097)
Khi biên soạn tập tài liệu nhỏ nầy, mục đích chính của chúng tôi là nhằm giúp thêm tài liệu cho quý tăng ni học chúng tại Tổ Đình Phước Huệ. Từ trước tới nay trong mỗi mùa an cư tại Tổ Đình, quý tăng ni học chúng đều có học qua các môn: Kinh, Luật và Luận. Ngoài ra, họ còn phải học thêm các bộ môn khác như: lịch sử, nghi lễ, hành chánh v.v... đặc biệt nhất là phần nghệ thuật diễn giảng. Riêng trong mùa an cư của năm 2007, Hòa thượng Tông Trưởng có sai bảo chúng tôi, nên biên soạn tài liệu để hướng dẫn giúp cho học chúng về vấn đề nghệ thuật diễn giảng. Hòa thượng thường nói với chúng tôi, người xuất gia muốn làm giảng sư, không phải chỉ có kiến thức Phật pháp không thôi là đủ, mà nó còn đòi hỏi phải có nhiều khía cạnh khác, nhất là phần nghệ thuật diễn giảng. Hòa thượng cũng thường khuyến khích khuyên bảo học chúng: “sống trong thời đại mới nầy, các vị nên cố gắng trau giồi thêm về những kiến thức ngoại điển để có thể thích nghi với trào lưu tư tưởng của nhơn loại trong việc hoằng
13/03/2014(Xem: 10107)
Nghi Thức Sám Hối này do cư sĩ Hạnh Cơ soạn và chú thích. Nội dung của nghi thức đã được dịch từ bài “Lục Thì Sám Hối Khoa Nghi” (bằng Hán văn) của vua Trần Thái Tông (1218-1277). Nghi thức đã được lựa chọn và sắp xếp lại thành chỉ có một thời, khác với nguyên tác.
28/02/2014(Xem: 9958)
Trung Tâm Phật Giáo – Chùa Việt Nam xin trân trọng thông báo đến quý đồng hương và Phật tử xa gần được rõ: Lễ Hội Quan Âm - Ngày Hành Hương và Cầu Nguyện Năm Thứ 14 sẽ được tổ chức vào các ngày Thứ Sáu, 28/3 và Thứ Bảy, 29/3/2014 với chương trình tổng quát như sau: Thứ Sáu Ngày 28 Tháng 3 Năm 2014 9giờ 30 sáng - Pháp Hội Quan Âm 1 3giờ chiều - Pháp Hội Quan Âm 2 6giờ 30 tối: - Lễ Khai Mạc - Cử Pháp Cổ & Múa Lân - Hành Hương Tam Bộ Nhất Bái - Hội Hoa Đăng - Cầu Nguyện
12/02/2014(Xem: 15466)
Bộ kinh in khổ đẹp, trình bày trang nhã với bìa sách đỉnh đạc rất giá trị, do Thượng Tọa Thích Nhật Từ biên soạn, phiên dịch, sắp xếp 63 bài kinh quan trọng theo 5 nhóm chủ đề: Đạo đức, xã hội, triết lý, thiền định và Tịnh độ được tuyển dịch từ kinh tạng Pali và kinh điển Bắc truyền.
12/02/2014(Xem: 11653)
Từ ngàn xưa người Việt Nam chúng ta đã được thấm nhuần tinh thần từ bi của đạo Phật, tổ tiên ta đã Phật hóa gia đình, giáo dục con cháu phải biết chia sẻ hạnh phúc, ban rải tình thương đến mọi người, mọi loài, cỏ cây đất đá.
05/02/2014(Xem: 15478)
Nghi Thức Niệm Phật A-Di-Đà Thích Nhật Từ biên soạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]