Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 13

03/05/201316:20(Xem: 3907)
Phần 13


CÁC BẬC ÐẠO SƯ CỦA ÐẠI THỦ ẤN
Những bài đạo ca và lịch sử hành trạng của
tám mươi tư vị Thánh Tăng Phật Giáo
Masters of mahamudra Of the Eighty-Four Buddhist Siddhas

Nguyên tác : KEITH DOWMAN
Minh họa :
Hugh B.Downs
Chuyển ngữ: Nguyên Thạnh Lê Trung Hưng

---o0o---

Phần 13

ÐẠI SƯ THỨ 61:

BHIKSANAPA

( Lưỡng sĩ đạo nhân )

Con đường trơn trợt mà ngài đã đi qua khó một ai theo được

Sự tỏ ngộ ấy không có gì sánh bằng

Vì phàm phu thời không thể nào hiểu được

Nhà Du-già Tối thượng có quyền năng cân bằng hoàn hảo

Ðạt tới chân nghĩa nhờ lời dạy của Bổn sư.

Bhiksanapa là một kẻ hành khất ở vùng Pataliputra. Ngày nọ, sau một buổi sáng đi hành khất khắp nơi trong thành nhưng chẳng có ai ban cho một chút thức ăn nào, Bhiksanapa cảm thấy đói và mệt nên ngồi nghỉ ở bên vệ đường, chợt một vị Thánh nữ ( Dakini ) xuất hiện trước mặt ông ta.

Vị Nữ thánh ân cần thăm hỏi cớ sao Bhiksanapabuồn rầu như thế. Gã khất cái kể với Nữ thánh về nỗi khổ của mình. Bà nói:

- Ta có một cách giúp ngươi thành tựu ước nguyện.

- Vâng, xin Bà chỉ bày tôi !

- Ðáp lại, ngươi có gì để dâng tặng ta.

Bhiksanapa nghe vậy dùng tay, lấy hết sức bình sinh nhổ một cái răng trên và một cái răng dưới trao cho vị Thánh nữ.

Biết rằng gặp được kẻ pháp khí, vị Thánh nữ dùng phép khai tâm và trao pháp cho Bhiksanapa.

Sau đó, ngày ngày đi khất thực để độ thân, Bhiksanapa tụ tập thiền định trong 7 năm thời chứng đắc thần thông Ðại Thủ Ấn.

^


ÐẠI SƯ THỨ 62

DHILIPA

( Con người hưởng lạc )

Khi ta nhận ra bản chất nguyên thuỷ là Phật,

Phật trở thành bản chất của tất cả thực thể.

Nhờ năng lực của Tuyệt đối Bẩm sinh

Ta nhập vào Kim Cương Ðịnh

Tại Satapuri, có một người bán dầu tên gọi là Dhilipa. Công việc kinh doanh này đem lại cho ông ta một số lợi nhuận rất lớn, vì vậy ông ta trở nên một trong những người giàu có nhất trong vùng. Chính vì vậy mà cuộc sống của Dhilipa rất xa hoa. Mỗi bữa ăn, ông dùng đến 84 cái dĩa, 12 loại thịt và 5 loại thức uống. Ðây là cách dùng bữa của một bậc vương giả thời ấy.

Một ngày nọ, Ðạo sư Bhahana đến viếng Dhilipa. Sau khi nghe Sư thuyết pháp, Dhilipa lấy làm cảm động, ngỏ ý muốn mời Sư lưu lại một thời gian tại nhà của mình và Sư đồng ý.

Một hôm nhìn Dhilipa đang làm công việc trích ly dầu ra khỏi những hạt mè ( vừng ), Sư cho rằng công việc này có thể ngày một phát đạt hơn nhưng khó có thể đạt tới giải thoát.

Dhilipa xin Sư truyền pháp, Sư nói:

Thân ngươi là hạt vừng

Dầu chính là vọng tưởng

Bản tâm là ngọn đèn

Bấc là pháp thế gian

Ðốt đèn bằng lửa Tuệ

Xua đi bóng vô minh

An trú trong thanh tịnh

Niềm vui bất khả nghì.

Dhilipa nghe xong hốt ngộ, tu tập trong 9 năm trời đắc thần thông Ðại Thủ Ấn.

^


ÐẠI SƯ THỨ 63

KUMBHARIPA

( Thợ gốm )

Bánh xe tập quán quay nhanh

Tạo nên bài ca và vũ điệu của sự hiện hữu

Nhưng giờ đây ngọn lửa tri kiến bừng cháy

Ðẩy lùi bóng tối của vô minh.

Kumbharipa hành nghề thợ gốm ở sứ Jomanasri. Công việc đơn điệu hằng ngày khiến ông đâm ra mệt mỏi và muốn có một sự thay đổi để cuộc sống bớt tẻ nhạt hơn.

Một ngày nọ, một nhà sư Du-già đến lò gốm để khất thực, Kumbharipa nói:

- Bạch Ðại đức ! Làm cái nghề nặng nhọc này tôi cũng chỉ kiếm được một ít thu nhập để sống qua ngày. Và tôi cảm thấy chẳng có một chút hứng thú gì. Thật là khổ não !

- Ồ ! Hiền hữu, ông biết rằng tất cả chúng sinh đều chịu phiền não vô tận, chứ đâu có phải chỉ riêng mình ông.

Nay ta bày ông một pháp:

Ðất sét là đam mê

Ý tưởng được chuẩn bị

Ðất cát là vô minh

Lăn trên xe tham ái

Sáu căn là sản phẩm

Trí tịnh làm lửa nung

Cho chín gốm lục nhập.

Người thợ gốm hiểu được lời dạy của Sư, thiền định trong 6 tháng thời tâm trí thanh tịnh, dứt được tham ái. Kumbharipa vừa làm việc vừa thiền định. Những thứ sản phẩm do ông làm đều tinh xảo và có những nét kỳ diệu.

^


ÐẠI SƯ THỨ 64

CARBARIPA

( Người chết sững )

Ðại nguyện của chư Phật

Chính là nhận ra tự thể

Những ai nhận ra sự thanh tịnh của bản tâm

Thời người đó có con mắt Phật

Tại một làng quê thuộc sứ Magadha ( Ma Kiệt Ðà ) có một gia đình làm nghề chăn nuôi gia súc. Họ sở hữu hàng ngàn con bò, vô số cừu và ngựa. Khi người cha qua đời vì già bệnh, người con mở đại tiệc thết đãi toàn bộ dân chúng trong vùng. Bữa đại tiệc này kéo dài trong nhiều ngày với đầy đủ những món ngon , vật lạ. Vào hôm sáng sớm trước khi buổi tiệc kết thúc, cả gia đình cùng thực khách kéo nhau đến sông Hằng ( Ganges) để tắm rửa tẩy trần, chỉ còn lại người vợ và đứa bé con làm nhiệm vụ trông nhà. Lúc này Ðại sư Carbaripa đột nhiên xuất hiện để khất thực, nhưng người trẻ sợ chồng quở trách.

- Nếu chỉ vì người thết đãi ta mà chồng người hoặc mẹ chồng quở mắng, thì hãy đến với ta. Từ nơi đây, ngươi có thể nhìn thấy ánh lửa bên kia ngọn đồi, đó chính là nơi ta trú ngụ. Nếu họ không tức giận thì có lẽ tốt hơn nhiều. Gìơ, hãy cho ta một ít thức ăn.

Người thiếu phụ mang cho Sư một ít vật thực và lắng nghe Sư kể chuyện một cách vui vẻ. Sau khi vị Sư rời khỏi nhà, bà mẹ chồng quay về nhìn thấy một ít thức ăn còn sót lại trên những chiếc dĩa, bắt đầu sỉ nhục nàng dâu. Lần này, người thiếu phụ trở nên giận dữ thật sự, nàng bế đứa con nhỏ tìm đến chổ Ðại sư Carbaripa.

- Lành thay ! Lành thay !

Sư nói xong, dùng tịnh thuỷ rảy vào người của bà mẹ và đứa con, biến họ thanh hai tượng Phật bằng đá.

Người chồng khi quay về không thấy vợ con bèn tìm đến chỗ Sư . Sư lại dùng nước sái tịnh biến ông chồng thành tượng Phật đá. Sau đó, gia đình, họ hàng của họ đến tìm đều bị rơi vào số phận tương tự. Tất cả đều bị biến thành những tượng Phật đáđứng sừng sững giữa nơi hoang vắng.

Ðứa bé trai con của người thiếu phụ tốt bụng đạt được tám thần thông: Từ đôi tinh hoàn của đứa bé lưu xuất một thứ đề - hồ có khả năng biến các kim loại thành vàng, từ hậu môn xuất ra một thứ trường-sinh-tửu, và từ đôi mắt phát ra hai luồng hào quang v.v...

Dân chúng trong vùng đồn đại việc lạ lùng chưa từng có này đến tai Ðức vua xứ Campa. Nhà vua hiểu được sự việc, cho xây một ngôi đền lớn để thờ tất cả những tượng Phật đá này.

Tương truyền rằng những nhà tu Du-già thường đến đây để tu thiền định. Và trong lúc thiền định nếu tâm khởi lên vọng tưởng các tượng sẽ hoá thành người thật dùng gậy đập vào lưng hành giả.

^


ÐẠI SƯ THỨ 65

MANIBHADRA

Bà nội trợ hạnh phúc.

Khi tâm ta bi khởi che bởi vô minh

Ý duyên theo trần cảnh

Khi thực thể sáng tỏ như bản chất của ta

Bản chất ấy hiện ra như thực thể

Thị trấn Agaru có một gia đình giàu có. Gia đình này có một cô con gái ở tuổi 13, được hứa gả cho một người đàn ông ở cùng một đẳng cấp xã hội. Theo tục lệ thì người đàn ông phải đi ở rễ chờ cho đến khi cô gái đến tuổi kết hôn. Trong thời gian này, Ðại sư Kukkuripa đến nhà của cô đẻ khất thực. Nhìn thấy nhà sư, cô gái thốt lên:

- Ngài trông thật đẹp đẽ ! Cớ sao lại phải đắp tấm vải rách mà xin ăn, trong khi ngài có thể tự mình kiếm sống và cưới một người vợ ?

- Thưa thí chủ ! Tôi sợ vòng sinh tử luân hồi và tôi đang tìm thấy niềm an lạc đầy giải thoát. Thân người khó được, Phật pháp khó gặp. Nay tôi phải nắm bắt lấy cơ hội có một không hai này mà tu tập. Nếu lấy vợ, có con, thật là bận bịu, làm thế nào mà tu tập ? Và như thế, đời sau càng tệ hại hơn. Do đó mà tôi bỏ chuyện theo đuổi phụ nữ.

Cô gái tỏ ra cảm phục nhà Sư, sau khi cúng dường vật thực, cô nài nĩ:

- Xin thầy chỉ cho tôi con đường giải thoát.

- Ta sống nơi mộ địa, nếu cần, thí chủ có thể đến gặp ta.

Manibhadra, tên của cô gái, trở nên ưu tư về thân phận con người trong cuộc đời đầy bất trắc này, và cuối cùng cô quyết định tìm đến nhà sư.

Ðại sư Kukkuripa quán xét thấy trình độ tâm linh của cô gái phát triển cao, bèn truyền cho cô pháp thuyền định và thần thông. Sau đó, cô tìm chỗ vắng vẻ tự luyện một mình trong bảy ngày đêm. Sau thời gian ấy, cô trở về nhà thì bị cha mẹ la rầy, đánh đập. Cô nói:

- Không ai trong thế gian này là cha hay mẹ của tôi cả. Một gia đình giàu có chỉ có thể nuôi dưỡng nhưng không thể giải thoát cho một cô gái ra khỏi sinh tử luân hồi. Vì vậy, tôi phải nương tựa vào Chân sư để tu tập thiền định hầu mong giải thoát khỏi sau đường.

Lời lẽ xác đáng của cô khiến họ không thể đối đáp lại. Manibhadra tập định tâm vào một điểm duy nhất. Và sau đó một năm, vị hôn phu đến đón cô về nhà riêng. Cô vui vẻ theo chồng không một chút phản kháng.

Trong cuộc sống mới, cô luôn luôn tỏ ra đảm đương việc nhà, nói năng khiêm tốn, cử chỉ hoà nhã. Chẳng bao lâu, cô sinh hạ được một bé trai và một bé gái. Cô nuôi nấng và dạy dỗ chúng theo cách riêng của cô. 

Mười hai năm trôi qua kể từ ngày Manibhadra gặp được Chân sư, buổi sáng nọ cô ra suối để lấy nước, vì mang một bình đầy lại vấp phải một gốc cây, cô ngã xuống làm chiếc bình vỡ tan. Chiều đến người chồng không thấy vợ, vội đi tìm. Khi đến nơi ông thấy vợ mình nằm dưới đất, đôi mắt mở to đăm đăm nhìn vào chiếc bình vỡ. Ông ta đến gần hỏi han, cô vẫn cứ nhìn trân trối vào chiếc bình như không nghe thấy gì. Mọi người đến tìm cách vực cô ngồi dậy nhưng vô ích. Cô vẫn nằm bất động mãi. Ðến lúc đêm xuống, cô đứng dậy hát:

Chúng sinh hữu tình đập vỡ chiếc bình của họ,

Cuộc sống kết thúc.

Nhưng tại sao ?

Tại sao họ trở về nhà

Ngôi nhà lục thủ ?

Hôm nay ta đập vỡ chiếc bình của ta

Nhưng ta không quay về ngôi nhà ấy nữa

Ta đi tới niềm vui thanh tịnh

Thầy ta thật tuyệt vời.

Nếu ngươi muốn ? Hãy nương vào bậc Thánh.

Hát xong, Manibhadra bay vào hư không.

^

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/11/2014(Xem: 5480)
Diễm, từ Việt Nam gửi một tin nhắn cho tôi qua Yahoo Messenger để hỏi về Mật Tông. Cô bảo sáng nay vào paltalk nghe thiên hạ nói về hai chữ đó mà phút cuối vẫn mù mờ. Tôi hỏi sao cô không hỏi trực tiếp trong Room, cô nói giọng Huế của mình trọ trẹ khó nghe, nói ra lỡ người ta không hiểu thì dị òm (mắc cỡ chết). Tôi cứ băn khoăn không biết phải nói sao về một chuyện không phải sở trường của mình. Không nói thì kẹt cho cả đôi bên: Diễm tiếp tục mù tịt về một chuyện kể cũng nên biết và tôi mang tiếng ăn quẩn cối xay. Dù thiệt ra thiên hạ có nghĩ sao thì trái đất vẫn quay mà.
31/05/2014(Xem: 8582)
Để giải thích về giá trị của Kalachakra - Thời Luân, Đức Dalai Lama đã nhấn mạnh tiềm năng vĩ đại về lợi ích Kalachakra đem lại như sau: “Quán đảnh Thời Luân là một trong những điểm đạo quan trọng nhất … vì chúng ta sẽ vận dụng được tất cả các yếu tố như thân và tâm của con người bên trong, cùng với toàn thể môi trường bên ngoài gồm có vũ trụ và thiên văn. Chúng ta có niềm tin vững chắc rằng đại lễ Thời Luân có năng lực giúp giảm thiểu các xung đột và chúng ta cũng tin tưởng rằng Thời Luân còn có khả năng kiến tạo niềm an lạc tinh thần, và qua đó, mang lại hòa bình cho thế giới.” - His Holiness the Dalai Lama in C. Levenson’s “The Dalai Lama, A Biography”
14/06/2013(Xem: 4542)
Đại thừa (Mahāyāna) phát triển một nhận thức mới về bản chất lịch sử của Đức Phật Śākyamuni. Điều nầy được nói đến đầu tiên trong chương “Mạng sống của Như lai (Tathāgata)” trong kinh Liên Hoa (Lotus Sūtra), một tác phẩm được hoàn thành cuối cùng vào khoảng năm 200 trước Công nguyên. Ở đây, Đức Phật giải t
06/06/2013(Xem: 8902)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
04/06/2013(Xem: 21899)
Phật giáo có nguồn gốc lâu đời từ Ấn Độ, ra đời vào khoảng thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên. Lịch sử, truyền thuyết, và nhân loại đều công nhận Phật giáo được khai sáng bởi Đức Phật Thích Ca Mầu Ni (Shakyamuni Buddha). Truyện kể về cuộc đời của Đức Phật từ khi đản sinh cho đến khi lập gia đình là năm 16 tuổi; năm 29 tuổi thái tử Tất Đạt Đa (Siddhārtha) quyết chí xuất gia tu hành tìm đường diệt khổ; đến năm 35 tuổi giác ngộ ra chân lý, đắc đạo và trở thành Phật. Trong suốt 45 năm sau đó Ngài đi thuyết pháp, giáo hóa chúng sinh rồi cuối cùng viên tịch nhập niết bàn vào năm 80 tuổi.
28/04/2013(Xem: 30225)
Từ lâu không biết bao nhiêu người, ở ngoài đời cũng như trong đạo, rất bỡ ngỡ về vấn đề tu hành. Như một kẻ bộ hành ngơ ngác, lạc lõng giữa ngả ba đường, họ băn khoăn tự hỏi: Tu làm sao đây? Tu phương pháp gì? Và phải hạ thủ công phu làm sao mới đúng?
18/04/2013(Xem: 7559)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thương và lòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
18/04/2013(Xem: 7000)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
18/04/2013(Xem: 6690)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệ và từ bi...
09/04/2013(Xem: 5832)
Thuở xưa, trú xứ của những người xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình thường là khu rừng, vách núi, hang động, đồng hoang… Ngay cả Đức Thế Tôn, khi đã có những tu viện do các cư sĩ xây dựng cúng dường như Trúc Lâm, Kỳ Viên… thì Ngài cũng chỉ cư trú trong ba tháng an cư mùa mưa, còn phần lớn thời gian Ngài đi hoằng pháp và nghỉ lại trong những khu rừng trên lộ trình du hóa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567