Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 05

03/05/201316:07(Xem: 3708)
Phần 05


CÁC BẬC ÐẠO SƯ CỦA ÐẠI THỦ ẤN
Những bài đạo ca và lịch sử hành trạng của
tám mươi tư vị Thánh Tăng Phật Giáo
Masters of mahamudra Of the Eighty-Four Buddhist Siddhas

Nguyên tác : KEITH DOWMAN
Minh họa :
Hugh B.Downs
Chuyển ngữ: Nguyên Thạnh Lê Trung Hưng

---o0o---

ÐẠI SƯ THỨ 21 

SYALIPA, Linh cẩu đại sư

Người hoạ sĩ thiên tài

Vẽ những bức tranh có hình ảnh khủng khiếp

Khi ngắm nhìn các tác phẩm này

Lòng ta dâng lên một nỗi kinh hoàng,nhưng,

Hãy nhìn lại đi! Hãy nhìn cho rõ

Những hình ảnh ấy phản ánh những điều không thật

Rồi cuối cùng ta cũng phát hiện ra.

Syalipa vốn là một bần nông sống kề bên một bãi tha ma. Về đêm,có một đàn linh cẩu thường đến để lùng sục những mẩu xương thừa của người chết trong đám tro tàn.Tiếng tru gào của chúng dường như ma kêu quỉ khóc như xé toạt cả bóng đêm tịch mịch,quyện vào không gian đen nghịt,khiến người nghe phải rùng mình sởn gáy. Chúng chính là nỗi kinh hoàng của Syalipa,ám ảnh trong tâm trí của chàng ngày lẫn đêm.Cho đến một hôm,tình cờ có một đạo sư đến khất thực vùng này,Syalipa vội mang thức ăn cúng dường.Nhà sư lấy làm hoan hỷ và giảng thuyết về lợi ích của công đức cúng dường,nhưng Syalipa buồn rầu nói:

-Thưa thầy!Bài thuyết pháp của thầy thật hay.Nhưng nếu được,mong thầy dạy tôi làm cách nào có thể vượt qua nỗi sợ.

-Này hiền hữu! Ngươi sợ gì? Già? Chết? hay luân hồi sáu nẻo?

-Thưa,ấy chỉ là những lo sợ thông thường.Tôi có một nỗi sợ đặc biệt hơn.Tôi chỉ sợ tiếng tru của loài linh cẩu thường đến kiếm mồi ở bải tha ma gần đây.xin thầy từ bi dạytôi cách trừ nỗi sợ ấy.

-Thôi được! Vì ngươi chẳng sợ gì khác ngoại trừ tiếng tru của loài linh cẩu.Vậy cách hay nhất là ngươi nên dựng lều trong bãi tha ma,sống chung lộn với loài thú này.Ðồng thời,hãy luôn tâm niệm rằng tất cả âm thanh trên thế gian này đồng với tiếng tru của chúng.Lâu dần,nỗi sợ sẽ tự huỷ diệt.

Syalipa vâng lời dạy,tu tập trong 9 năm thời đạt được Vô uý tâm,đắc Ðại Thủ Aán,tự xưng là linh cẩu pháp sư,bên ngoài thường đắp một tấm da linh cẩu.

^

ÐẠI SƯ THỨ 22

TILOPA, Kẻ xuất thế

Con chim ấy ngụ trên núi Tu Di

Dường như nó được làm bằng vàng

Bậc trí giả biết rằng

Năng lực thanh tịnh là tất cả

Nên ngài từ bỏ thế giới vật chất

Ðể bước vào cảnh giới Niết-bàn.

Tilopa vốn là quốc sưcủa xứ Visnuagar vào thế kỷ thứ 10,ngài rất được Vua và triều đình tôn kính.Nhưng ngài tỏ ra chán chường những biệt đãi của nhà vua ban .Ngài thường bảo: “Ðời ta thật vô nghĩa!” Sau đó ngài xin từ chức quốc sư nhưng triều đình không thuận.Cuối cùng ngài phải âm thầm ra đi.

Rời triều đình trong một đêm khuya,Tilopa đi về vùng Kanci,trú thân nơi một bãi tha ma hẻo lánh.Ngày đi khất thực,đêm về tu tập thiền định bên cạnh những thây ma.Ðại sư Tilopa thường cho rằng thế gian ô trược này chính là cõi thanh tịnh của ngài.

^

ÐẠI SƯ THỨ 23

CATRAPA, Hành khất gặp may

Bất cứ cái gì mà nhà Du-già nhìn thấy

Ðiều hiển lộ giáo pháp của Chân sư.

Tất cả.

Mà người nhìn thấy là thật thể bất sinh

Thực thể bất sinh là vị Ðạo sư cao cả nhất

Vô tư là cách nhận biết “không hai”.

Bởi thế,đức lành hay thói xấu cũng là một.

Catrapa vốn là một hành khất nhưng lúc nào trên lưng cũng mang theo một số kinh sách.Một ngày nọ,ngài tình cờ do phước duyên gặp được một nhà sưthông thái khai thị tri kiến giải thoát và truyền cho pháp thuật.

Sư nói:

Xấu ác bởi vô minh

Thân này do nghiệp trước

Hiện tại tức vị lai

Năng nổ tu thiền định

Thời chứng trong đời nay.

Nghe thoáng qua bài kệ,Catrapa không hiểu được ý. Sư bèn giảng:

-Sai lầm là do không có tri kiến. Thiếu tri kiến thì tà vạy trong tâm khởi lên.Tâm tà vạy khởi lên dẫn theo hành động sai lầm. Cứ thế mà xoay chuyển sâu vào ác nghiệp. Chỉ có thực chứng các pháp vốn hư huyền,duyên sanh mà có,tu tập thiền định vào Tam-ma-địa thời mới hết sai lầm. Lại thấy chúng sanh trôi lăn trong sáu nẻo mà khởi tâm thương xót,dùng Bi quán mà phổ độ.Nhưng không để tâm hướng về quá khứ, vướng mắc ở hiện tại,trù tính về tương lai.Khổ lạc vốn do tâm sinh.Tu tập miên mật lâu ngày thời Phật tính tự hiển lộ.

Catrapa lưu lại Sendhonagra để tu tập thiền định,sau 6 năm ngài đắc thần thông Ðại Thủ Aán.

^

ÐẠI SƯ THỨ 24

BHADRAPA, Kẻ độc nhất vô nhị

Ngộ được tánh không thời vô minh là thanh tịnh

Chiêm nghiệm lòng từ thời hành vi hoàn thiện

Hiểu được tính nhất quán của vô số phương tiện

Aáy là thiền định

Mục đích rốt ráo thuần một vị giải thoát mà thôi.

Xứ Manidhara có một kẻ Bà-la-môn giàu có sống một cuộc sống hết sức xa hoa.Dù vậy,tâm y lúc nào cũng âu lo. Thường ngày y giao du quen biết với rất nhiều người nên nhà y lúc nào cũng đông đúc bạn bè.Một bữa nọ, nhân lúc y ở nhà một mình vì bạn bè của y đi dự lễ tẩy trần,thì một nhà sư Du-già đến xin và khi thấy nhà sư rách rưới bước vào sân:

-Bất tịnh! Bất tịnh! Ngươi làm ô uếnhà ta.Hãy rời khỏi đây trước khi bạn bè ta về trông thấy kẻo họ trách ta đã cho ngươi vào.

-Ngài nói “bất tịnh” nghĩa là sao,thưa ngài?

-Không tắm rửa,không thay y phục,mang bình bát bằng đầu lâu,ăn thức ăn không sạch,sinh ở giai cấp hạ tiện là bất tịnh.Giờ thì đi nhanh đi!

Nhà sư nghe xong vẫn đứng yên,khẽ đáp:

-Như thế không phải là bất tịnh như ngài nghĩ.Uế tạp do thân,khẩu,ý mới thực là bất tịnh.Làm thế nào ngài có thể tẩy rửa sự uế tạp trong tâm của ngài bằng lễ tẩy trần? Chỉ có tắm trong giáo pháp của chân sư,ngài mới có thể hoàn toàn thanh tịnh,không còn cấu nhiễm.

Kẻ Bà-la-môn kia nghe thấy có lý bèn xin Sư dạy thêm.Sư nói:

-Hãy cúng dường thức ăn cho ta.

-Nhưng ngài không thể lưu lại đây lâu được.Vì người nhà và bạn bè của tôi không tin ngài.Tôi sẽ đến nơi ngài ở để nghe pháp.

-Ta sống nơi bãi tha ma.Khi đến gặp ta nhớ mang theo rượu thịt.

-Rượu thịt ư ? người Bà-la-môn chúng tôi cấm không được nhắc đến những thứ ấy.

-Tuỳ người ! nếu muốn học giáo pháp phải làm theo lời ta dặn.

-Nhưng tôi không thể gặp ngài vào lúc ban ngày vì mọi người sẽ nhìn thấy tôi. Vì vậy tôi sẽ đến với ngài vào lúc ban đêm.

Sau khi nhà sư bỏ đi,kẻ bà-la-môn kia cải trang,đi ra chợ để mua rượu thịt.Khi đêm đến,y tìm đường đến nơi mộ địa.Ðến nơi, y gặp nhà sư, bèn dâng thức ăn cho sư và được điểm đạo.Ðể hoán cải tâm kiêu mạn về giai cấp,Bhadrapa hằng ngày phải quét dọn hố xí và làm vệ sinh quanh nơi sư ở.Sau 6 năm tu tập thiền định, Bhadrapa đắc thần thông Ðại Thủ Ấn.

^

ÐẠI SƯ THỨ 25

DUKHANDHI, Phu quét đường

Kết hợp quá trình sáng tạo tương đối

Với phép thành tựu rốt ráo

Ðó là phép thiền định Ðại Thủ Aán

Khởi lên trong ta thức thanh tịnh

Ðó là trí tụê của Ba thân.

Dukhandhi sinh trưởng ở vùng Gandhapur,thường ngày đi lượm giẻ rách,đem về giặt sạch,rồi vá lại thành từng tấm áo quần để mặc.Một ngày nọ,ngài gặp được một nhà sư Du-già truyền cho tâm ấn.Ngài cố gắng tu tập,nhưng tâm trí luôn luôn bị chi phối bởi việc lượm giẻ và may vá,nên ngài khởi tâm nghi hoặc cho rằng không thể tu hành thành tựu.Ðầu óc ngài lúc nào cũng vẩn vơ với công việc thường ngày khiến không thể nhất tâm quán tưởng,hay trì tụng chân ngôn .Dukhandhi đem trở ngại ấy trình bày với Tôn sư của mình.Sư dạy:

Chân pháp không ngằn mé

Không có “pháp may”,

Không có “pháp người may”

Chân ngôn là “như thị”.

Hãy quán tưởng vị thần

Trì tụng chú miên mật

Tự nhiên tâm thuần thục

Thấy các pháp đều không.

Nương theo lời dạy của chân sư, Dukhandhi tu tập 12 năm thời đạt thần thông Ðại Thủ ấn.

^

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/11/2014(Xem: 5453)
Diễm, từ Việt Nam gửi một tin nhắn cho tôi qua Yahoo Messenger để hỏi về Mật Tông. Cô bảo sáng nay vào paltalk nghe thiên hạ nói về hai chữ đó mà phút cuối vẫn mù mờ. Tôi hỏi sao cô không hỏi trực tiếp trong Room, cô nói giọng Huế của mình trọ trẹ khó nghe, nói ra lỡ người ta không hiểu thì dị òm (mắc cỡ chết). Tôi cứ băn khoăn không biết phải nói sao về một chuyện không phải sở trường của mình. Không nói thì kẹt cho cả đôi bên: Diễm tiếp tục mù tịt về một chuyện kể cũng nên biết và tôi mang tiếng ăn quẩn cối xay. Dù thiệt ra thiên hạ có nghĩ sao thì trái đất vẫn quay mà.
31/05/2014(Xem: 8565)
Để giải thích về giá trị của Kalachakra - Thời Luân, Đức Dalai Lama đã nhấn mạnh tiềm năng vĩ đại về lợi ích Kalachakra đem lại như sau: “Quán đảnh Thời Luân là một trong những điểm đạo quan trọng nhất … vì chúng ta sẽ vận dụng được tất cả các yếu tố như thân và tâm của con người bên trong, cùng với toàn thể môi trường bên ngoài gồm có vũ trụ và thiên văn. Chúng ta có niềm tin vững chắc rằng đại lễ Thời Luân có năng lực giúp giảm thiểu các xung đột và chúng ta cũng tin tưởng rằng Thời Luân còn có khả năng kiến tạo niềm an lạc tinh thần, và qua đó, mang lại hòa bình cho thế giới.” - His Holiness the Dalai Lama in C. Levenson’s “The Dalai Lama, A Biography”
14/06/2013(Xem: 4509)
Đại thừa (Mahāyāna) phát triển một nhận thức mới về bản chất lịch sử của Đức Phật Śākyamuni. Điều nầy được nói đến đầu tiên trong chương “Mạng sống của Như lai (Tathāgata)” trong kinh Liên Hoa (Lotus Sūtra), một tác phẩm được hoàn thành cuối cùng vào khoảng năm 200 trước Công nguyên. Ở đây, Đức Phật giải t
06/06/2013(Xem: 8888)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
04/06/2013(Xem: 21878)
Phật giáo có nguồn gốc lâu đời từ Ấn Độ, ra đời vào khoảng thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên. Lịch sử, truyền thuyết, và nhân loại đều công nhận Phật giáo được khai sáng bởi Đức Phật Thích Ca Mầu Ni (Shakyamuni Buddha). Truyện kể về cuộc đời của Đức Phật từ khi đản sinh cho đến khi lập gia đình là năm 16 tuổi; năm 29 tuổi thái tử Tất Đạt Đa (Siddhārtha) quyết chí xuất gia tu hành tìm đường diệt khổ; đến năm 35 tuổi giác ngộ ra chân lý, đắc đạo và trở thành Phật. Trong suốt 45 năm sau đó Ngài đi thuyết pháp, giáo hóa chúng sinh rồi cuối cùng viên tịch nhập niết bàn vào năm 80 tuổi.
28/04/2013(Xem: 30153)
Từ lâu không biết bao nhiêu người, ở ngoài đời cũng như trong đạo, rất bỡ ngỡ về vấn đề tu hành. Như một kẻ bộ hành ngơ ngác, lạc lõng giữa ngả ba đường, họ băn khoăn tự hỏi: Tu làm sao đây? Tu phương pháp gì? Và phải hạ thủ công phu làm sao mới đúng?
18/04/2013(Xem: 7533)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thương và lòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
18/04/2013(Xem: 6994)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
18/04/2013(Xem: 6671)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệ và từ bi...
09/04/2013(Xem: 5812)
Thuở xưa, trú xứ của những người xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình thường là khu rừng, vách núi, hang động, đồng hoang… Ngay cả Đức Thế Tôn, khi đã có những tu viện do các cư sĩ xây dựng cúng dường như Trúc Lâm, Kỳ Viên… thì Ngài cũng chỉ cư trú trong ba tháng an cư mùa mưa, còn phần lớn thời gian Ngài đi hoằng pháp và nghỉ lại trong những khu rừng trên lộ trình du hóa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567