Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mật Tạng Việt Nam số 47

02/05/201320:23(Xem: 7556)
Mật Tạng Việt Nam số 47

MẬT TẠNG

PHẬT GIÁO VIỆT NAM

TẬP II

Ban phiên dịch:

Thích Viên Đức, Thích Thiền Tâm

Thích Quảng Trí, Thích Thông Đức

Cư sĩ Huỳnh Thanh, Như Pháp Quân

---o0o---

MẬT TẠNG VIỆT NAM SỐ 47

KINH THANH TỊNH QUÁN THẾ ÂM 

PHỔ HIỀN ĐÀ LA NI

Mật Tạng Bộ 3No.1038( Tr.21 - Tr.23 )

Nước Đại Đường, Chùa Tổng Trì, Sa Môn Thích Trí Thông dịch Phạn ra Hán văn.

Việt dịch :Huyền Thanh

Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Bạc Già Phạm ngự tại núi Kỳ Xà Quật, thuộc thành Vương Xá cùng Chúng Đại Tỳ Khưu gồm 500 người đến dự, cùng với vô lượng vô số Bồ Tát .

Bấy giờ, Bồ Tát Quán Thế Âm cùng ngồi với 92 câu đê Bồ Tát.Thời, Bồ TátQuánThế Âm ở trong buổi sáng sớm, từ chỗ ngồi đứng dậy, trật áo chắp tay cung kính, cúi lầu lễ Phật, rồi bạch với Đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Con nay muốn nói Phổ Hiền Đà-la-ni, vì xót thương và muốn làm lợi ích cho tất cả chúng sanh. Vào thời quá khứ, con ở chỗ Đức Phật Nguyệt Quangnhận được Chú này.Nay trước Đức Phật nói, con muốn Đà La Ni này. Nguyện xin Đức Thế Tôn hãy cho con nói”.

Liền nói Chú rằng :Đây là Chú Căn Bản:

- Na mô hạt la đát-na đá-la dạ gia (1)Na mô a lợi gia bà lô chỉ đế nhiếp bàn la gia (2)Bồ đề tát đỏa gia (3)Ma ha tát đỏa gia (4)Ma ha ca lô ni ca gia (5)Đá điệt tha (6)Khư già bệ (7)Khư già bệ (8)Khư già bệ (9)Giả sô khư bệ (10) Thâu-lỗ đá-la khư bệ (11)Già-la noa khư bệ (12)Thị ha-bàn khư bệ (13)Ca gia khư bệ (14)Ma na khư bệ (15)Tát la khư bệ (16)Bệ ma khư bệ (17)Thâu nhạ khư bệ (18)Nễ nhĩ đá khư bệ (19)Bà-la ni đà na khư bệ (20)Sa ma địa khư bệ (21)Bà la nhĩ đa khư bệ (22)Bồ đề khư bệ (23)Sa la, sa la, sa la (24)Tát bà bột đà địa sắt-xỉ đề (25)Bà la, bà la, bà la (26)Đạt la-ma địa sắt-xỉ đề (27)Ca la, ca la, ca la (28)Tăng già địa sắt-xỉ đề (29)Na mô a lợi gia bà lộ chỉ đế nhiếp bàn la gia (30)Bồ đề tát đỏa gia (31)Ma ha tát đỏa gia (32)Ma ha ca lỗ ni ca gia (33)Na mô tát đỏa gia bàn địa nẫm (34)Bồ để tát đỏa câu đê nẫm (35)A địa sắt-xỉ hán đô ma (36)A dụ la-bàn lam giả (37)Đà đát đô (38)Đá điệt tha (39)Tố la tỳ, tố la tỳ (40)Ma ha tố la tỳ (41)Mẫu nễ, mẫu nễ (42)Ma ha mẫu nễ (43)Ma để, ma để (44)Ma ha ma để (45)Na mô a lợi gia bà lộ chỉ đế nhiếp bàn la gia (46)Bồ đề tát đỏa gia (47)Ma ha tát đỏa gia (48)Ma ha ca lỗ ni ca gia (49)Tất điền đô-sa man tá phạt đà-la đà la ni (50)sa ha (51)

* Chú Kết Giới Đà La Nilaø:

- Na mô hạt la đát-na đá la dạ giaNamô ha lê gia bà lô chỉ đê thất-bàn la gia Bồ đề tát đỏa gia Ma ha tát đỏa gia Ma ha ca lô ni ca gia Đá điệt tha : Chỉ lý bát đà nhĩ Nhĩ lý bàn đà nhĩ Chí lý, nhĩ lý bàn đà nhĩ Tự ma bàn đà nhĩ Tự ma, ma mê ca thất-hệ đà đề mạt yết-la ma đô Tóa ha.

(NAMO RATNATRAYÀYA. NAMAH ÀRYA AVALOKITE’SVARÀYA BODHISATVÀYA MAHÀSATVÀYA MAHÀ KARUNIKÀYA TADYATHÀ : KILI BANDHA ME MILI BANDHA ME KILI MILI BANDHA ME SIMA BANDHA ME SIMA ME KÀSTHA NATI KRÀMAT SVÀHÀ ).

Chú vào nước 21 biến, rưới vảy mười phương liền thành Kết Giới.Chú Đà La Ninày, trước tiên nên thọ trì, chuẩn bị trước khi Kết Giới. Như Ta kết giới, liền được thành tựu.

* Đà la-ni Phụng Thỉnhlà :

- Nạp mô la đát-na đá-la dạ gia. Na mô ha lê gia bà lộ chỉ đê nhiếp bàn la gia Bồ đề tát đỏa gia Ma ha tát đỏa gia Ma ha ca lỗ ni ca gia Đá điệt tha :Chí lý, chí lý Nhĩ lý, nhĩ lý Chí lý lê Yên hê, bà già bạn A lê gia bà lô chỉ đê nhiếp bàn la Sa ha.

(NAMO RATNATRAYÀYA. NAMAH ÀRYA AVALOKITE’SVARÀYA BODHISATVÀYA MAHÀSATVÀYA MAHÀ KARUNIKÀYA TADYATHÀ : KILI KILI MILI MILI CILI CILI EHI BHAGAVAN ÀRYA AVALOKITE’SVARA SVÀHÀ).

Nếu muốn thỉnh Ta, nhưTađã nói. Chí tâm thỉnh xong, sau đó từ ngày 8 cho đến ngày 15 của tháng Bạch Nguyệt, mỗi ngày ba thời dùng nước thơm ( Hương dịch ) tắm gội, mặc áo sạch mới. Mỗi ngày ba thời, mỗi thời đều tụng 108, cho đến ngày 15 thì gấp nhiều hơn, tác Thắng Cúng Dường, tụng không có biến số, tức nửa đêm của ngày đó, Bồ Tát Quán Thế Âm tự đến, hiện thân màu vàng ròng với tướng tốt đẹp trang nghiêm, đủ các thứ hào quang, tỏa ra một ngàn loại ánh sáng. Khi ấy Chú Sư, tâm đừng sợ hãi.Khi nhìn thấy xong, liền được Thắng Địa Đà La Ni Tam Ma Địa.Liền thấy PhậtA Súc Beä ở phương Đông, PhậtBảo Tướngở phương Nam, PhậtA Di Đàở phương Tây, PhậtVi Diệu Thanhở phương Bắc. Khi nhìn thấy tướng tốt đẹp và ánh hào quang của vô lượng chư Phật Như Lai ở mười phương của chư Phật như vậy, thì lúc xả bỏ thân này sẽ sanh về cõi Phật thanh tịnh, tất cả nơi mà chư Phật đã khen ngợi”.

Bấy giờ, Bồ Tát Quán Thế Âm nói Chú này xong, thì 92 câu đê Bồ Tát đều được trụ nơi Địa A Tỳ Bạt Trí, được thấy tất cả chư Phật, được nghe Chánh Pháp, được diệt tất cả tội nặng của ba Chướng, được công đức to lớn. Như cõi Diêm Phù Đề đè lên số hạt bụi nhỏ của mặt đất, Hành giả tự thân được mọi thứ công đức trang nghiêm, thì tất cả bệnh khổ với các nghiệp ác thảy đều tiêu diệt.Lại được biện tài nhanh chóng, lại được tâm tự tại, tùy theo nguyện đều thỏa mãn, được đầy đủ tất cả Ba La Mật, tùy ý vãng sanh về mười phương Tịnh Thổ, thấy tất cả chư Phật, nghe nói Chính Pháp, được tất cả Tam Muội của Bậc Thủ Lăng Nghiêm, lại được Thất Bảo Tam Ma Đề, Phóng Quang Tam Ma Đề, Đại Hải Thủy Tam Ma Đề, Đằng Không Tam Ma Đề, Xuất Một Tam Ma Đề, được hằng hà sa đẳng Tam Muội của các bậc như vậy. Lại được vô lượng Môn Đại Lực Đà La Ni.Công đức của Chú này và công đức của 80 vạn Đà La Ni không sai khác.

Do sức của Chú này, khiến cho ta được thành Pháp Thân như vậy. Lại hay làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, mau được mọi thứ :thông minh, biện tài, Pháp Thân thanh tịnh.

Do sức của Chú này, một lần nghe Tổng Trì thì vĩnh viễn chẳng quên mất. Do sức của Chú này mà đối với nơi :Sở Tán, Phóng Tố, Sở Trước của ta, thì tất cả trọng tội của chúng sanh đều được tiêu diệt, tự nhiên giáng phục, tiêu trừ tất cả người ác, Quỷ ác, Thần ác. Tất cả chúng sanh nghe tên Chú này và thọ trì thì vĩnh viễn chẳng bị đọa vào Địa Ngục, Ngã Quỷ, Súc Sanh”.

Đức Phật nói :“Lành thay! Lành thay! Lực Chú của ông.Nếu có bốn Chúng hay thọ trì, thì công đức và uy lực có được đều như Ta không sai khác”.

Lúc Bồ Tát Quán Thế Âm nói Chú này, thời ba ngàn Đại Thiên Thế Giới chấn động theo sáu cách, bên trên đến Trời A Ca Nị Tra ( SắcCứu Cánh Thiên ), trong đó tất cả Trời, Rồng, Dạ Xoa, tất cả Quỷ Thần, Nhân, Phi Nhân đều sợ hãi chẳng yên, lông trên thân đều dựng đứng và đồng ca ngợi rằng: “Lành thay! Thần lực của Chú này, chẳng thể nghĩ bàn !Tất cả chúng sanh đều nương nhờ lợi ích”.

Thời Bồ Tát Quán Thế Âm lại bạch Phật rằng :“Nguyện xin Đức Phật chứng tri ! ”.

Đức Phật bảo :“Lành thay! Ông đã nói Chú ở chỗ nầy, thì bốn Chúng thảy đều dùng tâm cung kính, thọ trì, cúng dường”.

Bấy giờ, Bồ Tát Quán Thế Âm bạch Phật rằng: “Nay con thọ trì Chú này, thì tất cả Đại Địa chấn động theo6 cách, tất cả chúng sanh cùng với các Trời Rồng thảy đều lo sợ. Thần lực của Chú này chẳng thể luận bàn được.Do Nhân Duyênnào khiến cho con và tất cả chúng sinh, cứ có người thọ trì thì được Kim Cang Tam Muội. Khiến cho người đó với tất cả chúng sinh, cứ có người thọ trìthìtâm được an ổn, gặt được công đức với thần lực như con không khác ?

Công năng của Chú này, con sẽ nói ngay : Sáng sớm, khởi tụng Chú 21 biến, hằng trì chẳng quên thì hay trừ tội nặng Ngũ Nghịch và được thành tựu tất cả Tam Muội của bậc Thủ Lăng Nghiêm, cũng được thành tựu tất cả Đà La Ni, lại được thành tựu tất cả Phật Pháp. Nếu có thể hằng thường dùng Tâm tụng niệm chẳng quên, thì thường thấy Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Bồ Tát Phổ Hiền, Bồ Tát Quán Thế Âm và gặp Thiên Nữ xin thọ Phật Pháp.

Nếu muốn tạo Tượng, thì nên vẽ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi trên tòa Hoa sen, thân màu vàng rực, mặc áo năm màu. Gian phòng nhỏ bên trái vẽ Bồ Tát Phổ Hiền ngồi trên núi Tu Di, bên trái núi đó có con Rồng 7 đầu quấn quanh núi, ở bên trái ló ra 7 cái đầu, hướng nhìn Bồ Tát. Vị Bồ Tát ấy ngồi Kiết Già, hai taycầm quyển Kinh để đọc, mặc áo năm màu. Đức Phật ấy, tayphải tác Ấn Văn, tay trái nắm áo Cà Sa đè đầu gối, nói Pháp.

Gian nhỏ bên phải, vẽ Bồ Tát Quán Thế Âm ngồi trên Tòa Hoa, mặc áo trắng, quỳ dài chắp tay hướng về Đức Phật, lắng nghe Đức Phật nói Pháp. Bên trái có ba tay :Một tay cầm bông hoa, một tay cầm bình Táo Quán, một tay cầm Kinh Giáp. Bên phải có ba tay :Một tay Thí Vô Úy tuôn vật báu, một tay cầm sợi dây, một tay cầm trái châu. Trên đỉnh đầu của Bồ Tát có một Đức Phật.

Lại hướng xuống dưới, vẽ Hành Giả quỳ dài đốt hương, cầm trái Châu hướng nhìn Bồ Tát.Bên dưới Bồ TátPhổHiền, vẽ Thiên Nữ Tỳ Đà ngồi theo thế quỳ dài, nâng cái mão hoa, mặc áo trắng, hướng nhìn Bồ Tát đang ngồi ở trên Tọa Cụ. Tượng đó nên vẽ thanh tịnh, không được dùng keo nấu bằng da thú.Vẽ y theoTịnh Pháp.

Tiếp nói về Pháp Vào Đàn Thọ Trì.Khởi đầu ngày thứ tám của tháng Bạch Nguyệt vào Đạo Trường, dùng phân bò xoa tô mặt đất rồi mới làm Đàn: từ 4 khuỷu taycho đến 8 khuỷu tay, làm 5 màu. Nên có 16 cái bình ( QuánTử ) chứa nước với hoa, quả trái. Nên có 16 lò hương, 16 cái chén nhỏ thắp đèn, thức ăn uống, mọi loại quả trái, tô mật, thạch mật, đốt mọi thứ hương trong 6 thời chẳng dứt.

Hành Giả tắm gội, mặc áo mới như Pháp.Chỉ được ăn gạo nếp, cháo nhừ, sữa, lạc, tô mật, quả trái, thạch mật, càn cương, hồ tiêu, tất bát, ngoài ra chẳng được ăn uống.Từ ngày thứ8hiến Phật cho đến ngày thứ 15, chẳng được thu dọn. Qua ngày 16 mới dọn dẹp, ném vứt vào nước và dùng lửa thiêu đốt.

Trở lại, từ ngày mồng tám mới vào Đạo Trường, đối trước Phật Đàn, liền dùng phân bò xoa đất, làm Đàn rộng một khuỷu tay. Lấy gỗ cây khô với cây Dâu, rồi lấy một miếng, chú một biến phóng vào trong Đàn, cho đến 21 biến thì xong.Sau đó, lấy 7 loại Cốc Tử ( Hạtlúa nếp ), dùng tay lấy, chú một biến rồi ném vào trong lửa cho đến 21 biến. Ban ngày cũng được, đêm tối cũng được. Mỗi ngày một lần cho đến ngày 15, đừng quên thiêu đốt.Đến ngày 15, chẳng được ngủ nghỉ, nhất tâm tụng chú.Đêm đó, hoặc có lúc đất rung động hoặc có lúc nghe được âm thanh to lớn, Hành giả đừng sanh kinh quái, cứ antâm tụng chú, niệm hai vị Bồ Tát. Bấy giờ Phổ Hiền, Quán Thế Âm liền hiện thân nói với Hành Giả rằng :“Ngươi tu cầu nguyện gì ? Tùy theosự mong cầu, đều được đầy đủ”.

Nếu chẳng được hiện Tướng xứng tâm, thì từ ngày 16 trừ bỏ Đàn, liền làm Đàn mới, dựa theoPháp lúc trước. Hành Đạo tụng Chú, cho đến khi được thấy mãn nguyện làm giới hạn.Hành Giả liền vào Đàn Trường, chỉ được gặp và nói chuyện với người phụ giúp, ngoài ra không được nói không được gặp người khác.Hành Giả ở trong Đạo Trường, cũng đừng nói chuyện, muốn nói gì phải đợi ra khỏi Đạo Trường.

Pháp Quán Thế Âm - Phổ Hiền Đà La Ni đã đầy đủ

PHỔ HIỀN ĐÀ LA NI

Phục hồi và chú thích Phạn văn :Huyền Thanh

- NAMORATNATRAYÀYA: Quy mạng Tam Bảo

- NAMAH ÀRYA AVALOKITE’SVARÀYA BODHISATVÀYA 

MAHÀSATVÀYA MAHÀKARUNIKÀYA: Kính lễ Đấng Đại Bi Bồ 

Tát Ma Ha TátThánhQuán Tự Tại.

- TADYATHÀ:Như vậy, liền nói Chú là

- KHAGAVEKHAGAVEKHAGAVE : Hãnh diện như mặt trời, Điều

kiệntốt đẹp như mặt trời, rực rỡ huy hoàng như mặt trời.

- CAKSÏUKHAVE: Hãnh diện tự hào về mắt

- ‘SRÙTRAKHAVE: Hãnh diện tự hào về tai

- GRÀNAKHAVE: Hãnh diện tự hào về mũi

- JIHVAKHAVE: Hãnh diện tự hào về lưỡi

- KÀYAKHAVE: Hãnh diện tự hào về thân

- MANAKHAVE: Hãnh diện tự hào về ý

- SARAKHAVE: Hãnh diện tự hào về sự bền chắc kiên cố

- VEMAKHAVE: Hãnh diện tự hào về sự khoáng trương to lớn

- SAMÏJAKHAVE:Hãnh diện tự hào về sự thông minh hiểu biết

- JÌVITÀKHAVE: Hãnh diện tự hào về đời sống linh động

- PRANIDHANAKHAVE: Hãnh diện tự hào về Nguyện

- SAMADHIKHAVE: Hãnh diện tự hào về Định

- PÀRAMITAKHAVE: Hãnh diện về Bờ Kia ( Bờ Giải thoát )

- BODHIKHAVE: Hãnh diện tự hào về Tuệ Giác

- SARASARASARVA BUDDHA ADHISTÏITE : Kiên cố bền chắc 

theosự gia trì của tất cả Phật.

- VARAVARASARVA DHARMA ADHISTÏITE : Tuân theo vâng thuận

theosự gia trì của tất cả Pháp.

- KARAKARASARVA SAMGHA ADHISTITE : Tạo tác thi hành 

theosự gia trì của tất cả Tăng.

- NAMAHÀRYAAVALOKITE’SVARÀYA BODHISATVÀYA

MAHÀSATVÀYA MAHÀ KARUNIKÀYA: Kính lễ Đấng Đại Bi Bồ 

Tát Ma Ha Tát Thánh Quán Tự Tại .

- NAMODVATINAMÏBODHISATVA KOTÏINAMÏ: Quy mang 20 Triệu 

Bồ Tát.

- ADHISTÏITETUMÀM: Gia trì cho tôi

- AYURMALAMÏCADANAMÏTU: Khiến cho tôi cắt đứt sự cấu uế 

củathọ mạng ( Thọ Mạng Cấu )

- TADYATHAØ :Như vậy

- SURABHISURABHI: Đức hạnh chiếu sáng, đức hạnh tỏa sáng

- MUNÏI ,MUNÏI , MAHÀ MUNÏI : Tịch mặc, tịch mặc, đại tịch mặc

- MATI ,MATI , MAHÀ MATI : Tuệ, tuệ, đại tuệ

- NAMAHÀRYAAVALOKITE’SVARÀYA BODHISATVÀYA 

MAHÀSATVÀYA MAHÀKARUNIKÀYA: Kính lễ Đấng Đại Bi Bồ 

Tát Thánh Quán Tự Tại.

- SIDDHYANTUSAMANTABHADRADHÀRANÌ : Khiến cho thành 

tựuPhổ Hiền Đà La Ni

- SVÀHAØ :Thọ hưởng mùi vị an lạc tịch tĩnh của Đại Niết Bàn

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/04/2024(Xem: 270)
Cư sĩ Huyền Thanh, thế danh là Nguyễn Vũ Tài, sinh ngày 01/04/1958 tại Thị xã Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Thân phụ tên là Nguyễn Vũ Nhan, nguyên quán tại làng Xối Đông, tổng Thần Lộ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Thân mẫu tên là Vũ Thị Ni, nguyên quán tại làng Lịch Diệp, tỉnh Nam Định. Thuở nhỏ Nguyễn Vũ Tài đã Quy Y với Hòa Thượng Thích Thanh Chiên, Trụ trì chùa Hải Vân ở khu Ấp Chợ, xã Tân Sơn Hòa, tỉnh Gia Định và được Thầy ban cho Pháp Danh là Huyền Thanh. Năm 1978, tốt nghiệp Cao Đẳng Sư Phạm khoa Toán Lý và đi dạy môn Toán cấp II từ năm 1979 cho đến năm 2003 thì chuyển qua làm công tác Giám Thị ở các trường Trung học Cơ sở Ngô Quyền quận Tân Bình, trường Trung học Cơ Sở Hoàng Hoa Thám quận Tân Bình, và trường Trung học Cơ Sở Nguyễn Gia Thiều quận Tân Bình cho đến khi chấm dứt công tác vào năm 2010.
25/03/2022(Xem: 5048)
Đừng quên vị bổn sư; Hãy cầu nguyện với người trong mọi lúc. Đừng tán tâm; Hãy nhìn vào tinh túy của tâm. Đừng quên cái chết; Hãy để nó thúc giục con tu tập Pháp. Đừng quên chúng sanh; Với lòng bi mẫn, hãy hồi hướng công đức cho chúng sanh, và cầu nguyện với lòng khát vọng.
02/12/2021(Xem: 16661)
Nam Mô A Di Đà Phật. Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức, Kính thưa quý đồng hương Phật tử thân mến, Kể từ ngày 12/04/2020, nước Úc của chúng ta cũng như các nước khác trên toàn thế giới đã bắt đầu bị đại dịch Covid hoành hành và lây lan một cách nhanh chóng. Hai năm qua toàn thế giới đã phải chịu ảnh hưởng về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, thương trường. Ngay cả đời sống tinh thần của mọi người dân cũng bị ảnh hưởng không ít, nhất là đối với những gia đình đã phải nhìn thấy người thân ra đi trong sự cô đơn lạnh lẽo, không người đưa tiễn. Biết bao hoàn cảnh đau thương... Tính đến hôm nay nước Úc của chúng ta đã được ổn định phần nào, trên 80% người dân đã được tiêm ngừa theo quy định của chính phủ, cũng như việc không còn phải lockdown, người dân được đi lại tự do giữa các tiểu bang cũng như được hội họp, sinh hoạt hội đoàn và tôn giáo. Trong đại dịch, 2 năm qua nước Úc số người bị nhiễm Covid lên đến 113,411 người và số người không may mắn đã ra đi vĩnh viễn là 1,346 người.
03/09/2021(Xem: 31588)
(Thắp đèn đốt hương trầm xong, đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm) 1. TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN: Án, lam xóa ha. (3 lần) 2. TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN: Tu rị, Tu rị, Ma ha tu rị, Tu tu rị, Ta bà ha. (3 lần) 3. TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN Án, Ta phạ bà phạ thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần) 4. PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN: Án, Nga nga nẵng tam bà, phạ phiệt nhựt ra hồng (3 lần) 5. AN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN: Nam mô tam mãn đa một đà nẫm, Án, độ rô độ rô, địa vỷ ta bà ha (3 lần) Hộ pháp, Vĩ Đà thị chứng minh Thân trụ Phật tiền Tâm Tư nguyện Tưởng bằng bí chú đắc oan linh Hà chơn bất thức trì niệm Luật Thiên kinh vạn quyển vô nhất tự Nẳng mô tô tất đế, đa rị, đa rị, mạn đà, mạn đà, ta bà ha (3 lần)
01/11/2020(Xem: 16967)
1/Đệ nhất đại nguyện: quốc vô ác đạo. Đại nguyện thứ nhất: Cõi Cực-lạc không có các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy) 2/Đệ nhị đại nguyện: bất đọa ác đạo. Đại nguyện thứ hai: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc không đọa vào các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 3/ Đệ tam đại nguyện: thân chơn kim sắc. Đại nguyện thứ ba: Thân của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có sắc vàng. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 4/ Đệ tứ đại nguyện: hình sắc tương đồng. Đại nguyện thứ tư: Hình sắc của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều bình đẳng, không đẹp xấu khác nhau. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 5/Đệ ngũ đại nguyện: túc mạng trí thông. Đại nguyện thứ năm: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có túc mạng thông, biết rõ các kiếp quá khứ. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)
04/03/2020(Xem: 38717)
Lễ Dâng Y Kathina & Cúng Dường Phẩm Vật chư Tăng tại Bồ Đề Đạo Tràng India, Nhân Lễ tưởng niệm ngày đức Phật (thái tử Siddartha Gautam) xuất gia, được sự trợ duyên của chư Phật tử và quí thiện hữu hảo tâm, chúng tôi đã thực hiện một buổi Dâng Y Kathina và cúng dường phẩm vật đến chư Tăng thuộc 3 truyền thống Mật tông Kim cương thừa (金剛乘, vajrayāna), truyền thống chư Tăng Nguyên Thủy các nước Theravada và chư Tăng Ni truyền thống Đại Thừa (Mahayana) tại Bồ Đề Đạo Tràng.
26/11/2019(Xem: 8223)
Giáo dục, phạm vi rộng, có nghĩa truyền thừa kinh nghiệm, hiểu biết, kiến thức chuyên môn, kiến thức tổng quát… Mỗi chuyên ngành có những đặc tính cần truyền thụ cho lớp kế thừa, đó là giáo dục chuyên môn. Trong nhà Phật, việc giáo dục chú hướng vào nhận thức bản thể, hiểu biết về thân tâm, nắm rõ luật nhân quả, cải tạo nhân cách và làm chủ cảm xúc,làm chủ tâm hành, có nghĩa hành giả cần làm chủ sanh tử trong cõi tử sanh.
28/08/2019(Xem: 6493)
Lần đầu tiên chùa Đức Viên (2440 McLaughlin Avenue, San Jose, California) hội đủ duyên lành cung thỉnh chư Tăng tu viện Namgyal (Ithaca, New York) kiến tạo một đàn tràng thiêng liêng bằng cát màu tuyệt đẹp trong hai tuần (từ ngày 12/8 đến ngày 24/8/2019). Đó là Kalachakra Mandala Thời Luân (Bánh Xe Thời Gian), biểu tượng cho vũ trụ để cầu nguyện cho thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc. Thời Luân là cung trời an lành, nơi trú xứ của các vị Thánh Hộ Phật, mang lại nguồn an lạc, có năng lực gia trì mạnh mẽ của chư Phật, và thanh tịnh hóa tại địa điểm khởi tâm cung thỉnh. Trong Thời Luân có 28 con thú trên lưng nở hoa sen là: 7 con heo, 7 con ngựa, 7 con voi và 7 con sư tử kéo xe chở các vị Thánh Hộ Phật.
07/08/2019(Xem: 4456)
Tỉnh Thức Rực Rỡ: Đọc Sách “Vivid Awareness”, Bài này sẽ giới thiệu và tóm lược tác phẩm “Vivid Awareness: The Mind Instructions of Khenpo Gangshar” (sẽ viết tắt là: VA) của đại sư Khenchen Thrangu, dựa vào bản Anh dịch của David Karma Choephel, ấn bản 2011, nhà xuất bản Shambhala. Sách này nói về một Thiền pháp của Kim Cang Thừa. Lý do chọn sách này vì qua đây có thể hiểu được và thâm nhập được Thiền Tông – tức là Thiền Trúc Lâm của Việt Nam.
24/05/2019(Xem: 5490)
Sau 12 năm học tập và làm việc tại nước Nga, năm 1995 tôi về Việt Nam và vào làm việc tại công ty FPT. Chân ướt chân ráo chưa hiểu nhiều về công việc và cuộc sống trong nước, may thay tôi được anh Phan Ngô Tống Hưng, lúc đó là phó Chủ tịch HĐQT kiêm phó Tổng giám đốc dẫn đi đảnh lễ Thượng tọa Thích Viên Thành. Và thế là Thượng tọa trở thành người thầy sơ tâm đầu tiên của tôi cho đến ngày Thầy viên tịch năm Nhâm Ngọ -2002. Thượng tọa Thích Viên Thành là Tổ thứ 11 của Tùng Lâm Hương Sơn và luôn là người thầy tôn kính của tôi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567