Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mật Tạng Việt Nam số 39

02/05/201320:17(Xem: 8286)
Mật Tạng Việt Nam số 39

MẬT TẠNG

PHẬT GIÁO VIỆT NAM

TẬP II

Ban phiên dịch:

Thích Viên Đức, Thích Thiền Tâm

Thích Quảng Trí, Thích Thông Đức

Cư sĩ Huỳnh Thanh, Như Pháp Quân

---o0o---

MẬT TẠNG VIỆT NAM SỐ 39

PHẬT THUYẾT KINH THÁNH DIỆU MẪU ĐÀ LA NI

Mật Tạng Bộ.4No.1303( Tr.421 - Tr.422 )

Truyền Giáo Đại Sư Pháp Thiên phụng chiếu

dịchPhạn ra Hán văn.

Việt dịch :Huyền Thanh

Như vậy tôi nghe, một thời Đức Phật ngự tại Đại Thành A Noa Ca Phộc Đế.Bấy giờ, có vô số Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Đạt Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhân , Phi Nhân với Mộc Tinh, Hỏa Tinh, Kim Tinh, Thủy Tinh, Thổ Tinh, Thái Âm, Thái Dương, La Hầu, Kế Đô, 27 Diệu của nhóm như vậy cung kính vây quanh. Kim Cương Tam Muội Trang Nghiêm Đạo Trường này lại có vô số ngàn Bồ Tát Ma Ha Tát chúng.Tên các vị ấy là: Bồ Tát Kim Cương Thủ, Bồ Tát Kim Cương Phẫn Nộ, Bồ Tát Kim Cương Quân, Bồ Tát Kim Cương Bá Ni, Bồ Tát Kim Cương Chủ, Bồ Tát Kim Cương Trang Nghiêm, Bồ Tát Kim Cương Minh, Bồ Tát Kim Cương Số, Bồ Tát Quán Tự Tại, Bồ Tát Phổ Quán Thế, Bồ Tát Cát Tường, Bồ Tát Liên Hoa Tràng, Bồ Tát Liên Hoa Tạng, Bồ Tát Liên Hoa Mục, Bồ Tát Từ Thị, Bồ Tát Ma Ha Tát Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử. Các Vị Đại Bồ Tát như vậy cung kính vây quanh.Đức Phật vì tất cả mà thuyết Pháp: Sơ thiện, Trung thiện, Hậu thiện. Nghĩa đó thâm sâu, ngôn ngữ xảo diệu, thuần nhất không tạp, đầy đủ thanh bạch, trang nghiêm như ý.

Lúc đó Bồ Tát Ma Ha Tát Kim Cương Thủ liền từ chỗ ngồi đứng dậy, dùng sức thần thông nhiễu quanh bên phải Đức Thế Tôn trăm ngàn vòng, cúi đầu làm lễ rồi ngồi Kiết già, dùng mắt thanh tịnh quán sát Đại Chúng xong, liền chắp tay Kim Cương bạch với Đức Thế Tôn rằng :"Có các Tú Diệu, hình mạo hung ác, tâm nhiều phẫn nộ, não hại chúng sinh. Hoặc chặt đứt mệnh căn, hoặc tổn hoại tài bảo của con người, hoặc làm giảm sút tinh thần của con người, hoặc cần tuổi thọ của con người.Như vậy thường gây tổn não cho tất cả chúng sinh.Nguyện xin Đức Thế Tôn nói Pháp Chính Mật để tác ủng hộ".

Đức Phật bảo :"Lành thay! Lành thay! Ông có lòng Từ mẫn, hay vì lợi ích cho tất cả chúng sinh mà hỏi về Pháp bí mật tối thượng của Như Lai. Nay ông hãy lắng nghe, hãy khéo suy nghĩ, Ta sẽ vì ông mà nói.

Này Kim Cương Thủ !Các Tú Diệu ác cùng với hàng Trời, Rồng , Dạ Xoa, Càn Đạt Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhân, Phi Nhân v.v...nhưvậy, nên dùng nước Ứ già tối thượng, âm nhạc... y theo Pháp gia trì, mỗi mỗi cúng dường khiến cho họ vui vẻ diệt trừ các ác ".

Thời ở ngay trong trái timcủa Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tuôn ra ánh hào quang lớn tên là Bi Quang nhập vào đỉnh đầu các Tú Diệu. Trong khoảng sát na, tất cả Tú Diệu với Nhật, Nguyệt liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu làm lễ dưới chân Đức Phật rồi quỳ gối phải sát đất, chắp tay cunh kính bạch với Đức Phật rằng :"Bạch Thế Tôn ! Đức Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác Nguyện xin ban ân nhiếp thọ !Hãy vì chúng con mà nói Chính Pháp. Nếu chúng con nghe được sẽ ủng hộ các hữu tình, khiến cho họ không có não hại cùng với hết thảy sự cấm buộc cột trói ( Cấmphộc ) đao kiếm, độc trùng, tất cả thứ độc. Con sẽ kết Địa Giới để thường ủng hộ ".

Bấy giờ Đức Như Lai Thích Ca liền nói Chân Ngôn Cúng Dường Tú Diệu :

- Án- Mính củ la-ca da Sa-phộc ha. Án- Thi đán xả vĩSa-phộc hạ.Án- Lạc khất-đán nga câu ma la dã Sa-phộc hạÁn- Mạo đà dã, mạo đà dã Sa-phộc hạ.Án- Bộ nga sa-ba na dã Sa-phộc hạ.Án- A tô la tát đa ma dãSa-phộc ha.Án- Khất-lý sắt-noa phộc la-noa dã Sa-phộc haï.Án- A mật-lý đa bát-lý dạ dã Sa-phộc haï.Án- Nhũ để kế đa phệ Sa-phộc hạ

( OM- ANÕGÀRAKÀYA SVÀHÀ. OM- ‘SANIH ‘SCETESVÀHÀ. OM-‘SUKRAHKUMALÀYA SVÀHÀ. OM-BUDHÀYABUDHÀYA SVÀHÀ. OM-PITASVANÀYA SVÀHÀ.OM-ASURAATMÀYA SVÀHÀ. OM- KRSNAAVARNÀYASVÀHÀ. OM- AMRTA‘SRÌYÀYASVÀHÀ. OM- ANUDGATAVIHSVÀHÀ ).

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói Chân Ngôn xong liền bảo Bồ Tát Kim Cương Thủ rằng: "Cửu Diệu Chân Ngôn như vậy, người niệm đều được thành tựu. Trước hết nên y theo Pháp dùng nước thơm xoa Man Noa La ( Đàntrường ) rộng 12 ngón tay. Hoặc dùng vật khí bằng vàng bạc, hoặc vật bằng đồng, vật bằng sành sứ hiến nước Ứ Già cúng dường Tinh Diệu, dùng Chân Ngôn trước đều niệm 108 biến, thì việc mong cầu ắt đều thành tựu ".

Đức Phật bảo :"Này Bồ Tát Kim Cương Thủ! Nay Ta lại nói Đà La Ni tên là Thánh Diệu Mẫu có sức lực của Đại Minhhaylàm việc ủng hộ, tất cả Tú Diệu nghe được đều vui vẻ. Nếu có Bật Sô, Bật Sô Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di nghe Kinh Điển này ở trong Man Noa La hiến Ứ già cúng dường, niệm Chân Ngôn này 7 biến liền được giàu có, caosang, trường thọ. Nếu mỗi ngày đều trì tụng, thì tất cả Tú Diệu ấy hay làm cho thỏa mãn tất cả ý nguyện của Hữu Tình.

Đà La Ni Tú Diệu Mẫu là :

- Nẵng mô la đát-nẵng đát-la dạ dã. Nẵng mô một đà dã Nẵng mô phộc nhật-la đà la dã.Nẵng mô bát nại-ma đà la dã Nẵng mô tát phộc cật-la ha nản Tát phộc Thương bà lị Bố la ca nản Nẵng mô nhược khất-xoa đát-la nản.Nẵng mô nạp-phộc na xả la thi nam Đát nễ-dã tha : Án- Một đệ Phộc nhật-lý, phộc nhật-lý Bát nại-mính Sa la Sa la Bát-la sa la, bát-la sa la Sa-ma la, sa-ma la Khất-lý noa dã, khất-lý noa dã Mạt lý-noa dã Già đa dã, già đa dã Tát phộc vĩ cận-nẵng Cụ lỗ, cụ lỗ thân na, thân na Tần na, tần na Sát bả dã, sát bả dã Phiến đế, phiến đế Nan đế, nan đế Na ma dã, na ma dã Nạp-lỗ đát na lị xá dã tát-ma nam Ma Ma Lạc khất-xoa, lạc-khất xoa Tát phộc tát đát-phộc thất ta Tát phộc nhược khất-sát đát-la, khất-la ha bế nản Ma nễ lị-phộc la duệ Bà nga phộc để Ma hạ ma duệ , bát-la sa đà dã Tát phộc bá bá nễ di Tát phộc tát đát-phộc nan Tán ni, tán ni Độ lỗ, độ lỗ Ba nga phộc đế Tán ni, tán ni Tô mẫu, tô mẫu Tổ mẫu, tổ mẫu Bà phộc bà phệ Ô cật-lị, ô cật-la Đa bế bố la dã Ma ma Tát phộc tát đát-phộc nan tả Ma nỗ la tha Tát phộc đát tha nga đa địa sắt-xỉ đa tam bà duệ Sa-phộc ha. Án- Saphộc hạ. Hồng Sa-phộc hạ.Gật-lăng Sa-phộc hạ. Thông Sa-phộc hạ.Định Sa-phộc hạ.Phộc nhật-la đà la dã Sa-phộc hạ Bát nại-ma đà la dã Sa-phộc hạ.A nãnh để-dã dã Sa-phộc ha.Tô ma dã Sa-phộc hạ. Đà la ni tô đa dãSa-phộc hạ. Mẫu đà dã Sa-phộc hạ. Vật-lý hạ tát-ba đa duệ Sa-phộc hạ.Tốc khất-la dã Sa-phộc hạ.Ngật-lý sắt-noa phộc la-noa dã Sa-phộc hạ.La hạ phệ Sa-phộc hạ. Ca đa phệ Sa-phộc hạ. Một đà dã Sa-phộc hạ. Phộc nhật-la đà la dã Sa-phộc hạ Bát na-ma đà la dã Sa-phộc hạ.Câu ma la dã Sa-phộc hạ Nhược khật-xoa đát-la nản Sa-phộc haï. Tát lý vũ ba na-la phộc nản Sa-phộc hạ.Án- Tát lị-phộc vĩ nễ, hồng, phát tra Sa-phộc hạ

( NAMORATNATRAYÀYA. NAMOBUDDHÀYA. NAMOVAJRADHÀRÀYA. NAMO PADMA DHÀRÀYA. NAMO SARVA GRAHÀNAMSARVAA’SAM PARIPÙRAKANÀM. NAMO NAKSATRANÀM. NAMO DHVA DA‘SA RSINÀM TADYATHÀ : OM- BUDDHE VAJRI VAJRI PADMI SARA SARA PRASARA PRASARA SMARA SMARA GRNÀYA GRNÀYA AVARNÀYA JATÀYA JATÀYA SARVA VIGHNÀM KURU KURU CCHINDHA CCHINDHA BHINDHA BHINDHA STAMBHÀYA STAMBHÀYA ‘SÀNTI ‘SÀNTI DÀNTE DÀNTE NAMÀYA NAMÀYA TRÙ SADHÀRI ‘SAYA ATMANÀM MAMA RAKSA RAKSA SARVA SATVANÀMCA SARVA NAKSATRA GRAHE BHYAH MADIRVARÀYE BHAGAVATI MAHÀ MAYE PRASÀDHÀYA SARVA PÀPAN IME SARVA SATVANÀM CANDI CANDI DHURU DHURU BHAGAVATI CANDI CANDI SUMU SUMU CUMU CUMU BHAVA BHAVE UGRI UGRA DHAPE PÙRÀYA MAMA SARVA SATVANÀMCA MANU ARTHA SARVA TATHÀGATA ADHISTITA SAMBHAVE SVÀHÀ. OM- SVÀHÀ. HÙMSVÀHÀ. TRIMSVÀHÀ. ‘SRÙMSVÀHÀ. HRUM SVÀHÀ. VAJRA DHÀRÀYA SVÀHÀ. PADMA DHÀRÀYA SVÀHÀ. ADITYÀYA SVÀHÀ. SOMÀYASVÀHÀ. DHÀRANISUTÀYASVÀHÀ. BUDHÀYASVÀHÀ. VRHASPATÀYESVÀHÀ. ‘SUKRÀYASVÀHÀ. KRSNAAVARNÀYASVÀHÀ. RAHUVESVÀHÀ. KETUVESVÀHÀ. BUDDHÀYA SVÀHÀ. VAJRA DHÀRÀYASVÀHÀ. PADMA DHÀRÀYA SVÀHÀ. KUMALÀYASVÀHÀ. AKSATRANÀMSVÀHÀ. SARVAUPADRAVANÀMSVÀHÀ. OM-SARVAVIDE HÙM SVÀHÀ ) Ï

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói Đà La Ni này xong, liền bảo Bồ Tát Kim Cương Thủ rằng: "Nay, bí mật tối thượng của Chân Ngôn này là hay cho chúng sinh mãn tất cả nguyện. Nếu có người cầu sự trường thọ, thì vào ngày mồng bảy tháng tám bắt đầu thọ trì trai giới đến đêm ngày 14, y theo Pháp cúng dường Tú Diệu cho đến ngày 15, trong một ngày đêm đọc tụng Đà La Ni này thì người đó sẽ sống lâu đến 99 năm. Hết thảy hàng Lôi Điển, Rồng, Quỷ, các Tinh Diệu ác đều chẳng có thể gây sợ hãi.Lại được Túc Mệnh Trí, mọi sở nguyện đều như ý ".

Khi ấy tất cả Tú Diệu nghe lời Đức Phật nói đều khen ngợi rằng :"Lành thay ! Lành thay !Thật là hiếm có !Chúng con xin thọ trì". Nói xong, liền cúi đầu làm lễ dưới chân Đức Thế Tôn rồi đột nhiên chẳng hiện .

PHẬT THUYẾT KINH THÁNH DIỆU MẪU ĐÀ LA NI

07 /09/ 1998

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/08/2015(Xem: 4594)
Hôm nay, 19-11-2010, tôi đã từng được yêu cầu nói về một số hiểu biết thông thường sai lạc về Phật Giáo. Và có nhiều thứ đa dạng khác nhau, với nhiều lý do khác nhau. Có một số đặc thù là văn hóa, hoặc là đối với văn hóa phương Tây, hay đối với Á châu và những nền văn hóa khác bị ảnh hưởng bởi sự suy nghĩ của phương Tây hiện đại. Có những hiểu biết sai lầm có thể đến từ những vùng văn hóa khác: sự suy nghĩ truyền thống của Trung Hoa, và v.v… Có thể có sự hiểu biết sai lầm sinh khởi phổ quát hơn, qua những cảm xúc phiền não của mọi người. Có thể có sự hiểu biết sai lạc sinh khởi chỉ từ sự kiện rằng tài liệu thì khó để hiểu. Sự hiểu biết sai lạc có thể sinh khởi do bởi những vị thầy không giải thích mọi thứ một cách rõ ràng hay để những thứ hoàn toàn không được giải thích gì cả, vì thế chúng ta phóng chiếu vào chúng những gì chúng ta nghĩ chúng là như vậy. Cũng có thể là tự các vị thầy thấu hiểu sai lạc giáo huấn. Điều ấy đôi khi xảy ra. Bởi vì không phải tất cả những vị thầy đều
20/07/2015(Xem: 20603)
Là Đà La Ni ( thần chú ) mậu nhiệm linh diệu do Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni Diễn nói trong Bộ Kinh Thủ Lăng Nghiêm . Hơn 60 năm về trước chư tôn túc Trưởng Lão ở Thừa Thiên đã kính Tín lời dạy của Phật và cũng vì đem sự an lành cho hàng đệ tử Phật, nên các ngài đã in trọn đủ 5 đệ chú Lăng Nghiêm thu nhỏ để cho Phật tử đeo trên thân thể mình, việc phổ lợi nầy bao năm qua đã đem lại diệu lực an lạc cho những ai tin và kính thọ.
06/07/2015(Xem: 19642)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ.
10/06/2015(Xem: 9586)
Trong Phật giáo Mật tông Tây tạng có nhiều pháp môn tu tập để đưa hành giả đến Tự chứng ngộ Phật tánh của mình. Được xếp hàng cao nhất trong tất cả các pháp môn đó là Đại Thủ Ấn (Mahāmudrā) của phái Khẩu Truyền (Kargyu) và Đại Hoàn Thiện (Dzogchen hay Ati-yoga) của phái Cổ Mật (Nyingma). Theo các học giả và hành giả Tây tạng thuộc phái Kargyu – tiêu biểu là Khenchen Thrangu Rinpoche, một trong những đại sư xuất sắc thời hiện đại thuộc dòng Karma Kargyu – thì Mādhyamika (Trung đạo hay Trung quán) là giáo lý dạy về nguyên lý Tánh Không (Shūnyatā) trong hình thức tổng quát và Mahāmudrā (Đại Ấn hay Đại Thủ Ấn) là giáo lý dạy về tu tập và chứng ngộ Tánh Không.
18/05/2015(Xem: 24020)
Du Già Diệm Khẩu Thí Thực Khoa Nghi (bản Việt dịch của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn) HT Thích Huyền Tôn dịch Hạ tải bản Kinh này: Du Già Diệm Khẩu Thí Thực Khoa Nghi (PDF Liên lạc để thỉnh tập sách này tại: Nhà sách Văn Thành Địa chỉ: 235/53 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, P7, Q3. TP.HCM ĐT: 848 82028 – 0909 093 106 – 0908 585 560
05/02/2015(Xem: 7829)
Sách Cúng Dường Mây Cam Lồ (Choden Rinpoche) posted Nov 13, 2014, 10:08 PM by Tam Bao Dan [ updated Nov 20, 2014, 10:56 PM by Pema Zangmo ] Một sưu tầm giáo huấn về pháp luyện tâm và các đề tài khác do Choden Rinpoche luận giảng. Gyalten Deying chuyển Việt ngữ. Thanh Liên và Mai Tuyết Ánh hiệu đính. Viet Nalanda Foundation phát hành lầu đầu vào tháng 12 năm 2014. Sách ấn tống không bán. [Đọc sách] Tại Hoa Kỳ và Canada, xin liên lạc [email protected] để nhận sách. Tại Úc Châu, Tân Tây Lan và Đông Nam Á (không kể Việt Nam), xin liên lạc [email protected]. Tại Việt Nam, xin liên lạc [email protected]. Quý vị cũng có thể tìm thấy bản điện tử của sách này ở trang "Giáo Pháp" trong phần "Kinh Sách"
24/01/2015(Xem: 7679)
Nghi Thức Cúng Tsog, Chùa Đại Nhật Như Lai - Maha Vairocana Temple 1631 South White Rd, San Jose, CA 95127 Tel: (408)926-1998 -- Email: [email protected]
22/12/2014(Xem: 26401)
Bộ sách Lamrim Chenmo(tib. ལམ་རིམ་ཆེན་མོ) hay Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ(Tên Hán-Việt là Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Đại Luận) được đạo sư Tsongkhapa Losangdrakpa (tib. རྗེ་ཙོང་ཁ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པ) hoàn tất và phát hành vào năm 1402 tại Tây Tạng và được xem là bộ giáo pháp liễu nghĩa[1]. Bộ sách này sau đó đã trở thành một trong những giáo pháp thực hành tối quan trọng của dòng truyền thừa Gelug, vốn là một trong bốn trường phái Phật giáo lớn nhất tại Tây Tạng đồng thời cũng là dòng truyền thừa mà đương kim Thánh đức Dalai Lama thứ 14 hiện đứng đầu.
28/11/2014(Xem: 8941)
Thrangu Rinpoche sinh ở Tây tạng. Sau khi thoát khỏi Tây tạng sang Ấn độ, sư đã giúp thành lập chương trình giáo dục cho dòng truyền Karma Kagyu của đức Karmapa thứ 16. Sư là thầy dạy các Tulku chính của dòng truyền như Shamar Rinphoche, Situ Rinphoche, Jamgon Kongtrul Rinpoche, và Gyaltsab Rinpoche. Sư cũng thành lập nhiều tự viện ở Nepal và Ấn độ, và dựng các trung tâm Phật giáo ở Viễn đông, Đức, Anh, Hoa Kỳ, và Ca-na-đa. Sư được biết đến nhiều vì tài nhận lấy những đề tài khó và làm cho chúng trở thành có thể tiếp cận được cho người tu tập. Sư là tác giả một số sách bằng Tạng ngữ và Hoa ngữ gồm hơn 30 quyển bằng Anh ngữ. Hiện tại sư cũng là một trong những vị thầy chính của Karmapa thứ 17.
27/11/2014(Xem: 7472)
Dù một số học giả cho rằng Mật điển của Phật giáo phát xuất từ Ấn giáo (Hinduism), điều này không đúng. Lý thuyết này thịnh hành trong số những người theo học thuyết Tiểu thừa, dựa trên sự tương đồng bề ngoài của các yếu tố trong hai hệ thống, chẳng hạn như sắc tướng của các Hộ Phật, pháp thiền quán về kinh mạch và khí, nghi lễ lửa, v.v... Tuy một số hành trì như trì tụng mật chú đều phổ biến trong cả hai truyền thống Mật điển Ấn giáo và Phật giáo, sự diễn dịch của chúng, ý nghĩa nội tại, có một sự khác biệt lớn. Hơn nữa, Mật điển Phật giáo cao cấp hơn, bởi vì không như Ấn giáo, nó chứa đựng ba điểm tinh yếu của đường tu giác ngộ: tâm xả ly, bồ đề tâm và chánh kiến về tánh Không.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]