Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương Thanh Tịnh Huệ

02/05/201314:00(Xem: 16957)
Chương Thanh Tịnh Huệ


Phật Học Phổ Thông

HT. Thích Thiện Hoa

--- o0o ---

Bài thứ sáu

VI. CHƯƠNG THANH TỊNH HUỆ

1. Ngài Thanh Tịnh Huệ Bồ tát hỏi Phật

2. Phật khen Ngài Thanh Tịnh Huệ Bồ tát

3. Phật dạy: Trong Viên Giác không có Bồ tát và chúng sanh

4. Phàm phu tùy thuận tánh Viên Giác

5. Bồ tát ở vị Tam hiền tùy thuận tánh Viên giác

6. Bồ tát lên Thánh vị tùy thuận tánh Viên giác

7. Như Lai tùy thuận tánh Viên giác

8. Tóm tắt

9. Phật nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên


CHƯƠNG THANH TỊNH HUỆ

1. Ngài Thanh Tịnh Huệ Bồ tát hỏi Phật

Khi ấy Ngài THanh Tịnh Huệ Bồ tát ở trong Ðại Chúng đứng dậy, đi quanh bên hữu của Phật ba vòng, rồi chắp tay kính cẩn, đảnh lễ dưới chân Phật và qùy thẳng bạch rằng:

BẠch Ðức Ðại Bi Thế Tôn, Ngài đã vì chúng con, khôn khéo rộng nói những việc không thể nghĩ bàn. Những việc mà chúng con từ hồi nào đến giờ, chưa từng thấy và chưa từng nghe, hômnay nhờ Phật khai thị khiến cho c húng con được hiểu ngộ, thân tâm khoan khoái vui mừng, đặng lợi ích rất lớn.

Bạch đức Thế Tôn, xin Ngài vì các vị bồ tát và tất cả chúng sanh trong pháp hội này, chỉ dạy thứ lớp tu chứng của Như Lai như thế nào để cho chúng sanh hiện tại và đời sau, nhơn nghe lời Phật dạy đây, mà được khai ngộ, lần lượt tùy thuận vào tánh Viên Giác của đức Pháp Vương (Phật).

Ngài Thanh Tịnh Huệ thưa thỉnh như vậy ba lần, kính cẩn lạy Phật rồi trở lui.

LƯỢC GIẢI

Ðại ý đoạn này, Ngài Thanh Tịnh Huệ Bồ tát hỏi Phật: Trên đường lối tu hành, từ địa vị phàm phu đến quả vị Phật, phải trải qua bao nhiêu địa vị? Thứ lớp tu chứng sai khác thế nào? CẦu Phật chỉ dạy, khiến cho chúng sanh được liễu ngộ, lần lượt nhập vào tánh Viên Giác.

Thanh Tịnh Huệ là trí huệ thanh tịnh, tức là Bát nhã huệ. Từ chương này đến 6 chương sau là chú trọng về việc hạ thủ công phu. Trong khi tu hành bất luận giờ phút này, cũng phải dùng Bát nhã trí để lãnh đạo; cho nên chương này Ngài Thanh Tịnh Huệ đứng lên thưa hỏi, là tiêu biểu cho Bát nhã huệ vậy.

*********

2. Phật khen Ngài Thanh Tịnh Huệ Bồ tát

Khi đó đức Thế Tôn khen Ngài Thanh Tịnh Huệ Bồ tát và dạy rằng:

-Này Thiện nam, quý lắm! ông vì các bồ tát hiện tại và chúng sanh đời sau, thưa hỏi Như Lai về t hứ lớp tu chứng sai khác như thế nào. Vậy các ông nên chăm chú nghe, ta sẽ vì các ông chỉ dạy

Khi đó Ngài Thanh Tịnh Huệ Bồ tát và Ðại chúng đều hoan hỷ và kính cẩn vâng nghe lời Phật chỉ giáo.

***********

3. Phật dạy: Trong Viên giác không có Bồ tát và chúng sanh

-Này Thiện nam! Trong tánh Viên giác thanh tịnh, không tất cả pháp, mà có đủ tất cả pháp. Nó tùy thuận các duyên biến hiện ra đủ tất cả, mà không thủ và không chứng. Thí như con mắt, thấy được tất cả vật, mà không tự thấy mình. Nó vẫn bình đẳng mà không tự thấy mình bình đẳng.

Này Thiện nam! Trong thật tướng (viên giác) không có Bồ tát và chúng sanh. Tại sao thế? - Bởi Bồ tát và chúng sanh đều là huyễn hóa vậy. Khi các tướng huyễn hóa diệt rồi, thì không có người năng chứng và quả sở chứng.

Chúng sanh vì còn mê muội điên đảo nên chưa diệt trừ được các tướng huyễn hóa. Vì chúng sanh vọng khởi công dụng, để đối trị các tướng huyễn hóa, bởi có nhữn gtướn g huyễn hóa đã diệt và chưa diệt, nên chúng mới thấy có thứ lớp tu chứng sai khác. Nếu người đặng tùy thuận tánh Viên giác tịch diệt của Nhu lai rồi, thì không còn thấy có cảnh tịch diệt và người tịch diệt nữa.

LƯỢC GIẢI

Ðại ý đoạn này Phật nói: Trong tánh Viên giác vốn không có tất cả pháp, mà tùy duyên hiện ra đủ tất cả các pháp sai khác. Ðoạn này giống với đoạn trong kinh Lăng Nghiêm. Phật thí dụ cây đờn, trong cây đờn không có các bài bản hay và dỡ; song tùy duyên nó hiện ra đủ các tiếng hay và dở.

Trong tánh Viên Giác không có năng thủ, sở thủ và năng chứng sở chứng, không Bồ tát và chúng sanh. Vì chúng sanh chưd iệt trừ được các tướng huyễn hóa, nên vọng khởi công dụng để dẹp trừ các tướng vọng huyễn này. Vi thế mà thấy có chứng và có đắc, bực lớp sai khác. Nếu tùy thuận được tánh Viên giác tịch diệt của Như Lai rồi, thì không c òn thấy có một pháp nào cả.

Trong đoạn này có cái ví dụ: “Như con mắt không tự thấy con mắt” – Cái ví dụ này chỉ cho tánh bình đẳng và vô công dụng của Viên Giác. Tánh Viên Giác tùy duyên hiện ra các pháp mà không thủ, không chứng. Cũng như con mắt bình đẳng chiếu soi tất cả vật, mà không thấy mình có chiếu soi và bình đẳng.

*******

4. Phàm phu tùy thuận tánh Viên giác (địa vị thập tín)

-Này Thiện nam! Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến giờ, do lầm tưởng có “thật ta và vật của ta” rôì sanh lòng thương yêu cái ta và vật của ta, cho nên gặp cảnh nghịch với ta thì giận ghét, còn thuậtn với ta thì tham ái, say mê theo cảnh ngũ dục. Chúng chưa từng biết thân tâm này là hư vọng, mỗi niệm sanh diệt luôn luôn, không có thật ta.

Nếu gặp thiện hữu tri thức dạy bảo, chúng được khai ngộ tánh Viên Giác thanh tịnh, hiểu rõ tah6n tâm này là hư vọn gmỗi niệm sanh diệt không thật có cái ta; lúc bấy giờ chúng mới tự xác nhận rằng: thân tâm này là “trần lao vọng lự”.

Những người nào đoạn trừ được vĩnh viễn các trần lao vọng lự này, thì ngộ pháp giới thanh tịnh, nhưng đối với tánh Viên Giác chưa được tự tại, vì còn bị cái “biết thanh tịnh” nó làm chướng ngại, những người như thế thì gọi là kẻ phàm phu tùy thuận tánh Viên Giác.

LƯỢC GIẢI

Ðaọn trên (số 3) là đứng về tánh Viên Giác thanh tịnh bình đẳng mà nói, nên không có Bồ tát và chúng sanh sai khác. Nhưn đứng về phương diện sự tướng tu hành mà luận thì có lớp lang tu chứng rõ ràng. Bởi thế nên từ đoạn này (số 4) về sau là nói thức lớp nhập Viên Giác, bắt đầu từ vị Thập Tín, Tam Hiền, Thập Thánh và đến quả Phật.

Ðại ý đoạn này, nói hàng Thập Tín tùy t huận tánh Viên Giác - Bởi tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến giờ vì mê lầm chấp ta và cảnh vật của ta là chơn thật, cho nên sanh ra tham, sân v.v.. Nếu gặp Thiện tri thức dạy bảo, chúng giác ngộ đưọoc cái “ta” và “cảnh vật của ta” đều hư vọng, sanh diệt không thật, thì lúc bấy giờ chúng mới trừ được ngã chấp, đặn gpháp giới thanh tịnh. Nhưng, vì còn “biết thanh tịnh”, thế là còn pháp chấp chưa trừ, nên còn chướng ngại tánh Viên giác. Vì thế nên gọi là “chúng Phàm phu (vị Thập tín) tùy thuận tánh Viên Giác”.

***********

5. Bồ tát ở vị Tam hiền, tùy thuận tánh Viên giác

Này Thiện nam! Tất cả các vị Bồ tát, vì còn chấp cái “biết thanh tịnh” (giác), nên chướng ngại tánh Viên giác. Nay tuy đoạn được cái chướng ngại đó (cái biết thanh tịnh) nhưng còn trụ ở cái “giác”. Như thế cũng còn cố chấp ở nơi “giác”, nên tánh Viên giác vẫn còn bị chướng ngại, không được tự tại. Bởi thế nên gọi là bực Tam hiền bồ tát, tùy thuận tánh Viên giác.

LƯỢC GIẢI

Các vị Bồ tát này, tuy rời được cái “biết thanh tịnh”, nhưng còn cái “biết giác”. Vì còn cái “biết giác” làm chướng ngại, nên tánh Viên giác không được hiển hiện. Ðại ý đoạn này nói: Bực tam hiền Bồ tát tùy thuận tánh Viên Giác, Tam hiền là: Thập trụ, Thập hạnh và Thập hồi hướng.

****

6. Bồ tát lên thánh vị, tùy thuận tánh viên giác

Này Thiện nam! Nếu còn “biết” (chiếu) và còn có “giác”, thì đều còn chướng ngại (vì còn năng và sở)

-Thế nên Bồ tát thường “giác” mà không trụ nơi “giác”, năng chiếu và sở chiếu đồng vắng lặng. Bồ tát tự dùn gtâm chướng ngại diệt trừ các chướng ngại (dĩ vọng diệt vọng), khi các chướng ngại diệt hết, cũng không còn người năng diệt. Thí như có người tự mình chặt lấy đầu mình, khi cái đầu đã rụng rồi, thì cũng không có người chặt (năng đoạn).

Này thiện nam! Tất cả kinh giáo của Như Lai đều như gnoán tay để chỉ mặt trăng Viên giác (chơn lý). Vậy các ông phải biết: đây là ngón tay kinh giáo chớ không phải mặt trăng Viên giác. Nếu các ông chỉ cố chấp ngón tay, thì không bao giờ thấy được mặt trăng. Những người biết nhơn ngón tay kinh giáo này, mà nhận được mặt trăng Viên giác, thì gọi là Bồ tát lên thánh địa, tùy thuận tánh Viên giác.

LƯỢC GIẢI

Ðoạn trên nói Bồ tát ở vị Tam Hiền còn “biết” và còn “giác”. Ðến đoạn này nói: Bồ tát đã lên thánh địa, tuy thường “giác” mà không trụ trước nơi “giác”, vì không còn năng và sở. Cũng như người ta tự chặt cái đầu của minh khi cái đầu rụng rồi, thì không có người chặt và kẻ bị chặt.

Tất cả kinh giáo của Phật đều là phương tiện để chỉ chơn lý (viên giác). Hành giả phải nương các pháp phương tiện để đến chơn lý; nếu cố chấp nơi phương tiện không bao giờ đến chơn lý

Giáo pháp của Phật cũng như ngón tay chỉ mặt trăng. Người muốn thấy mặt trăng thì phải nhơn ngón tay mà xem, khi thấy mặt trăng (chơn lý) rồi thì phải quên ngón tay (phương tiện). Nếu cố chấp nơi ngón tay (phương tiện) thì người ấy không bao giờ thấy mặt trăng chơn lý.

CÁi thí dụ này giống như trong kinh Lăng Nghiêm, Phật thí dụ “ngón tay chỉ mặt trăng v.v..”

*********

7. Như Lai tùy thuận tánh Viên giác

-Này Thiện nam! Tất cả sự chướng ngại tức là Cứu kính giác, chánh niệm hay vọng niệm đều là giải thoát, trì giới hay phá giới đều là Niết bàn; trí huệ hay ngu si cũng đều là Bát nhã; Bồ tát và ngoại đạo đồng là Bồ đề; Vô minh và chơn như đồng một cảnh giới; giới, định, huệ và dâm, nộ (giận) si đều là hạnh thanh tịnh; chúng sanh và quốc độ đồng một pháp tánh; địa ngục và thiên đường đều làm Tịnh độ; hữu tình và vô tình đều thành Phật đạo; tất cả phiền não là rốt ráo giải thoát, vì biển huệ pháp giới chiếu soi cả tướng cũng như hư không. Ðây gọi là Như Lai tùy thuận tánh Viên giác.

LƯỢC GIẢI

Các đoạn trên đã nói: từ vị Thập tín, thì bị cái “Biết tịnh” làm ngại; qua vị Tam Hiền, lại bị cái “biết giác” làm ngại; đến vị Thập thánh, tuy đã lìa hết các ngại, nhun ghãy còn cái “thường giác” chưa được viên dung.

Ðoạn này nói về quả vị Phật, đã hoàn toàn nhập Viên giác tánh, thấy tất cả pháp đồng một bản thể, nên nói: “các chướng ngại tức là cứu kinh giác, chánh niệm và tà niệm đều là giải thoát, phiền não sanh tử tức là Bồ đề, Niết bàn, trí huệ, ngu si đều là bát nhã v.v...”

Bởi thế nên Cổ dức có dạy rằng: “Mê thời Chơn như thành vọng tưởng, ngộ thời vọng tưởng, tức Chơn như”.

***

8. Tóm lại

-Này thiện nam! Các vị Bồ tát và chúng sanh đời sau, chỉ trong tất cả thì giờ không khởi vọng niệm phân biệt, đối với các vọng tâm cũng chẳng cần diệt trừ, ở cảnh vọng tưởng, chẳng gia thêm phân biệt, ở nơi cảnh không rõ biết, chẳng cần phân biệt chơn thật, khi nghe đến pháp môn này, không lấy làm lạ lùng và kinh hãi, lại sanh tâm tin chắc, hiểu biết rõ ràng, lãnh thọ và phụng trì, thì ta gọi chúng sanh này là người tùy thuận tánh Viên giác.

-Này thiện nam! Các ông phải biết. Những chúng sanh tùy thuận như thế, là đã nhiều đời tu hành, từng trồng rất nhiều công đức: “Cúng dường các đức Phật và các vị Bồ tát nhiều như số cát sông Hằng. Ta ấn chứng cho những người này sẽ thành tựu “nhứt thế chủng trí” (Phật trí).

LƯỢC GIẢI

Ðoạn này Phật dạy cốt yếu có một câu: “chỉ trong tất cả thì giờ, không khởi vọng niệm, v.v.. đó là tùy thuận tánh Viên Giác”. NGhĩa là: nếu trong tất cả thời mà vọng niệm không sanh khởi, thì tham, sân, si không sanh; 3 độc không sanh thì 3 nghiệp chẳng tạo, các nghiệp không tạo thì chẳng còn sanh tử luân hồi; sanh tử đã không thời chơn tâm tư hiện, như thế là tùy thuận tánh Viên giác. Tỷ như ly nước đục để trên bàn, nếu trong tất cả thì giờ đều được yên lặng, không bị chao động, thì tánh nước trong tự hiện.

Ðoạn này giống như trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy: “Bất tùy phân biệt” (không theo trần cảnh khởi vọng niệm phân biệt). Thật là một pháp tu mau chóng (viên đốn), nếu không phải người nhiều kiếp tu hành, đã từng trồng căn lành từ nhiều đời đức Phật, thì không thể lãnh thọ nỗi pháp môn này.

Tóm lại, Phật dạy: Nếu các Bồ tát và chúng sanh đời sau, chỉ trong tất cả thời không khởi vọng niệm, cũng khôngcần để tâm diệt trừ vọng niệm v.v.. những chúng sanh thật hành được như thế là căn lành của chúng đã trồng sâu từ nhiều đức Phật, và chúng đã nhập được tánh Viên giác, sẽ thành quả Phật.

Ngài Thanh Tịnh Huệ hỏi thứ lớp tu chứng của Như Lai, đến đây Phật trả lời xong hết.

*****

9. Phật nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên

Khi ấy đức Thế Tôn, muốn tóm lại các nghĩa trên, nên nói bài kệ rằng:

Thanh Tịnh Huệ! phải biết:

Viên mãn tánh Bồ đề

Không còn thủ và chứng,

Không bồ tát, chúng sanh.

Giác và khi chưa giác

Thứ lớp có sai khác:

Chúng sanh bị “biết” ngại (Thập tín)

Bồ tát bị “giác” ngại (Tam hiền)

Thánh Ðịa hằng vắng lặng (Thập thánh)

Vì không trụ các tướng,

Viên mãn quả Ðại giác,

Nên gọi “khắp tùy thuận” (Phật)

Các chúng sanh đời sau,

Tâm chẳng sanh hư vọng,

Ta nói chúng sanh này,

Hiện đời là Bồ tát

Vì cúng dường chư Phật,

Công đức đã viên mãn

Tuy có nhiều phương tiện,

Cũng đều tùy thuận Giác.

LƯỢC GIẢI

Ðại ý bài kệ này Phật dạy: Tánh Viên Giác không có thủ và chứng, không Bồ tát và chúng sanh. Nhưng về thứ lớp tu hành thì có phân biệt ra Tín vị, Hiền vị, Thánh vị, và Phật vị. Nếu như chúng sanh nào tâm chẳng sanh vọng tưởng, là Bồ tát hiện tại, vì chúng sanh này đã trồng công đức từ hằng sa chư Phật.

Pháp môn tu tuy có nhiều và thứ lớp chứng đạo có sai khá,c nhưng cũng đều về tánh Viên giác.

Trong chương Thanh Tịnh Huệ này, Ngài Thanh Tịnh Huể hỏiPhật thứ lớp tu chứng như thế nào? Phật trả lời có hai phần:

1. Ðứng về lý tánh Viên giác mà nói,thì không có bồ tát và chúng sanh, không thủ và không chứng.

2. Về sự tướng tu hành, thì có thứ lớp sai khác. Như về Tín vị thì bị cái “biết” (giả” làm ngại; ở về Hiền vị thì còn bị cái “giác” làm ngại; vào Thánh vị tuy được tịch diệt nhưng chưa được viên mãn.

Tóm lại, Phậtdạy một câu “nếu người đối với tất cả thời, không khởi vọng niệm, thì được tùy thuận tánh Viên giác”.

--- o0o ---


Vi tính: Trúc Oanh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/09/2018(Xem: 6756)
Bất cứ ai may mắn có dịp viếng thăm Tu Viện Kopan trong 40 năm qua, có thể đã nhìn thấy được nụ cười từ hòa của Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rigsel, người đã phụng sự cho Tu Viện Kopan trong các vai trò khác nhau trong gần bốn thập niên qua. Ngài đã được Văn Phòng của Đức Dalai Lama thụ phong chức trụ trì tu viện năm 2001, mặc dù Ngài đã không chính thức giữ chức vụ này từ khi Lama Yeshe viên tịch vào năm 1984. Vào tháng Bảy năm 2011, Lama Lhundrup không tiếp tục vai trò này nữa, vì bệnh ung thư ở giai đoạn tiến triển của Ngài.
04/09/2018(Xem: 4827)
Kyabje Lama Zopa Rinpoche Tu Viện Kopan, Nepal Kyabje Lama Zopa Rinpoche giải thích cách phát khởi thực chứng về các giai đoạn của đường tu giác ngộ trong Khóa Tu Kopan Thứ Mười Hai, được tổ chức ở Tu Viện Kopan, Nepal, năm 1979. Bài này là trích đoạn trong Bài Thuyết Pháp thứ 9 trong khóa tu. Sandra Smith hiệu đính sơ.
03/09/2018(Xem: 7598)
Lama Zopa Rinpoche đã sáng tác một pháp tu Kim Cang Tát Đỏa ngắn, được ấn tốngtheo khổ sách bỏ túi. Nhờ vậy, bất cứkhi nào phạm giới, hay tạo ra bất kỳ nghiệp xấu ác nào khác thì ta có thểtịnh hóa điều tiêu cựcấy bằng bốn lực đối trị, không hề chậm trễ một phút giây.
15/03/2018(Xem: 15008)
Nhẫn nại là 10 pháp hành Ba la mật cho các vị Bồ Tát có ý nguyện trở thành Phật Toàn Giác, Phật Độc Giác hoặc Phật Thinh Văn Giác. Những pháp hành đó là : 1- Bố thí 2- Trì giới 3- Xuất gia 4- Trí tuệ 5- Tinh tấn 6- NHẪN NẠI 7- Chân thật 8- Quyết tâm 9- Từ bi 10- Tâm xả
20/02/2018(Xem: 3943)
Đây là pho tượng đồng Tổ Sư Tống Khách Ba do Luật Sư Nguyễn Tân Hải (pháp danh: Thiện Vân) cúng dường Tu Viện Quảng Đức vào chiều ngày 19-02-2018 trong dịp Thượng Tọa Trụ Trì Tu Viện Quảng Đức Thích Nguyên Tạng ghé nhà thăm Luật Sư vừa về nhà sau thời gian điều trị tại bệnh viện. Luật Sư Tân Hải là đệ tử của Hòa Thượng Chùa Phổ Quang, Phú Nhuận, anh có duyên tiếp cận và nghiên cứu về Phật Giáo Tây Tạng, Nhật Bản… do vậy mà anh sở hữu nhiều tài liệu và pháp khí quý hiếm, mà một trong số đó là pho tượng này (xem văn bản đính kèm). Thành tâm niệm ơn và tán thán công đức bảo vệ và hộ trì Chánh pháp của anh chị Luật Sư Tân Hải – Bích Thi. Nam Mô A Di Đà Phật
12/10/2017(Xem: 16043)
Cầm quyển sách trên tay với độ dày 340 trang khổ A5 do Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam-Trung Tâm dịch thuật Hán Nôm Huệ Quang ấn hành và nhà xuất bản Hồng Đức tái bản lần thứ 2 năm 2015. Sách này do Phật Tử Nguyên Đạo Văn Công Tuấn trao tay cho tôi tại khóa tu Phật Thất từ ngày 24 đến 31.09.2017 vừa qua tại chùa Bảo Quang, Hamburg, Đức Quốc. Tôi rất vui mừng được đọc tác phẩm thứ hai của Giáo Sư Lê Tự Hỷ. Ngắm nhìn bìa sách cũng như cách in ấn của Việt Nam trong hiện tại đã tiến được 8 phần 10 so với Đài Loan hay Đức, nên tôi lại càng vui hơn nữa. Bởi lẽ từ năm 1975 đến cuối năm 2000 tất cả những kinh sách được in ấn tại Việt Nam, kể cả đóng bìa cứng cũng rất kém về kỹ thuật và mỹ thuật, nhưng nay sau hơn 40 năm, nghề in ấn Việt Nam đã bắt đầu có cơ ngơi vươn lên cùng với thế giới sách vở rồi và hy vọng rằng nghề ấn loát nầy sẽ không dừng lại ở đây.
20/08/2016(Xem: 11326)
Ai là người trí phải nên khéo điều phục cái tâm của mình phải luôn quán sát Tánh Không (sumyata) và Diệu Hữu (Amogha) của bản tâm và vạn pháp. Không ai có thể cứu chúng ta khỏi cảnh giới khổ đau, phiền não, nếu chính bản thân chúng ta cứ mãi bo bo ôm ấp, nâng niu chìu chuộng cái vỏ Ngã Pháp được tô điểm bởi Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Tà Kiến, và Đố kỵ.
28/04/2016(Xem: 16681)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay. Thiền giáo xuất hiện từ thời Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Các thế kỷ sau, kinh điển Đại thừa được truyền bá, theo đó tư tưởng Thiền, Tịnh và Mật được phổ biến tại nước ta. Từ lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam cho thấy, ba pháp môn tu đó có sự đóng góp tích cực cho con người và xã hội qua nhiều thời đại.
27/09/2015(Xem: 6370)
Phía trước, ở giữa biển mây phẩm vật cúng dường Đức Phổ Hiền, Nơi an trú của chư vị lama, Yidam, Tam Bảo và Hộ Pháp Cùng các đấng hiền thánh đã thành tựu chân lý; Xin hoan hỷ nhận mây cúng dường các phẩm vật này, và ban cho con chân lý tối thượng.
27/08/2015(Xem: 4273)
Hôm nay, 19-11-2010, tôi đã từng được yêu cầu nói về một số hiểu biết thông thường sai lạc về Phật Giáo. Và có nhiều thứ đa dạng khác nhau, với nhiều lý do khác nhau. Có một số đặc thù là văn hóa, hoặc là đối với văn hóa phương Tây, hay đối với Á châu và những nền văn hóa khác bị ảnh hưởng bởi sự suy nghĩ của phương Tây hiện đại. Có những hiểu biết sai lầm có thể đến từ những vùng văn hóa khác: sự suy nghĩ truyền thống của Trung Hoa, và v.v… Có thể có sự hiểu biết sai lầm sinh khởi phổ quát hơn, qua những cảm xúc phiền não của mọi người. Có thể có sự hiểu biết sai lạc sinh khởi chỉ từ sự kiện rằng tài liệu thì khó để hiểu. Sự hiểu biết sai lạc có thể sinh khởi do bởi những vị thầy không giải thích mọi thứ một cách rõ ràng hay để những thứ hoàn toàn không được giải thích gì cả, vì thế chúng ta phóng chiếu vào chúng những gì chúng ta nghĩ chúng là như vậy. Cũng có thể là tự các vị thầy thấu hiểu sai lạc giáo huấn. Điều ấy đôi khi xảy ra. Bởi vì không phải tất cả những vị thầy đều
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567