Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

12. Vô ngã và pháp hành thiền

02/02/201111:04(Xem: 10980)
12. Vô ngã và pháp hành thiền

GIỚI THIỆUĐẠO PHẬT
BìnhAnson
NhàXuất Bản Tôn Giáo, TL. 2005 - PL. 2549

Vôngã và pháp hành thiền

Ðạiđức Bodhesakho

Lờigiới thiệu: Sau đây là một bài phỏng vấn Ðại đức Bodhesakho,một tu sĩ Mỹ, cộng tác viên Hội Xuất Bản Phật Giáo (BuddhistPublication Society), do đài phát thanh Tích Lan thực hiện năm1986.
-----*-----

Hỏi:Chúng tôi rất hân hạnh được Ðại đức Bodhesakho, mộtvị tăng sĩ người Mỹ, tham dự vào cuộc phỏng vấn hômnay. Kính thưa Ðại đức, Thầy đã xuất gia, tu học tronghơn 5 năm qua, và Thầy đã có nhiều quan tâm trong các lĩnhvực học tập, hành trì, và truyền giảng các lời dạy củỪức Phật. Một trong những chủ đề quan trọng và sâu sắcnhất của Ðạo Phật là giáo thuyết Vô Ngã, mà người phươngTây thường cảm thấy rất khó thông hiểu cho tường tận.Thưa Ðại đức, tại sao như thế?

Ðáp:Trước hết, tôi nghĩ rằng bất cứ người nào tìm kiếmmột lời giải thích cho Vô Ngã cũng đều tìm cách áp đặtgiáo thuyết nầy vào những nhu cầu và tham muốn của họ,cho dù lời giải thích đó có đúng với Phật Pháp hay không.Con người luôn luôn tìm kiếm lời giải đáp cho các câu hỏi,luôn luôn tìm kiếm phương cách giải quyết cho mọi tình huống.Sự kiện nầy không phải chỉ xảy ra trong thời đại bâygiờ mà cũng không phải chỉ riêng cho người Âu Mỹ, nó xảyra trong mọi thời và cho mọi người. Con người lúc nào cũngtìm kiếm câu trả lời cho mọi câu hỏi.

Bâygiờ, nếu có người nào đến với Ðạo Phật, họ đượccho biết Ðức Phật dạy rằng dù họ có hoài công tìm kiếm,họ sẽ không bao giờ tìm thấy bản ngã hoặc những gì đưađến tự ngã. Và họ sẽ tìm một lời giải thích nào đómà họ có thể hiểu được trong khung kiến thức của họ.Từ đó, vì lời dạy của Ðức Phật hoàn toàn khác hẳnnhững gì mà các người phương Tây đã từng quen thuộc, họsẽ tìm cách biến cải Phật Pháp để lồng vào trong khungkiến thức của họ.

Thậtra, điều họ cần phải học tập là không biến cải PhậtPháp để thích nghi với cái nhìn chủ quan của họ, mà ngượclại, họ phải biến cải cái nhìn của mình để thích nghivới Phật Pháp. Ðây là Tín hạnh, Saddha- lòng tin, cónghĩa là đưa mình vào Phật Pháp mặc dù Phật Pháp có thểtrái ngược lại những định kiến của mình về bản thểcủa sự vật. Ðiều này có nghĩa là chúng ta, thay vì tìmlời giải đáp, chúng ta cần phải tự hỏi là tại sao chúngta lại có nhu cầu để đặt các câu hỏi đó. Ðây là nhữnggì Ðức Phật đã dạy, là chúng ta phải cần phải khám nghiệmtự thân.

Khichúng ta thấy được nhu cầu để đặt câu hỏi, chúng taphải tìm cho ra cội rễ của nhu cầu đó và những độnglực nào để khởi sinh nhu cầu đó. Khi chúng ta chú tâm vàocâu hỏi thay vì vào câu giải đáp, chúng ta thật sự hànhtrì lời Phật dạy.

Hỏi:Về thuyết Vô Ngã, thuyết nầy hầu như đã được nhiềutriết gia và khoa học gia chấp nhận, ở phương Ðông lẫnphương Tây, rằng không có một cái gì có thể trường tồnvĩnh viễn, không thay đổi trong cõi đời nầy. Tất cả đềulà những con xoáy của năng lượng. Các nhà vật lý học chorằng nguyên tử được cấu tạo bởi những proton, electron,neutron, positron, rồi tối hậu, họ cho rằng đó chỉ là tậphợp các lượn sóng. Một cách triết lý, những nhà khoa họcnổi danh như các ông Newton hoặc Einstein đều công nhận rằngtất cả mọi sự vật đều đang thay đổi. Thế nhưng, khitrở về bình diện luân lý và đạo đức của Ðạo Phật,đây là một vấn đề rất quan trọng trong những lời dạycủa Ðức Phật, tại sao con người lúc nào cũng khư khư bámthủ vào sự vật? Những người Phật tử thông thường đềubiết vạn vật là vô thường, nhưng họ lại không áp dụngđược điều đó vào trong đời sống gia đình và trong xãhội. Xin Ðại đức cho biết nguyên do tại sao như thế?

Ðáp:Dĩ nhiên là họ tưởng rằng các sự vật đó sẽ tồn tạimãi mãi! Nếu ông nhìn vào lối sống của họ, ông sẽ thấytư tưởng đó nằm sâu trong đời sống của họ. Thế nhưng,khi bảo họ rằng mọi sự vật không thể tồn tại mãi mãi,chắc chắn là họ không thể phủ nhận được. Chỉ cầnnhìn chung quanh thì họ sẽ thấy ngay sự đổi thay của vạnvật. Có những sự vật thay đổi nhanh chóng, có những sựvật thay đổi từ từ chậm chạp, nhưng không chóng thì chày,mọi vật đều thay đổi. Con người sinh ra, lớn lên, trưởngthành, rồi già yếu. Ngay cả mặt đất này cũng đang thayđổi. Những người bị tai nạn về động đất, bão lụt,đất lở, v.v. đều thấy được điều đó. Cho nên, chúngta không nên đặt niềm tin vào sự tồn tại trường cửucủa bất cứ một sự vật nào.

Ngàynay, nhiều nhà khoa học cố gắng tìm hiểu giáo thuyết nầy,học thuyết nọ, và họ cho rằng thuyết nầy hay thuyết kiacó những điểm tương đồng với Ðạo Phật. Họ nói rằng:"Vâng, chúng tôi không thể tìm được một cái gì có thểgọi là linh hồn, bằng cách này hay cách khác." Thế nhưng,họ lại không chịu quan sát ngay chính họ. Họ đang tìm kiếmcác câu trả lời, nhưng họ không chịu nhìn thẳng vào câuhỏi! Lý do họ không tìm ra được một cái gì để gọi là"bản ngã", không phải là vì họ không nghiên cứu tườngtận, mà là vì họ không chịu thực hành thiền quán, họkhông chịu quay nhìn vào bên trong. Bây giờ, nếu họ cố gắngnhìn vào bên trong, họ cũng sẽ không tìm ra được một cáigì có thể gọi là "bản ngã", nhưng sự thông hiểu nầy đòihỏi một thái độ hoàn toàn khác hẳn, một cái nhìn kháchẳn, để thực hiện công tác nghiên cứu, khảo sát đó.

Ðểlàm được điều trên, chúng ta cần phải biết rõ nhu cầutại sao chúng phải tìm kiếm một cái "ngã". Ðó không phảichỉ là một câu hỏi lý luận, "Có hoặc không có một cáigì gọi là Ngã?", nhưng thật ra, chúng ta phải tự hỏi rằngtại sao người ta thấy có nhu cầu để đặt ra câu hỏi đó,để đặt ra một danh xưng, dù cho đó là Thượng đế, làlinh hồn, là bản ngã, là một tên gọi nào đó, để rồinếu họ không tìm ra được cái đó, chẳng những họ khôngthỏa mãn với câu trả lời phủ định, mà rồi trong thâmtâm họ cũng cảm thấy bất an! Họ có thể che giấu nỗibất an đó bằng nhiều phương cách giải trí, chẳng hạnnhư xem hát, nghe nhạc, xem ti-vi, hoặc đi ngủ, hoặc một cáchnào khác. Nhưng rồi, họ vẫn cảm thấy chán nản, căng thẳng,và lo sợ. Ðây là một trong những vấn nạn nghiêm trọngtrong xã hội tân tiến ngày nay, và cũng đã từng được đemra thảo luận rất thường xuyên trong các xã hội cổ xưa.Con người lúc nào cũng cảm thấy căng thẳng, lo âu, thiếuthốn, bởi vì họ lúc nào cũng hoài công tìm kiếm một cáchvô vọng.

Hỏi:Thưa Ðại đức, Thầy vừa nói là có nhiều căng thẳng vàlo âu trong xã hội ngày nay. Con người sống bận rộn, vộivàng, vì đời sống bây giờ đang biến chuyển với một tốcđộ cực nhanh. Nhìn quanh, chúng ta thấy các xáo trộn, thayđổi nghiêm trọng đang xảy ra từng giờ phút, và con ngườikhông có đủ nghị lực và sức mạnh tâm linh để đươngđầu với các sự thay đổi nầy. Có người cho rằng trongthời Ðức Phật còn tại thế, đời sống bình an và địnhtĩnh hơn. Thầy nghĩ như thế nào?

Ðáp:Không hẳn như thế đâu! Theo tôi, chúng ta không thể kếtán thời đại của chúng ta hiện nay là xấu tệ hơn nhữngthời đại ngày xưa. Ðọc lại các tài liệu lịch sử thìchúng ta sẽ thấy được điều nầy. Ngày xưa, triết gia Platocủa phương Tây đã từng than thở là thời đại của ôngkhông còn biết kính trọng người già và nhiều tệ đoan hơncác thế hệ trước. Nếu chúng ta đọc lại những sự kiệnghi trong tạng Luật của hệ Pali, chúng ta thấy ngay trong thờèức Phật cũng có các thầy Tỳ khưu và cư sĩ có nhữnghành động rất đáng chê, đáng trách. Cho nên, con ngườitrong thời nào cũng như vậy cả, vấn đề thiếu nghị lựcvà đạo đức tinh thần không phải chỉ đặc biệt có riêngtrong thời đại của chúng ta.

Thờiđại nào cũng thế, bây giờ cũng như ngày xưa, xã hội cónhiều cám dỗ và con người thường tìm kiếm những gì cóthể thụ hưởng ngay tức khắc mà không chịu làm những gìđể tạo ra một hậu quả vững bền. Họ chọn lối sốngđể làm thỏa mãn các giác quan, các cảm tính nhất thời,và họ không thích làm những điều khó để tạo an địnhtrong tâm thức, để thanh lọc tâm ý, để thoát ra mọi ràngbuộc của tham dục. Bởi vì, cần phải có một nỗ lực lớnđể làm được như thế, còn chạy theo nhục dục ngũ trầnvà làm thỏa mãn chúng thì dễ dàng và nhanh chóng hơn. Họlúc nào cũng muốn có một đời sống dễ dãi, lười biếng,hưởng thụ.

Hỏi:Tuy nhiên, sự thật hiển nhiên là khác với thời của ÐứcPhật, đời sống ngày nay đang chuyển biến một cách nhanhchóng, thay đổi rất nhanh. Các thay đổi về công nghệ vàkỹ thuật đang có một tác động rất mạnh vào đời sốngcủa con người, và do đó, họ cảm thấy rất khó giữ đượcmột sự an bình trong tâm thức. Thầy có nghĩ rằng hành thiềncó thể sẽ giúp những người nầy gìn giữ sự thăng bằngvà bình thản trong tâm được không?

Ðáp:Trong Tương Ưng Bộ Kinh, Ðức Phật dạy rằng: "Tâm ý nầysinh trong một dạng và diệt trong một dạng khác". Có nghĩalà ngay trong thời đó, Ngài đã tuyên bố rằng tâm ý chúngta thay đổi cực nhanh, ngày xưa cũng như ngày nay. Cảnh vậtngoại vi không thay đổi nhanh như thế! Tuy nhiên đó khôngphải là vấn đề, bởi vì thật ra, con người không quan tâmđến sự thay đổi. Ðôi khi, chúng ta còn muốn có thay đổixảy ra cho nhanh, nhất là khi ta phải đối đầu với nhữngcảnh khó chịu, bực dọc, ta lại muốn nó biến mất đi,càng nhanh càng tốt.

Ðiềulàm ta lo ngại, bực dọc là sự bất địnhcủađổi thay, rằng sự vật có thể thay đổi bất lợi cho tatrong bất cứ lúc nào. Ðiều đó làm cho ta lo sợ và căngthẳng! Cho dù sự vật thay đổi nhanh hoặc chậm, chúng tađều lo sợ rằng nó sẽ thay đổi thành mức độ xấu tệhơn, bất lợi cho ta hơn. Ðó là vì lòng tham thủ, và từđó sinh ra sự sợ hãi, bất an. Ðối với vị A-la-hán, cácvị đã nhập dòng Thánh giải thoát, các vị đó cũng phảiđối đầu với những thay đổi trong cuộc đời. Tuy nhiên,vì các vị ấy không còn lòng tham thủ, các vị không cònlo âu, sợ sệt nữa, và từ đó không còn hoạn khổ.

Hỏi:Trở lại vấn đề hành Thiền. Ngày nay, pháp hành Thiền củỪạo Phật đã được nhiều người biết đến và có nhiềuchú tâm, nhất là ở các nước Âu Mỹ. Có lẽ đó là vìcon người đang có nhiều căng thẳng trong đời sống hiệnđại và bị nhiều ảnh hưởng của các phương tiện truyềnthông đại chúng. Chúng ta thường xuyên bị cám dỗ bởi cácquảng cáo thương mại, những kích động ngũ dục qua truyềnhình, truyền thanh, sách báo, hình ảnh, v.v. Những điều nầykhông xảy ra trong thời Ðức Phật, 2500 năm trước. Vì bịkích động như thế, tâm thức con người ngày nay bị xáotrộn quá nhiều, rất khó mà tập trung, lắng đọng, và andịu. Hành Thiền có giúp được gì không?

Ðáp:Ngày nay, con người có rất nhiều phương tiện để giúp chạytrốn thực tại hơn ngày xưa, và vì thế, họ đã quen lốichạy trốn những sự kiện thực tế hiện hữu trong chínhhọ. Khi họ thử quay về nhìn lại thực tại, họ cảm thấykhông được nhiều lợi lạc như thời xưa. Con người thờixưa không có nhiều phương tiện giải trí để giúp họ chạytrốn sự thật, cho nên họ không còn chọn lựa nào khác ngoàicách phải duy trì một sự tỉnh giác để nhìn vào sự hiệnhữu của chính họ.

Tươngtự như vậy, nếu như họ tìm đến pháp hành Thiền, họcó thể sẽ cảm thấy thất vọng vì nó không có vẻ gì hấpdẫn hay kích thích. Hành Thiền có một ý nghĩa đơn giảnlà tập nỗ lực trực diện với sự hiện hữu của chínhmình, sống trong hiện tại, không để mình bị cám dỗ bởingoại cảnh, và giúp mình nhìn sự vật như thật, thay vìnhìn qua các ánh đèn màu rực rỡ, giả tạo. Một ngườinếu đã quen với những gì hấp dẫn rực rỡ thì ắt hẳnsẽ không chấp nhận điều đó! Cũng như khi chúng ta đi xuốngphố, nhìn qua khung kính cửa tiệm trưng bày hàng hóa, chúngta thấy người bán hàng thường trang trí thêm các loại giấybóng, giấy màu óng ánh để tạo sự chú ý của người xem.Tuy nhiên, đối với một người đã có chủ tâm, đã bịlôi cuốn vào một món hàng nào đó, người bán không cầnphải trang trí thêm các giấy màu rực rỡ, bởi vì sự rựcrỡ đó đã có sẵn trong mắt của anh ta, anh ta nhìn cái gìcũng thấy rực rỡ cả!

HànhThiền và phát triển Chánh Niệm là để giúp ta thoát khỏiràng buộc của cái rực rỡ đó, để giúp ta buông xả, khôngdính mắc. Phải hiểu như thế thì pháp hành Thiền của ÐạoPhật mới mang lại lợi lạc và hạnh phúc thật sự cho chúngta.

Phóngviên:Chúng tôi xin cám ơn Ðại đức đã có thiện tâmđến đây để tham dự buổi nói chuyện ngày hôm nay. Chúngtôi xin cầu chúc Ðại đức đạt nhiều kết quả tốt đẹptrong sự tu học và trong công tác hoằng dương Phật Pháp.

BìnhAnson lược dịch,
tháng11-1999
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/10/2023(Xem: 1655)
Phật Tánh? Xin nói rằng, tôi không biết. Tôi không thể trả lời câu hỏi có Phật Tánh hay không, và nếu có, thì là như thế nào. Bài viết này không nhằm trả lời những câu hỏi tương tự, mà chỉ là một khảo sát từ cương vị một người học Phật, chưa học tới đâu và cũng chưa tu tới đâu. Bài viết này là một lời thú nhận, rằng không biết chắc có bao nhiêu phần đúng, nhưng hy vọng sẽ phần nào giúp được một số độc giả để dùng làm viên gạch dò đường qua sông. Xin mời độc giả khảo sát, nghi vấn từng câu, từng chữ trong bài này, và rồi nên dựa vào Kinh Phật để đối chiếu.
03/08/2022(Xem: 3623)
Hít vào thở ra, đếm: "một" Hít vào thở ra, đếm: "hai" Cứ thế, đến "mười" rồi nghỉ Vài giây sau, lại bắt đầu
05/07/2022(Xem: 5525)
“Niêm hoa vi tiếu” (Chữ Hán: 拈花微笑, Nghĩa Việt: cầm hoa mỉm cười), gọi đầy đủ là “Niêm hoa thuấn mục phá nhan vi tiếu” (Chữ Hán: 拈華瞬目破顏微笑; Nghĩa Việt: Đưa hoa ra, trong chớp mắt thì chuyển mặt mỉm cười), chuyện kể Đức Phật thông qua hành động im lặng cầm hoa sen truyền Tâm Ấn Trí Tuệ Bát-nhã cho Ngài Ma-ha Ca-diếp. Giai thoại này được cho là bắt nguồn từ giới Thiền Tông Trung Quốc nhằm dẫn chứng cho hệ truyền thừa Thiền Tông bắt nguồn từ Đức Phật.
12/03/2022(Xem: 8344)
Thái tử con vua bỏ cõi trần Xuất gia học đạo quyết tìm chân Thừa đương ấn pháp du Hoa lục Đảm nhiệm tông phong báo Phật ân Thiếu Thất trừng tâm truy diện mục Tung Sơn diện vách bặt ngôn âm Chín năm huyền sử bày chân tướng Lục diệu pháp môn mở diệu tâm.
10/02/2022(Xem: 7687)
Hiện nay phong trào tu thiền nở rộ nhất là Thiền Chánh Niệm, Thiền Vipassana khiến cho một số người coi thường pháp môn tu tập có tính truyền thống. Thậm chí một số cho rằng lối tu truyền thống bao gồm tụng kinh, niệm Phật trở nên lỗi thời, chỉ có tu theo Thiền Chánh Niệm mới giải thoát mà thôi. Quan niệm đó hoàn toàn sai, trái với lời Phật dạy. Trong Kinh Kim Cang Đức Phật dạy rằng, “Pháp của ta không có thấp có cao”. Trong Bát Nhã Tâm Kinh, Đức Phật lại dạy rằng “vạn pháp bất tịnh, bất cấu, bất tăng, bất giảm” và diễn rộng là là “bất thấp, bất cao, bất đúng, bất sai”. Tất cả tùy căn cơ của mỗi chúng sinh mà thôi.
02/12/2021(Xem: 16538)
Nam Mô A Di Đà Phật. Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức, Kính thưa quý đồng hương Phật tử thân mến, Kể từ ngày 12/04/2020, nước Úc của chúng ta cũng như các nước khác trên toàn thế giới đã bắt đầu bị đại dịch Covid hoành hành và lây lan một cách nhanh chóng. Hai năm qua toàn thế giới đã phải chịu ảnh hưởng về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, thương trường. Ngay cả đời sống tinh thần của mọi người dân cũng bị ảnh hưởng không ít, nhất là đối với những gia đình đã phải nhìn thấy người thân ra đi trong sự cô đơn lạnh lẽo, không người đưa tiễn. Biết bao hoàn cảnh đau thương... Tính đến hôm nay nước Úc của chúng ta đã được ổn định phần nào, trên 80% người dân đã được tiêm ngừa theo quy định của chính phủ, cũng như việc không còn phải lockdown, người dân được đi lại tự do giữa các tiểu bang cũng như được hội họp, sinh hoạt hội đoàn và tôn giáo. Trong đại dịch, 2 năm qua nước Úc số người bị nhiễm Covid lên đến 113,411 người và số người không may mắn đã ra đi vĩnh viễn là 1,346 người.
23/11/2021(Xem: 5214)
Đề tài diễn giảng chuyên môn đầu tiên "Phật giáo và Tâm lý trị liệu" (佛教與心理療癒) của Kế hoạch nghiên cứu thuộc Trung tâm Nghiên cứu Đại học Phật Quang Sơn tổ chức tại sảnh Vân Thủy, ngày 17 tháng 11 vừa qua, tiếp đến chủ đề "Tu hành và Chuyển hóa - Đối thoại giữa Tu thiền và Tư vấn Tâm lý" (修行與轉化 禪修與心理諮商的對話), do Thạc sĩ Dương Bội (楊蓓), Chủ nhiệm Khoa Giáo dục đời sống thuộc Học viện Dharma Drum Institute of Liberal Arts (法鼓文理學院); Giáo sư Quách Triều Thuận (郭朝順), người Tổng chủ trì Kế hoạch nghiên cứu, Viện trưởng Học viện Phật giáo Phật Quang Sơn chủ trì. Gần 70 vị Giáo sư nổi tiếng, thuộc Khoa Phật học, Khoa Tâm lý học, Học viện Nghiên cứu Tôn giáo đã tham dự buổi tọa đàm đầy ý nghĩa.
19/11/2021(Xem: 6982)
Trung Bộ Kinh Nikãya có bốn bài kinh số 131, 132, 133 và 134 có cùng nội dung chỉ khác nơi và người giảng. Cả bốn bài kinh này có tên là “Bhaddeka ratta Sutta” đã được cố đại lão Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ tiếng Pãli sang tiếng Việt, gọi chung là “Nhất Dạ Hiền Giả”. Trước đây chúng tôi đã có bài viết “Tìm Hiểu Kinh Nhất Dạ Hiền Giả”, số 131 (*). Nay, với tinh thần cầu học, chúng tôi muốn chia xẻ thêm với các bạn thiền sinh, cũng đề tài này qua văn phong dịch thuật của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh với tựa đề là “Kinh Người Biết Sống Một Mình”.
18/11/2021(Xem: 3896)
Dù nhìn dưới góc độ nào hay y cứ theo ý nghĩa của bất kỳ truyền thống nào thì Triết gia Karl Marx (1818-1883) không phải là một Phật tử. Từ những nguồn có thể xác định được, trong những chuyến vân du đó đây vòng quanh châu Âu, cá nhân Triết gia Karl Marx chưa bao giờ tiếp cận với bất kỳ hình thức Phật giáo "dân tộc" nào.
09/11/2021(Xem: 5445)
Tứ Niệm Xứ là phương pháp thực hành thiền quán tập trung 4 đối tượng Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Thực hành Tứ Niệm Xứ, giúp người tu có được cái nhìn sâu sắc về vô thường, từ đó loại bỏ được những phiền não trong cuộc sống hàng ngày.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567