Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa Tán (sách pdf)

02/04/202305:50(Xem: 3395)
Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa Tán (sách pdf)
Tinh hoa bat nha tam kinh-ht bao lac

TÂM KINH BÁT NHÃ
BA LA MẬT ĐA TÁN

 

Đại Sư Khuy Cơ tuyển dịch

 HT Thích Bảo Lạc Việt dịch

 

 

          Vì chúng sanh bị chướng ngăn che, tin theo tà pháp, bài báng Đại thừa. Đối với pháp Hữu – Vô trãi qua nếu kể sự trói buộc theo dấu ấn mà biết nên được sanh ra đời là điều hy hữu. Giá như may được sanh làm người là nhờ thân cận thiện hữu, vì mỗi người lầm một cách làm cho lời dạy rối rắm, ngại biển học sâu thẳm ban sơ không có ý hướng tầm cầu, dù thích kinh điển vẫn không hiểu. Nơi tục đế chấp pháp hữu-vô, tâm-cảnh mới sanh tâm thủ-xả, làm cho nghĩa của pháp thành có đúng sai. Người tin học pháp đều được lợi lạc, y lời dạy pháp trung đạo, như Kinh Giải Thâm Mật thuyết. Theo tánh giả lập (biến kế sở chấp) cho hay mọi pháp không có tự tánh, không sanh diệt, tánh bản lai vắng lặng tùy ba không tánh theo thắng nghĩa. Lúc đó Bồ Tát Thắng Nghĩa hỏi Phật rằng:

          - Bạch đức Thế Tôn, ban đầu Phật chỉ nhắm tới Thanh Văn nên nói pháp Tứ đế, tuy rất hiếm quí nhưng chưa ai hiểu rõ nghĩa lý, do đó mới có những sự tranh luận diễn ra khắp nơi. Sau Phật vì ý đó mà nhắm tới Đại Thừa khai diễn pháp ẩn mật, nói các pháp đều không có tự tánh, không sanh, không diệt, bản lai vắng lặng. Tuy pháp rất hiếm có nhưng do chưa hiểu nghĩa nên nảy sinh những sự tranh biện. Nay vì người phát tâm hướng đến Phật thừa mà Phật chuyển nói pháp cực vô thượng, là pháp thắng nghĩa pháp rốt ráo, không còn chỗ nào tranh luận nữa.

          Kinh Kim Quang Minh đề cập ba pháp ấy bằng ba từ là chuyển – chiếu – trì; chuyển là phá sạch hết danh biểu hiện. Do chúng sanh mê chấp thật tướng các pháp tạo nghiệp sai lầm nên trôi lăn trong biển sanh tử. Phật, bậc đại thánh pháp vương ngộ tự tánh các pháp khéo dùng phương tiện thích hợp căn cơ mỗi người lìa ngôn từ; Phật thể nghiệm thuyết minh rõ và muốn chúng sanh hiểu thật tướng trung đạo như bài kệ:

 

          Chư Phật hoặc nói ngā

          Tùy lúc bảo vô ngã

          Đối thật tướng các pháp

          Không ngã, không phi ngã.

          Ngoài ra, các kinh cũng nói: Phật dùng một âm diễn nói vô số nghĩa, chúng sanh tùy loài nghe đều hiểu rõ. Cũng như nhạc trời hợp với tâm niệm mà phát ra tiếng, hoặc như hoa mạt lợi chờ trời mưa vậy. Cũng như thế, Phật tuy nói vô số pháp môn, nhưng chỗ nhận hiểu thuần một không trái nhau. Sau khi đức Phật nhập diệt, vì muốn giáo pháp phân bố lợi lạc khắp trời người nên đầu tiên kết tập thành như bài kệ rằng:

         Nên xét lời Phật dạy

         Y thánh đế trình bày

         Như đãi cát tìm vàng

         Chọn lọc loại tinh ròng

 

         Các bậc Thánh, Long Mãnh (Long Thọ) v.v... trừ chấp hữu ngộ chân lý đạt tới không tông, như có bài tụng rằng:

         Chân tánh có như không

         Giả duyên kết hợp rỗng

         Vô vi không thật hữu

         Không thấy tợ hoa không.

 

         Ngài cho rằng thế gian chấp các pháp là có, theo Thắng Nghĩa đế tất cả pháp đều không. Tuy vậy không đây là tánh chân không chứ không phải không có, dựa vào thắng nghĩa theo lý đều là tánh không, chúng sanh do đấy nẩy sinh thấy rỗng không. Bồ Tát Vô Trước thỉnh cầu đức Thế Tôn dạy nghĩa trung đạo để dứt trừ hai lối chấp này qua bài kệ:

Hư vọng phân biệt có

Trong đó cả hai không

Chỉ có không ở trong

Bên nào cũng khó thông

Nên cho tất cả pháp

Không không cũng chẳng không

Hữu-Vô đều có cả

Cùng trung đạo hiệp đồng.

          Phật dạy, thế gian cho ngã-pháp là có, y theo thắng nghĩa đế, cả hai pháp đều không, tuy Phật phá chấp không chấp hữu, vẫn thuyết tướng chung các pháp có-không. Như nói rằng các pháp chẳng không chẳng có, nhưng trên danh nghĩa tự tánh vốn lìa không-hữu cả hai đều không, còn thắng nghĩa truyền pháp hữu-vô ắt có. Phật dạy hữu vi, vô vi gọi là có; Ngã và những cái thuộc về ngã là vô vi; Ngài không nói pháp hữu-vô là không. Xem thế đủ rõ ý Phật với pháp hữu-vô không hề mâu thuẫn nhau. Pháp ngoài trí xét nét có-không thế nào được. Phật theo trình độ, căn bịnh giả (mượn) nói pháp hữu-vô mà về sau người học Phật theo văn khởi chấp. Những gì đã giải hợp trung đạo; còn cái biết của thế gian là hiểu sai lầm. Nay đem nghĩa kinh soi rõ hữu-vô, lý sâu nhiệm phi kẻ trí không hiểu. Bát Nhã Ba La Mật Đa là gọi chung bộ kinh quan trọng (vĩ đại-thâm áo). Riêng về Tâm Kinh, Kinh này theo cách nói riêng là kinh cốt lõi (kinh ruột) tuệ giác. Tammasa giải thích lấy tên người làm danh, Tô Mạn Đa âm thanh thuộc chủ làm đề mục. Tuy nhiên ở đây Tâm Kinh cũng gọi là Bát Nhã. Một đàng gọi chung, một bên gọi riêng nên là Tâm; Bát Nhã nghĩa là tuệ giác. Theo cựu dịch Bát Nhã có ba nghĩa: 1) Thật tướng là chân lý  2) Quán chiếu là chân tuệ  3) Văn tự là chân giáo. Nay giải thích thêm có năm nghĩa 4) Quyến thuộc là vạn hạnh và. 5) Cảnh giới là vạn pháp. Tu tập đầy đủ hai phần phước và trí là thông tỏ hữu-vô, tìm xét kỹ nghĩa lý phát chiếu tuệ tánh, tuệ tư gọi là Bát Nhã trừ dứt các thói nhiễm ngộ được chân lý. Lấy các đức tánh tốt làm đầu, vạn hạnh dẫn đạo, dù chỉ gọi tuệ song bao hàm mọi pháp. Ba La có nghĩa là bờ bên kia (bờ giải thoát) theo như lối cổ có hai nghĩa là Bồ Đề, Niết Bàn. Hiểu theo bây giờ bỉ ngạn có năm nghĩa: a) chỗ cần biết  b) giáo c) lý  d) hạnh e) quả; Mật Đa có nghĩa là lìa hay đạt đến. Do thực hành Bát Nhã lìa các chướng nhiễm; cảnh dứt hữu-vô rõ thông sáu thức; nghĩa dung chân-tục đầy đủ hai nhân; giác ngộ viên mãn tròn đầy lên bờ giải thoát. Thể dụng nêu cùng lúc mà có tên kinh, song chỗ tu tập phải đầy đủ 7 pháp tối thượng mới đạt được ba la mật đa. Bảy pháp đó là: 1) Vững tu Bồ Tát hạnh 2) Nương theo đại Bồ Đề tâm 3) Thương xót chúng sanh 4) Sự nghiệp tu hành đầy đủ  5) Nhiếp giữ trí vô tướng  6) Hồi hướng đạo Bồ Đề  7) Không bị hai chướng xen tạp. Như tu tập Bát Nhã đạt được các nghiệp lành (thiện nghiệp) dưới cái nhìn Bát Nhã mở rộng này một lần chẳng thể đạt đến giải thoát. Kiếp thứ nhất mới đến giải thoát, kiếp thứ nhì cận giải thoát, kiếp thứ ba đại giải thoát hay cũng gọi là quả vị Phật. Nói tổng quát nhân quả gồm chung mà tâm lại vô cùng tinh vi nên lấy đó đặt tên bộ kinh quan trọng này; theo nghĩa sâu rộng để hành trì tu tập hoặc e ngại lui sụt thoái tâm. Chư thánh hiền truyền pháp nêu rõ sự thật tối thượng nên nói kinh này. Phần nhiều lời tựa hẳn thiếu nhiều điểm tinh tế, chỉ lược nêu chỗ cốt yếu mà không hàm vạn tượng bao la sắc tức là không. Đạo bao nhiếp nhiều pháp môn phải quán rõ đến vô trí mới hội thông được. Thông đạt lý thú sâu rộng nêu rõ nguồn tâm nên lấy đó đặt tên kinh. Kinh là sự kết hợp lời Phật dạy đạo lý bàng bạc, dứt trừ mê làm mực thước cho chúng sanh, là muốn khiến chúng chứng nghiệm hoặc nương theo nên Phật mới đích thực thuyết Kinh Bát Nhã này; lấy tâm làm đề mục, như các

luận: Du Già, Thủy Lục Hoa, Kinh Thập Địa v.v..

luận: Du Già, Thủy Lục Hoa, Kinh Thập Địa v.v...

        

         Quán Tự Tại Bồ Tát: là nhơn thắng không. Ý chính kinh Bát Nhã có hai phần: 1) Thuyết Quán Tự Tại để phá hai chấp, hiển lộ hai không 2) Giác hữu tình hay Bồ Đề Tát Đỏa là tán thán hai pháp y đạt hai lợi ích. Đại Kinh nói: Phật bảo: này Xá Lợi Tử khi đại Bồ Tát thực hành Bát Nhã Ba La Mật Đa nên quán xét như thế này: chân thật Bồ Tát không thấy có Bồ Tát, không thấy danh Bồ Tát. Bồ Tát tự tánh không, Bồ Tát danh không nên nay nêu rõ nghĩa khiến Bồ Tát không thấy có Bồ Tát để phá chỗ chấp hữu và nói pháp không. Nếu phải nói như vầy: Kinh Bát Nhã nói chung có ba phần: 1) Quán Tự Tại là bậc thượng nhân tu hành khuyên người phát tâm 2) Xá Lợi Tử nêu rõ người có căn cơ cảm nhận xứng đáng thuận lý bao hàm thí dụ 3) Bồ Đề Tát Đỏa phản ảnh nương đức hạnh của việc học mà thành tựu. Hay nói cách khác, trước hết tôi luyện, thứ đến dứt trừ bốn niệm xứ và sau cùng lìa khổ chứng chân. Tôi luyện có ba: Bồ Tát hơn ai hết là người tu hành rồi khuyến tấn người khác phát tâm, đó là pháp thứ nhất. Như nghe hạnh Bồ Đề rộng lớn sâu xa mà sanh niệm lui sụt nên phải rèn luyện tâm. Như Ngài Quán Tự Tại xưa kia lúc mới phát tâm cũng với bao nhiêu phiền não vô minh vây buộc rồi mới phát tâm dũng mãnh, xả bỏ thân mạng, của cải cầu đạt Phật trí, nhờ nung đúc phát khởi hùng lực mà thành Phật. Ta cũng phải như vậy nên khuyến tấn mình nỗ lực tu tập, không nên tự khinh mà sanh tâm lui sụt. Quán là xét để bổ sung cho trí và bi; Tự Tại nghĩa là không ngưng trệ, cứu giúp bằng cách khéo léo làm cho chúng sanh thanh tịnh ba nghiệp (thân, miệng, ý). Hẳn đạt được mong cầu sáu phép thần thông rộng đường giáo hóa, không bị lỗi lầm, nguy khốn, phi hành tự tại như chỗ không người. Làm bạn thân không cần mời gọi, làm thầy ứng bịnh cho thuốc, làm lợi lạc vô số không nghĩ bàn gọi là Quán Tự Tại. Ngoài ra, chữ Quán còn có nghĩa chiếu soi, hiểu rõ tuệ Không; Tự Tại nghĩa là tự do vô giới hạn, chỗ đạt được là kết quả hơn hết. Do trước thực hành pháp tu lục độ mà nay được kết quả tròn đầy, dùng tuệ làm pháp quán trước hết đạt được 10 pháp tự tại như:

         1. Mạng sống tự tại có nghĩa thân mạng diên trì lâu dài

         2. Tâm tự tại là không bị vướng nhiễm trong sanh tử

3. Của cải tự tại tùy ý có ngay, do bố thí mà cảm được

         4. Nghiệp tự tại tức là chuyên làm việc thiện và khuyên người khác làm thiện

         5. Sanh tự tại theo ý muốn ra đời, nhờ giữ giới mà được

         6. Thắng giải tự tại, tùy ý muốn trọn thành, do nhẫn mà đạt được

         7. Nguyện tự tại, quán sát được niềm vui do tinh tấn

         8. Thần lực tự tại, có thể phi thân dễ dàng, do định lực

         9. Trí tự tại theo ngôn từ phát huệ sáng suốt

         10. Pháp tự tại hợp với khế kinh, nhờ huệ mà được.

         Bồ Tát Quán Tự Tại quán chiếu thấy không tối không sáng, ở bực bổ xứ mà thành Đẳng Giác; nếu nói Quán Âm theo ý nghĩa của lời nói đều là thiếu sót. Bồ Đề Tát Đỏa nói gọn là Bồ Tát. Bồ Đề là tuệ giác, tát đỏa là phương tiện. Cả hai nghĩa đều có khả năng làm tất cả những việc lợi ích chúng sanh. Lại nữa, Bồ Đề cũng có nghĩa là giác, do trí mong đạt quả, tát đỏa là hữu tình, nhờ bi nguyện độ sanh, do phát thệ rộng lớn nên gọi là Bồ Tát. Tát Đỏa cũng hàm nghĩa dũng mãnh; tinh tấn cầu đại Bồ Đề dõng mãnh là Bồ Tát. Nói cách khác, người tu hành dũng mãnh tức giác hữu tình mong đạt ba tuệ giác gọi là Bồ Tát, có đủ bi trí cùng tâm thương xót chúng sanh, làm hưng hiển đạo pháp, cứu khổ trừ nguy; tịnh hóa chùa am, cơ cảm hợp nhau nên tiêu biểu như vậy. Hoặc đặt ở vị trí cao hơn do đại tâm diệu huệ thành tựu là Quán Tự Tại. Hoặc chỉ rõ điều này khiến nhìn kỹ là Quán, không phải từ Tây phương qua đây như kinh Đại Bát Nhã phân biệt nên Kinh nói rằng hành thâm bát nhã ba la mật đa là như vậy.

          Lời tán dương thắng không nói từ thấp phá chấp rồi mới nói pháp không. Đại Kinh nói rằng, không thấy Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng không thấy danh Bát Nhã Ba La Mật. Vì tự tánh Bát Nhã là không, Bát Nhã không nên ứng hợp như lời nói rõ ràng do học mà phát huệ soi sáng tánh không, biểu hiện trước hết là pháp tu.

          Thứ hai tôi luyện tâm, như thấy Bồ Tát tu vạn hạnh khó thực hành mà sanh ra thoái chí nên phải rèn luyện. Ta từ vô thỉ đến nay vì ham thích theo tục nên chưa sẵn sàng đón nhận nghĩa Không, mọi sự khổ huống nữa cầu Bồ Đề mong ra khỏi sanh tử cứu độ chúng sanh mà còn tâm khiếp sợ ư? Muốn hiểu sâu Bát Nhã, Bồ Tát cần phải tu học, ta cũng vậy. Có nghĩa phải phản tỉnh tự thân tấn tu không nên thoái chí. Ngài Xá Lợi Phất trước kia phát tâm vĩ đại bố thí mắt vì muốn cầu quả Thanh Văn, nên lo sợ ngày nay thoái tâm mà khuyên nhắc phải luyện tâm. Như nói hành thắng không đó là nương vào thế gian pháp. Còn muốn chứng xuất thế trí vô phân biệt không quán ngược với Không nên cần học để phân biệt những chỗ bị duyên bằng Văn-Tư-Tu; tập soi tỏ Không là hành. Nếu nương thắng nghĩa do Không sở đắc, vô phân biệt không chỗ hành, đó là hành. Kinh Vô Cấu Xưng ghi rằng, không hành là Bồ Tát không niệm nghĩ. Đại Kinh cũng nói, không thấy hành chẳng thấy không hành là tự tánh Không.

         Nay nói hành không chỗ hành mới là hành mà không hành. Hơn nữa theo nghĩa ẩn không hành cũng không chẳng hành, ấy chính là hành. Nếu còn hành hay chẳng hành không phải là hành. Cũng còn một cách giải thích khác như động niệm lăng xăng (tâm phan duyên) sanh tử vốn không phải hành; chuyên tâm dứt nghĩ tưởng là xuất thế mới đúng thật là hành. Như nói đúng chính xác, chẳng hạn nhà ảo thuật là có hành, dù không thật nhưng chẳng phải không giống thật, phải đầy đủ các duyên nghe, tin, học, thực nghiệm, thuyết minh chưa từng bỏ, song ta cũng khó phân biệt được, vì không thấy rõ hành tướng nhưng vẫn gọi là hành mà chẳng phải hoàn toàn vô hành. Giả sử đem con bịnh tới bảo ta trị chắc không thể trị lành được, vì ta vốn không có phương pháp chữa bịnh hẳn khó trừ dứt bịnh. Như người ngu tự xưng giác ngộ đem tuyên bố là chính mình làm hại mình, như cái lọng hoa thể nó không thể trị liệu, vì đã không thật làm thế nào trị lành được bệnh? Cây lọng không thật - lúc đầu do hoa mắt không nhận ra đúng, thắng nghĩa đế do đây soi chiếu thể không hoa. Như không chỗ hành không chỗ chẳng hành là do chúng sanh vô minh không sáng suốt. Từ vô thỉ sáng suốt rồi thoạt dấy khởi niệm vô minh đến nay chưa ai từng được minh. Đem sánh chỗ đồng chỗ dị đạo có cùng khắp, trái lý nghịch tông làm sao đạt tuệ giác? Nếu dứt nghĩ lăng xăng tức hành đúng pháp, hợp định vô tưởng đều thành thánh đạo. Không vin chỗ hành trì xả thủ mới nhanh chóng tư duy trừ dứt sai lầm được. Nay đề cập tới hành, dù hành mà không thấy hành ấy chẳng phải là không hành. Vì thế, kinh nói chẳng thấy hành cũng chẳng không hành. Mượn chỗ hành song kỳ thật là vô hành, chẳng những vậy mà phải nói chẳng thấy hành nữa. Vậy nên nêu hỏi: chẳng thấy không hành làm sao có đủ lý lẽ rõ ràng? Vì thế phần sau sẽ thuyết minh rõ. Phật quả là tối diệu thù thắng vô cùng, nếu chẳng phải tu sâu không do đâu chứng đắc. Do vậy, theo nghĩa nói có thực hành mà điều quan trọng nơi Đại Thừa có hai loại chủng tánh đó là: 1) Bổn tánh trong chủng tánh, có nghĩa nơi bổn thức phát sanh công năng bản tánh vô lậu (không còn phiền não). 2) Do huân tập thành chủng tánh nghĩa là nghe chánh pháp vân vân rồi huân sâu nơi tiềm thức mà thành.

         Làm sao biết bản tánh nơi chủng tánh nhờ tu tập đạt đại Bồ Đề? Như tánh thích bố thí, ưa khuyên người khác làm thiện hợp thời mà nói; bị người trách cứ không cuồng nộ, không tỏ thái độ kỳ cục, sống trên châu báu không tham đắm. Nếu người thực hành tâm nhu nhuyến hẳn ác nghiệp không làm tổn hại người khác; có tạo điều ác nhanh chóng sửa sai thường có lòng thương giúp, biết tri ân báo ân. Phàm có việc mong cầu không làm điều phi pháp, ham tu phước, biết sợ tội; thấy nghe, chịu khổ do tự thân, thấy việc thiện ưa làm, việc ác cần xa lánh. Đối với kẻ cầm cương thường không nói lời đay nghiến, với kẻ đức độ luôn sanh lòng ngưỡng mộ. Nếu bị người làm hại không có tâm báo thù, người đến tạ lỗi nhanh chóng tiếp nhận mà không kết hận, không nhớ cựu thù. Nếu có tánh cao ngạo cần sớm dậy tối nghỉ, gặp việc cương quyết thích làm cho xong. Thấy đại nghĩa không nản lòng cũng không tự khinh mình. Đối với giáo pháp phải thẩm xét tư duy, ham thích nơi vắng lặng, yêu mến hạnh xuất thế. Làm việc gì không quên đối với oán có lòng từ mẫn, nếu có trí thông minh việc học dễ thành tựu. Xa lánh việc ác nhờ gia tâm suy tư chọn lọc nên không khởi phiền não trói buộc tạo nghiệp không ngừng, dứt mất thiện căn. Giả thử sanh ở cõi ác có thể mau thoát khỏi và không bị thống khổ bứt ngặt, dù chịu ít khổ cần phát dũng mãnh để đè bẹp, thấy chúng sanh khổ sanh lòng thương xót. Như chứng kiến cảnh khổ ta nên thi ân cứu giúp, những phiền não chướng vi tế, thô phù câu thúc, phải ứng dụng tuệ giác Bồ Đề. Song nếu chưa gặp được bậc thiện hữu tri thức nói về tuệ giác hoặc dù gặp được mà điên đảo, cố chấp vẫn còn, do thiện căn chưa thuần thục nên còn trong vòng sanh tử. Nếu ở năm vị tu tập những việc thiện gieo nhân lành hẳn đạt được kết quả. Năm vị đó là:

         1. Tư lương vị: từ sơ phát tâm tới khi đạt giác ngộ trải qua tu bốn pháp tầm tư quán 40 trụ tâm đều ở tư lương vị: A - Thập tín có mười tâm như: 1. Tín 2. Tinh tấn 3. Niệm

4. Huệ 5. Định 6. Thí hay cũng gọi là bất thoái 7. Giới 8. Hộ 9. Nguyện 10. Hồi hướng. B - Thập trụ gồm: 1. Phát tâm 2. Trị địa 3. Tu hành 4. Sanh quí 5. Phương tiện 6. Chánh tâm 7. Bất thoái 8. Đồng chơn 9. Pháp vương tử 10. Quán đảnh. C - Thập hạnh: 1. Hoan hỷ 2. Nhiêu ích 3. Vô nhuế 4. Vô tận 5. Ly si 6. Thiện hiện 7. Vô trước 8. Tôn trọng 9. Thiện pháp 10. Chân thật. D - Thập hồi hướng: 1. Cứu hộ chúng sanh 2. Bất hoại 3. So sánh đồng chư Phật 4. Đến hết thảy xứ 5. Công đức vô tận tạng 6. Tùy thuận thiện căn bình đẳng 7. Tùy thuận quán chúng sanh như nhau 8. Như tướng 9. Không bám không chấp 10. Pháp giới vô lượng.

         2. Gia hạnh vị: Từ sau vị tư lương còn bốn pháp đẳng trì (định) như: 1. Đạt định sáng 2. Minh tăng định 3. Ấn thuận định 4. Vô gián định (định không xen hở gián đoạn).

         3. Thông đạt vị: từ sau bốn pháp định là sơ địa, sơ tâm, chân tướng, kiến đạo.

         4. Tu tập vị: từ sau kiến đạo đến Kim Cang định, thập địa, tu đạo. Thập địa như sau: 1. Cực hỷ 2. Ly cấu 3. Phát quang 4. Diệm huệ 5. Cực nan thắng 6. Hiện tiền 7. Viễn hành 8. Bất động 9. Thiện huệ 10. Pháp vân.

         5. Cứu cánh vị: sau Kim Cang định đến giải thoát đạo trong đó có ba thân Phật, bốn

diệu viên tịch-viên mãn Phật quả. Tuy biết năm vị nhưng làm thế nào tu tập? Những hành giả muốn chứng Bồ Đề làm được nhiều việc lợi lạc trước tiên phải phát tâm đại Bồ Đề rồi mới tu chánh hạnh. Ví như biển cả trước phải do từng giọt nước hình thành, tạo nên các thứ vật báu, chỗ cư trú v.v... Người ban đầu mới phát tâm cũng thế, năm thừa (Nhơn, Thiên, Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát) thiện pháp nhân đây mà có; cũng như thế giới lúc ban sơ sanh trưởng dần dần mới có cây cỏ, chúng sanh sinh sống. Tâm cũng vậy, bị năm đường bám chặt các thứ nương gá theo, như hư không, không phải chẳng có gì chung quanh. Tâm đại Bồ Đề cũng thế có cùng các pháp hữu vi nhưng bị che khuất, như hư không, Bồ đề có thể cầu chứng. Chúng sanh đều khắp cùng, trong vũ trụ người sơ phát tâm tuy thấy mới bắt đầu nhưng một niệm phước tụ cũng khó nói hết, huống là qua nhiều kiếp phát tâm tu hành công đức lợi lạc hữu tình. Nhân đâu phát tâm?

         1. Nghe thấy thần lực của Phật 2. Nghe giảng Bồ Tát giới 3. Thấy và nghe Phật Pháp sắp diệt. Nghĩ rằng, giáo pháp có thể dứt hết các khổ. 4. Đời mạt pháp đa phần chúng sanh si mê không biết hổ trẽn, ganh ghét đố kỵ, lo khổ, tâm ác, phóng túng, lười nhác, không tin. Vì đời ác nhiều người khởi tâm ác phức tạp như thế, ta phải phát tâm làm cho người khác học ở ta, mà phát Bồ Đề nguyện, do đó phát đại Bồ Đề tâm. Người muốn phát tâm trước phải đủ mười đức và ba diệu quán. Mười đức tính hay thắng đức là: thân cận thiện hữu, cúng dường chư Phật, tu tập căn lành, chí cầu pháp giải thoát, tâm luôn nhu hòa, gặp khổ hay nhẫn, từ bi đôn hậu, thâm tâm bình đẳng, tin ưa Đại thừa, cầu trí huệ Phật. Ba Diệu quán là: 1) Che dấu bốn pháp hữu vi, nghĩa là xem sanh tử ác thú khổ bức không cùng; ngay nơi thân thể gồm 5 uẩn, bốn đại(1) có thể tạo ác nghiệp. Cửu khiếu chín lỗ(2) thường bài tiết chất dơ bẩn hôi hám; 36 món(3) trong thân tích chứa. Vô số phiền não thiêu đốt thân tâm như bọt như bóng, niệm niệm nối luôn không dừng, che dấu tạo nghiệp luân hồi trong sáu đường. Xét nghĩ như thế ngay tự thâm tâm nên xả. 2) Cầu Bồ Đề nghĩa là quán thân Phật tướng tốt trang nghiêm, pháp thân thuần tịnh, đủ giới đức, đẳng tâm, lực vô úy, vô lượng pháp cao tột hoàn thành hai trí(4) thương xót chúng sanh. Phật dẫn dắt kẻ mê khiến tu chánh đạo làm cho chúng sanh mau dứt phiền não, thấy công đức tu tập phải khát cầu. 3) Nghĩ chúng sanh tức quán chúng sanh bị si ái làm mê mờ nên thọ khổ vô cùng; không tin nhân quả

         Bồ Tát Vô Trước(6) nhân ý này mà nói kệ tán thán rằng:

         Thanh tịnh lực cao vời

         Kiên trì môn phước trí

         Bồ Tát mới phát tâm

         Ba đại kiếp tinh cần

         Trước tiên phải khởi niềm tin, tinh tấn, niệm, định, huệ mới trừ dứt chướng nhiễm. Thứ đến phát đại nguyện thường gặp thiện hữu để làm thắng duyên, dù gặp bạn ác tìm cách làm tổn hại vẫn không bỏ tâm đại Bồ Đề. Chuyên tâm tu thiện việc thiện gia tăng, dùng tâm tinh tấn mới sách tấn nhiều người, tất cả đều là việc tu hành ban đầu vậy. Y theo những gì trình bày trên mà phát sơ tâm dần dà đạt đến Vô Thượng Bồ Đề, dự vào Đại thừa cùng chư Bồ Tát trong biển sanh tử cứu thoát vô số chúng sanh, thẳng tắt mau chứng quả giải thoát. Kế phải nghĩ tới hai nghĩa sau: một là nghĩa hẹp, hai: nghĩa rộng. Nghĩa hẹp có ba: cảnh, hành, chứng đắc quả, do xưa mê không biết chân vọng và cảnh giới mà khởi phiền não nên phải thọ khổ. Nay nhận chân được nên cũng có ba: ban đầu phải quán xét kỹ cảnh, khi đã phân biệt rõ thiện ác phải hành để trừ dứt. Nhân hành đủ các đức bèn chứng đắc. Chư Phật Thánh dạy tuy nhiều nhưng pháp tu không ngoài 3 loại như thế hành giả cần nương theo đó tu học. Sao gọi là quán cảnh giới? Có nghĩa trước tiên quán xét do duyên sanh hết thảy sắc, tâm, các tâm sở v.v... giống như hoa đốm thường dối gạt người ngu lấy đó làm tự tánh tùy thuộc (y tha khởi). Người ngu không biết vọng chấp đó cho là ngā, là pháp có thật như hoa đốm tánh tướng đều không là giả lập (biến kế sở chấp). Tánh tùy thuộc trên ngã pháp vốn không có, do quán không đây mà làm hiển chân lý như hư không là tánh tuyệt đối (viên thành thật). Các pháp ta biết được không ngoài hữu- vô thể nó là không. Chỉ gọi chung là giả lập bên cạnh những chấp chặt của tâm giả lập vốn thể của pháp, hợp lý phải phân biệt. Các pháp hữu vi đều tùy thuộc, đủ duyên hiển bày. Các pháp vô vi là tánh tuyệt đối, pháp vốn là lý chân, còn pháp hữu lậu là tùy thuộc, vì tánh điên đảo. Các pháp vô lậu là tuyệt đối, vì chẳng điên đảo vậy. Biết cảnh giới nên tu chánh hạnh. Ba môn học: Văn do nghe mà được, Tư do suy xét, Tu thực hành mà có, tuy chung hai phần phước huệ mà hàm hết thảy công đức, là phần căn bản tinh yếu sâu thẳm. Thắng nghĩa dễ đạt thích thời khó sánh, dứt các lỗi lầm mới quán xét kỷ được ý sâu xa Tiểu thừa, Đại thừa, tiệm ngộ, đốn ngộ đều không nương đây đạt lý như Kinh Hoa Nghiêm nói rằng:

Tâm như người thợ họa

Vẽ năm ấm bày ra

Có cả thế gian và

Vạn tượng pháp bao la

Tâm Phật cùng một thể

Tâm chúng sanh cũng thế

Chúng sanh, tâm và Phật

Cả ba không sai biệt

Chư Phật hẳn rõ biết

Hết thảy do tâm biến

Nếu hiểu rõ thực tiễn

Chân Phật từ đây hiện

Thân tâm chẳng hai riêng

Tâm chẳng phải thân tuyền

Khởi tác dụng thường xuyên

Chưa từng có tự nhiên

Như cũng muốn biết tới

Chư Phật rõ ba đời

Quán sát như thế thời

Tâm là Phật mấy hồi.

Luận Trí Độ rằng, Bồ Tát lại khởi nghĩ như thế này: Những gì có ra nơi 3 cõi đều do tâm tạo tác. Vì hết thảy do tâm tạo như ta thấy đó, do tâm thấy Phật lấy tâm làm Phật. Tâm tức là Phật, tâm tức là thân ta. Tâm không tự biết, cũng không tự không hiện hữu, thật lý duy thức mới gọi là chứng đạt, như có bài kệ sau:

         Hợp thời chỗ bị duyên

         Trí đều không sở đắc

         Bấy giờ trụ Duy Thức

         Lìa hai chấp tướng pháp

         Rõ chân thức rồi khởi hậu đắc trí(8) mới ngộ tục đế, như Kinh Hoa Nghiêm cho rằng:

         Hẳn thấy rõ chân như

         Mới nhận ra các hành

         Tuy có mà không thật

         Mọi sự do huyễn sanh

         Đến vị này gọi là đạt pháp, an trụ cực hỷ địa (đất thuần an lạc) sanh nhà Như Lai, tự biết không bao lâu nữa sẽ thành Vô Thượng Giác. Nơi tu tập vị việc tu có khác; nơi bốn địa trước chân-tục duy thức mỗi phần ngộ riêng, vào đệ ngũ địa mới có ít hiệp quán, nhưng phải thật dụng công chưa hề bỏ mặc. Đến đệ thất địa quán biết chân tục tuy thời gian dài mới được vị gia hạnh. Từ bát địa trở lên không cần cố gắng khuyến tu, cuộc vận hành trong không khởi có thắng hạnh. Đến vị cứu cánh tuy chẳng tu nhưng niệm niệm đủ duyên biết rõ chân tục, cần nhắm tới hai phần: hiện hành và chủng tử. Ở hai vị đầu tiên còn hữu lậu trong ba huệ gồm chung hai pháp tu (văn, tư), tu tập vô lậu vị thấy. Nếu chấp tâm tướng là hoàn toàn vô trí; tâm hư dối do vô minh khởi. Biết rõ tuớng tâm liền nhập thật tướng các pháp mà quán duy thức là cao tột đệ nhất. Thức ấy là tâm, do tâm tập khởi vẽ họa làm chủ, độc lập một mình thu nhóm các pháp, chỉ vì bị ngăn che vướng chấp ngã pháp lìa tâm mà có, thức đó biểu hiện: nhân duyên pháp tánh không lìa tâm. Pháp lìa tâm nhất định chẳng gọi tên duy thức; không nói hết thảy duy chỉ tâm thức mà còn nhiều thứ khác như: bạn lành, bạn ác, quả, nhân,sự, lý, chân, tục đều chẳng phải không. Tánh giả lập chỉ cái biết hư vọng, tự tánh tùy thuộc chỉ biết thế tục, tự tánh tuyệt đối biết thắng nghĩa, cho nên các pháp chẳng lìa tâm, như bài kệ sau:

Quỉ, súc sanh, người, trời

Mỗi loài tùy cõi hiện

Tất cả tâm sai biệt

Nghĩa lý không chân thật

Ở quá khứ mọi việc

Mộng tướng hai hình sắc

Giả duyên đâu phải thật

Nhưng cảnh - tướng hoàn tất.

         Nói mỗi loài trong các cõi chỉ duy tâm, e văn rườm rà khó hiểu nên giản lược bớt. Nay hiểu rõ thánh lập chấp ngã - pháp không đưa vào chân tánh, thể tánh chẳng phải không. Ở đây Duy Thức nói rằng che sở chấp, như chấp cho rằng các thức thật hữu như thế là Duy; đã có sở chấp cũng phải trừ bỏ. Như chủ trương cho rằng, tất cả duy thức, chân, tục đế, thiện, ác, vô ký, (ba tánh). Ba vô tánh là: Không, vô tướng, vô nguyện (ba giải thoát môn), tin sự bất tử, vô sanh, giác ngộ lý vô sanh (tam vô sanh nhẫn). Giáo hóa chúng sanh bằng phương pháp diễn đạt bình thường, thế tục, hay giáo hóa từng cá nhân một, bằng cách thích ứng với khả năng, căn cơ của mỗi người, hoặc đánh giá tâm bệnh của chúng sanh và chỉ thành chân lý cứu cánh rốt ráo (tứ tất đàn), lời nói ấn định đúng đắn, xác thật, không sai, tất cả các hành đều vô thường, mọi pháp đều vô ngã, Niết Bàn là tịch tĩnh vắng lặng (bốn pháp ấn). Tìm cầu tập trung suy nghĩ là hoạt động thường xuyên của tâm thức: hối cải ăn năn, ngủ say trong mộng, tìm cầu suy xét, nghĩ tìm phăng manh mối (tứ tầm tư). Trí biết, thông tổng tướng, biệt tướng của các pháp đúng như thật, không bị ngăn ngại (tứ như thật trí). Kiên nhẫn vượt qua những hoàn cảnh ngang trái, nhẫn nại kiên trì đạo lý không lui sụt tâm trong năm đức tánh phục nhẫn. Bồ tát biệt giáo không lìa tự tánh, nên nói hết thảy chỉ có thức không chi khác. Ngoài ra kinh cũng nói: ba cõi duy tâm, nhiếp giữ một chỗ nên quán pháp như thế.

 

 

 pdf icon-2


Tinh Hoa Bát Nhã Tâm Kinh_HT Thích Bảo Lạc








Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567