Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

27. Kinh Sa-Môn-Quả

12/03/201211:11(Xem: 5790)
27. Kinh Sa-Môn-Quả

KINH TRƯỜNG A HÀM

Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ

PHẦNIII

27.KINH SA-MÔN QUẢ

Tôinghe như vầy:

Mộtthời, Phật trú tại La-duyệt-kỳ, trong vườn Am-bà của KỳCựu đồng tử, cùng với Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươingười.

Bấygiờ, A-xà-thế, con trai bà Vi-đề-hi, vào ngày rằm, lúc trăngtròn, sai gọi một phu nhân đến, bảo rằng:

“Đêmnay trong sáng không khác gì ban ngày. Ta nên làm gì?”

Phunhân tâu:

“Đêmnay rằm trăng tròn, như ban ngày không khác. Nên tắm gội sạchsẽ, cùng các thể nữ hưởng thụ ngũ dục.”

Vualại lệnh gọi thái tử thứ nhất là Ưu-da-bà-đà đến hỏi:

“Đêmnay rằm trăng tròn, không khác gì ban ngày. Ta nên làm gì?”

Tháitử tâu:

“Đêmnay rằm trăng tròn, như ban ngày không khác. Nên tập họp bốnthứ quân, cùng bàn mưu chinh phạt phản nghịch biên cương,sau đó trở về cùng hưởng thụ dục lạc.”

Vualại ra lệnh triệu đại tướng Dũng Kiện đến hỏi:

“Nayngày rằm trăng tròn, đêm sáng trong không khác gì ban ngày.Ta nên làm gì?”

Đạitướng tâu:

“Đêmnay trong sáng, không khác gì ban ngày, nên tập họp bốn thứquân, đi tra xét thiên hạ để biết có sự thuận hay nghịch.”

Vualại sai triệu Bà-la-môn Vũ-xá đến hỏi:

“Nayngày rằm trăng tròn, đêm sáng trong không khác gì ban ngày.Ta nên đến Sa-môn, Bà-la-môn nào, để có thể khai ngộ tâmta?”

Khiấy Vũ-xá tâu vua:

“Đêmnay trong sáng, không khác ban ngày. Có Bất-lan Ca-diệp, là ngườilãnh đạo, đứng đầu chúng lớn, được nhiều người biếtđến, tiếng tăm đồn xa, cũng như biển cả dung nạp đượcnhiều, được mọi người cúng dường. Đại vương, nên đếnkia thăm viếng. Nếu Đại vương gặp vị ấy, hoặc giả tâmđược khai ngộ.”

“Vualại lệnh gọi em Vũ-xá là Tu-ni-đà đến hỏi: “Nay ngàyrằm trăng tròn, đêm sáng trong không khác gì ban ngày. Ta nênđến Sa-môn, Bà-la-môn nào, để có thể khai ngộ tâm ta?”

Khiấy Tu-ni-đà tâu vua:

“Đêmnay trong sáng, không khác ban ngày. Có Mạt-già-lê Cù-xá-lê,là người lãnh đạo, đứng đầu chúng lớn, được nhiềungười biết đến, tiếng tăm đồn xa, cũng như biển cảdung nạp được nhiều, được mọi người cúng dường. Đạivương, nên đến kia thăm viếng. Nếu Đại vương gặp vịấy, hoặc giả tâm được khai ngộ.”

Vualại sai triệu Điển tác đại thần đến hỏi:

“Nayngày rằm trăng tròn, đêm sáng trong không khác gì ban ngày.Ta nên đến Sa-môn, Bà-la-môn nào, để có thể khai ngộ tâmta?”

Khiấy Điển tác đại thần tâu vua:

“Đêmnay trong sáng, không khác ban ngày. Có A-kỳ-đa Sí-xá-khâm-bà-la,là người lãnh đạo, đứng đầu chúng lớn, được nhiềungười biết đến, tiếng tăm đồn xa, cũng như biển cảdung nạp được nhiều, được mọi người cúng dường. Đạivương, nên đến kia thăm viếng. Nếu Đại vương gặp vịấy, hoặc giả tâm được khai ngộ.”

Vualại sai triệu tướng thủ thành môn là Già-la đến hỏi:

“Nayngày rằm trăng tròn, đêm sáng trong không khác gì ban ngày.Ta nên đến Sa-môn, Bà-la-môn nào, để có thể khai ngộ tâmta?”

Khiấy tướng thủ thành môn là Già-la tâu vua:

“Đêmnay trong sáng, không khác ban ngày. Có Bà-phù-đà Già-chiên-na,là người lãnh đạo, đứng đầu chúng lớn, được nhiềungười biết đến, tiếng tăm đồn xa, cũng như biển cảdung nạp được nhiều, được mọi người cúng dường. Đạivương, nên đến kia thăm viếng. Nếu Đại vương gặp vịấy, hoặc giả tâm được khai ngộ.”

Vualại sai triệu Ưu-đà-di Mạn-đề Tử đến hỏi:

“Nayngày rằm trăng tròn, đêm sáng trong không khác gì ban ngày.Ta nên đến Sa-môn, Bà-la-môn nào, để có thể khai ngộ tâmta?”

Khiấy Ưu-đà-di tâu vua:

“Đêmnay trong sáng, không khác ban ngày. Có Tán-nhã-di Tỳ-la-lê-phất,là người lãnh đạo, đứng đầu chúng lớn, được nhiềungười biết đến, tiếng tăm đồn xa, cũng như biển cảdung nạp được nhiều, được mọi người cúng dường. Đạivương, nên đến kia thăm viếng. Nếu Đại vương gặp vịấy, hoặc giả tâm được khai ngộ.”

Vualại sai triệu em là Vô Úy đến hỏi:

“Nayngày rằm trăng tròn, đêm sáng trong không khác gì ban ngày.Ta nên đến Sa-môn, Bà-la-môn nào, để có thể khai ngộ tâmta?”

Khiấy Vô Úy tâu vua:

“Đêmnay trong sáng, không khác ban ngày. Có Ni-kiền Tử, là ngườilãnh đạo, đứng đầu chúng lớn, được nhiều người biếtđến, tiếng tăm đồn xa, cũng như biển cả dung nạp đượcnhiều, được mọi người cúng dường. Đại vương, nên đếnkia thăm viếng. Nếu Đại vương gặp vị ấy, hoặc giả tâmđược khai ngộ.”

Vualại sai triệu Thọ Mạng đồng tử đến hỏi:

“Nayngày rằm trăng tròn, đêm sáng trong không khác gì ban ngày.Ta nên đến Sa-môn, Bà-la-môn nào, để có thể khai ngộ tâmta?”

ThọMạng đồng tử tâu:

“CóPhật, Thế Tôn, nay đang ở trong vườn xoài của tôi. Đạivương nên đến đó thăm hỏi. Nếu Đại vương gặp Phật,tâm tất khai ngộ.”

Vuabèn sắc lệnh Thọ Mạng:

“Hãythắng kiệu con voi báu mà ta thường cưỡi, cùng với nămtrăm thớt voi trắng.”

ThọMạng vâng lệnh, cho trang nghiêm con voi của vua cùng với nămtrăm thớt voi xong, tâu vua rằng:

“Xagiá đã trang nghiêm. Xin Đại vương biết thời.”

A-xà-thếtự mình cưỡi voi báu; cho năm trăm phu nhân cưỡi năm trămvoi cái, tay mỗi người đều cầm một bó đuốc, thể hiệnuy nghi của vua, ra khỏi La-duyệt-kỳ, chậm rãi tiến đi trêncon đường hướng đến chỗ Phật. Vua bảo Thọ Mạng:

“Ngươinay gạt ta, hãm hại ta, dẫn ta và đại chúng đến cho kẻthù.”

ThọMạng tâu:

“Đạivương, thần không dám lừa dối Đại vương. Không dám hãmhại Đại vương, dẫn Đại vương và đại chúng đến chokẻ thù. Đại vương cứ tiến về phía trước, tất thu hoạchđược phúc khánh.”

Rồithì, tiến tới một quãng ngắn, vua lại bảo Thọ Mạng:

“Ngươinay gạt ta, hãm hại ta, dẫn ta và đại chúng đến cho kẻthù.”

Vuanói ba lần như vậy.

“Vìsao? Kia có một ngàn hai trăm năm mươi người, nhưng lại vắnglặng không tiếng động. Hẳn là có âm mưu rồi.”

ThọMạng ba lần tâu:

“Đạivương, thần không dám lừa dối Đại vương. Không dám hãmhại Đại vương, dẫn Đại vương và đại chúng đến chokẻ thù. Đại vương cứ tiến về phía trước, tất thu hoạchđược phúc khánh. Vì sao? Sa-môn kia theo pháp thường ưa sựthanh vắng, do đó không có tiếng động. Đại vương cứ tiếntới. Khu vườn đã xuất hiện.”

VuaA-xà-thế đi đến cổng vườn, xuống voi, giải kiếm, cấtlọng, dẹp bỏ năm thứ uy nghi, bước vào cổng vườn, nóivới Thọ Mạng:

“Phật,Thế Tôn đang ở đâu?”

ThọMạng trả lời:

“Đạivương, Phật đang ở trên cao đường kia, phía trước Ngàicó ngọn đèn. Thế Tôn ngồi trên tòa sư tử, mặt hướngvề phía Nam. Đại vương đi tới một chút, tự mình gặpThế Tôn.”

Bấygiờ, A-xà-thế đi đến chỗ giảng đường, rửa chân ởbên ngoài, sau đó mới bước lên giảng đường, im lặng nhìnbốn phía, sanh tâm hoan hỷ, miệng tự phát lên lời:

“Naycác Sa-môn yên tĩnh lặng thinh, đầy đủ chỉ quán. Mong saothái tử Ưu-đà-di của tôi cũng chỉ quán thành tựu, nhưthế này không khác.”

Khiấy, Phật nói với vua A-xà-thế:

“Đạivương nghĩ đến con, nên từ miệng mình phát ra lời: Mongsao thái tử Ưu-đà-di cũng chỉ quán thành tựu như vậy khôngkhác. Đại vương hãy ngồi phía trước đó.”

A-xà-thếbèn đảnh lễ Phật, rồi ngồi sang một bên, bạch Phật rằng:

“Naycó điều muốn hỏi, nếu Ngài có rảnh, tôi mới dám hỏi.”

Phậtnói:

“Đạivương, có điều gì muốn hỏi, xin cứ hỏi.”

A-xà-thếbạch Phật:

“ThếTôn, như nay người cưỡi voi, xe ngựa, tập luyện đao, mâu,kiếm, cung tên, binh khí, phép chiến đấu; vương tử, lựcsĩ, đại lực sĩ, tôi tớ, thợ da, thợ hớt tóc, thợ bệntóc, thợ đóng xe, thợ gốm, thợ đan, thợ dệt cói; mỗingười đều sinh sống bằng các kỹ thuật khác nhau, tự mìnhhưởng thụ dục lạc; và cùng với cha, mẹ, vợ con, nô bộcvui hưởng lạc thú. Các nghề nghiệp như vậy đều có quảbáo hiện tại. Nay các Sa-môn hiện tại tu hành, được nhữngquả báo hiện tại gì?”

Phậtnói với vua A-xà-thế:

“Đạivương đã từng đến các Sa-môn, Bà-la-môn để hỏi ý nghĩanhư vậy chưa?”

Vuabạch Phật:

“Tôiđã từng đi đến các Sa-môn, Bà-la-môn để hỏi ý nghĩanhư vậy.

“Nhớlại, một thời tôi đến Bất-lan Ca-diệp, hỏi rằng: nhưngười cưỡi voi, xe ngựa, tập luyện binh pháp. cho đến,bằng các sự mưu sinh khác nhau, hiện tại có quả báo. Naychúng đây hiện tại tu đạo, hiện tại có được quả báokhông? Bất-lan Ca-diệp kia trả lời tôi rằng: Đại vươngnếu tự mình làm hay sai bảo người khác làm. Chặt, bửa,tàn hại, nấu, nướng, cắt, xẻ, não loạn chúng sanh, khiếncho sầu ưu, than khóc; sát sanh, trộm cắp, dâm dật, vọngngữ, trèo tường cướp bóc, phóng lửa thiêu đốt, chậnđường làm chuyện ác. Đại vương, hành động như vậy khôngphải là ác. Đại vương, nếu lấy kiếm bén mà lóc thịtchúng sanh, làm thành một đống thịt, ngập tràn cả thếgian; đó không phải là sự ác, cũng không tội báo. Ở bờNam sông Hằng, lóc thịt chúng sanh, cũng không có ác báo. Ởphía Bắc sông Hằng, thiết hội bố thí lớn, bố thí tấtcả chúng sanh, lợi cho tất cả mọi người, cũng không cóquả báo của tội phước .”

Rồivua bạch Phật:

“Cũngnhư một người hỏi về dưa thì trả lời về mận; hỏimận thì trả lời dưa. Kia cũng vậy. Tôi hỏi hiện tại cóđược quả báo không, nhưng kia trả lời tôi là không cótội phước. Tôi bèn suy nghĩ rằng: Ta là vua Quán đảnh dòngSát-lỵ, không duyên cớ mà lại giết người xuất gia, bắttrói, đuổi đi. Khi ấy, trong lòng tôi phẫn nộ, suy nghĩ nhưvậy rồi, bèn bỏ mà đi .”

Rồinhà vua lại bạch Phật:

“Nhớlại, một thời tôi đến Mạt-già-lê Câu-xá-lê, hỏi rằng:như người cưỡi voi, xe ngựa, tập luyện binh pháp v.v...,cho đến, bằng các sự mưu sinh khác nhau, hiện tại có quảbáo. Nay chúng đây hiện tại tu đạo, hiện tại có đượcquả báo không? Kia trả lời tôi rằng: Đại vương, khôngcó bố thí, không có sự cho, không có pháp tế tự . Cũngkhông có thiện ác; không có quả báo của thiện ác. Khôngcó đời này, không có đời sau. Không có cha, không có mẹ,không có chư Thiên, không có sự hóa sanh, không có chúng sanh.Ở đời không có Sa-môn, Bà-la-môn, bình đẳng hành giả vàhọ cũng không tự mình chứng ngộ đời này hay đời sau,rồi phô diễn cho người hay. Những ai nói có, thảy đềuhư dối.

“Cũngnhư một người hỏi về dưa thì trả lời về mận; hỏimận thì trả lời dưa. Kia cũng vậy. Tôi hỏi hiện tại cóđược quả báo không, nhưng kia trả lời bằng thuyết vônghĩa. Tôi bèn suy nghĩ rằng: Ta là vua Quán đảnh dòng Sát-lỵ,không duyên cớ mà lại giết người xuất gia, bắt trói, đuổiđi. Khi ấy, trong lòng tôi phẫn nộ, suy nghĩ như vậy rồi,bèn bỏ mà đi.”

Rồinhà vua lại bạch Phật:

“Mộtthời, tôi đến A-kỳ-đa Sí-xá-khâm-bà-la, hỏi rằng: Đạiđức, như người cưỡi voi, ngựa xe, luyện tập binh pháp,cho đến, các loại mưu sinh khác nhau, đều có quả báo hiệntại. Nay đây chúng hội này hiện tại tu đạo, hiện tạicó được quả báo không? Kia trả lời tôi rằng: Con ngườilãnh thọ bốn đại, khi mạng chung, đất trở về đất, nướctrở về nước, lửa trở về lửa, gió trở về gió; thảyđều hư rã, các căn trở về hư không. Khi người chết, nhàđồ khiêng xác để trong bãi tha ma, lửa đốt cháy thành xươngnhư màu bồ câu, hoặc biến thành tro đất. Hoặc ngu, hoặctrí, đến lúc mạng chung, thảy đều hư rã, là pháp đoạndiệt.

“Cũngnhư một người hỏi về dưa thì trả lời về mận; hỏimận thì trả lời dưa. Kia cũng vậy. Tôi hỏi hiện tại cóđược quả báo không, nhưng kia trả lời bằng thuyết đoạndiệt. Tôi bèn suy nghĩ rằng: Ta là vua Quán đảnh dòng Sát-lỵ,không duyên cớ mà lại giết người xuất gia, bắt trói, đuổiđi. Khi ấy, trong lòng tôi phẫn nộ, suy nghĩ như vậy rồi,bèn bỏ mà đi.”

Rồinhà vua lại bạch Phật:

“Mộtthời, tôi đến Ba-phù-đà Già-chiên-diên, hỏi rằng: Đạiđức, như người cưỡi voi, ngựa xe, luyện tập binh pháp,cho đến, các loại mưu sinh khác nhau, đều có quả báo hiệntại. Nay đây chúng hội này hiện tại tu đạo, hiện tạicó được quả báo không? Kia trả lời tôi rằng: Không cólực, không có tinh tấn, con người không sức mạnh, khôngphương tiện. Chúng sanh nhiễm trước không do nhân gì hay duyêngì. Chúng sanh thanh tịnh không do nhân gì hay duyên gì. Hếtthảy chúng sanh, những loài có mạng, thảy đều không sứcmạnh, không được tự tại, không có cái gì được gọilà oán là thù, ở trong sáu sanh loại mà thọ các khổ haylạc.

“Cũngnhư một người hỏi về dưa thì trả lời về mận; hỏimận thì trả lời dưa. Kia cũng vậy. Tôi hỏi hiện tại cóđược quả báo không, nhưng kia trả lời bằng thuyết Vôlực. Tôi bèn suy nghĩ rằng: Ta là vua Quán đảnh dòng Sát-lỵ, không duyên cớ mà lại giết người xuất gia, bắt trói,đuổi đi. Khi ấy, trong lòng tôi phẫn nộ, suy nghĩ như vậyrồi, bèn bỏ mà đi.”

Rồinhà vua lại bạch Phật:

“Mộtthời, tôi đến Tán-nhã Tỳ-la-lê Tử, hỏi rằng: Đại đức,như người cưỡi voi, ngựa, xe, luyện tập binh pháp, cho đến,các loại mưu sinh khác nhau, đều có quả báo hiện tại. Nayđây chúng hội này hiện tại tu đạo, hiện tại có đượcquả báo không? Kia trả lời tôi rằng: Đại vương, hiệntại có quả báo của Sa-môn. Hỏi như vậy, đáp sự việcấy như vậy. Sự việc này là thật, sự việc này là khác;sự việc này không phải khác cũng không phải không khác.Đại vương, hiện tại không có quả báo của Sa-môn. Hỏinhư vậy, đáp sự việc ấy như vậy; sự việc này là thật,sự việc này là khác; sự việc này không phải khác cũngkhông phải không khác. Đại vương, hiện tại vừa có vừakhông có quả báo của Sa-môn. Hỏi như vậy, đáp sự việcấy như vậy; sự việc này là thật, sự việc này là khác;sự việc này không phải khác cũng không phải không khác.Đại vương, hiện tại không phải có cũng không phải khôngcó quả báo của Sa-môn. Hỏi như vậy, đáp sự việc ấynhư vậy; sự việc này là thật, sự việc này là khác; sựviệc này không phải khác cũng không phải không khác. Hỏinhư vậy, đáp sự việc ấy như vậy; sự việc này là thật,sự việc này là khác; sự việc này không phải khác cũngkhông phải không khác. Thế Tôn, cũng như một người hỏivề dưa thì trả lời về mận; hỏi mận thì trả lời dưa.Kia cũng vậy. Tôi hỏi hiện tại có được quả báo không,nhưng kia trả lời bằng thuyết dị luận. Tôi bèn suy nghĩrằng: Ta là vua Quán đảnh dòng Sát-lỵ, không duyên cớ màlại giết người xuất gia, bắt trói, đuổi đi. Khi ấy, tronglòng tôi phẫn nộ, suy nghĩ như vậy rồi, bèn bỏ mà đi.”

Rồinhà vua lại bạch Phật:

“Mộtthời, tôi đến Ni-kiền Tử, hỏi rằng: Đại đức, như ngườicưỡi voi, ngựa xe, luyện tập binh pháp, cho đến, các loạimưu sinh khác nhau, đều có quả báo hiện tại. Nay đây chúnghội này hiện tại tu đạo, hiện tại có được quả báokhông? Kia trả lời tôi rằng: Đại vương, tôi là bậc Nhấtthiết trí, là người thấy tất cả, biết thấu suốt khôngsót. Hoặc đi, hoặc đứng, hoặc nằm, hoặc ngồi, hoặc ngủ,hoặc thức, bất cứ lúc nào, trí thường hiện tiền. ThếTôn, cũng như một người hỏi về dưa thì trả lời về mận;hỏi mận thì trả lời dưa. Kia cũng vậy. Tôi hỏi hiện tạicó được quả báo không, nhưng kia trả lời bằng thuyếtdị luận. Tôi bèn suy nghĩ rằng: Ta là vua Quán đảnh dòngSát-lỵ, không duyên cớ mà lại giết người xuất gia, bắttrói, đuổi đi. Khi ấy, trong lòng tôi phẫn nộ, suy nghĩ nhưvậy rồi, bèn bỏ mà đi.

“ThếTôn, hôm nay tôi đến đây để hỏi ý nghĩa như vầy: nhưngười cưỡi voi, ngựa xe, luyện tập binh pháp, cho đến,các loại mưu sinh khác nhau, đều có quả báo hiện tại. Nayđây Sa-môn hiện tại tu đạo, hiện tại có được quả báokhông?”

Phậtnói với vua A-xà-thế:

“NayTa trở lại hỏi Đại vương, xin tùy ý trả lời. Thế nào,Đại vương, có đồng bộc của Đại vương, người làm cáccông việc trong và ngoài, đều thấy Đại vương vào ngàyrằm, lúc trăng tròn, tắm gội sạch sẽ, ở trên điện caocùng hưởng thụ dục lạc với các thể nữ, bèn suy nghĩnhư vầy: Lạ thay, quả báo của hành vi đến như thế sao?Vua A-xà-thế này vào ngày rằm, lúc trăng tròn, tắm gội sạchsẽ, ở trên điện cao cùng hưởng thụ dục lạc với cácthể nữ. Ai có thể biết được đấy lại là quả báo củahành vi? Người kia, một thời gian sau, cạo bỏ râu tóc, mặcba pháp y, xuất gia tu đạo, thực hành pháp bình đẳng. Thếnào, Đại vương, Đại vương từ xa thấy người ấy đi đến,há có khởi lên ý nghĩ rằng: Đấy là nô bộc của ta?”

Vuabạch Phật:

“Không,bạch Thế Tôn. Nếu thấy người ấy đến, phải đứng dậynghinh đón, mời ngồi.”

Phậtnói:

“Đókhông phải là Sa-môn được quả báo hiện tại sao?”

Vuađáp: “Đúng như vậy, Thế Tôn, đó là hiện tại đượcquả báo Sa-môn vậy”.

“Lạinữa, Đại vương, có người khách cư ngụ trong cương giớicủa Đại vương, ăn thóc lúa mà Đại vương ban cho. Ngườiấy thấy Đại vương vào ngày rằm trăng tròn, tắm gội sạchsẽ, ở trên điện cao cùng các thể nữ vui thú ngũ dục,bèn nghĩ thầm rằng: Lạ thay, quả báo của hành vi kia đếnnhư vậy sao? Ai có thể biết đó là quả báo của hành vi?Một thời gian sau, người ấy cạo bỏ râu tóc, mặc ba phápy, xuất gia tu đạo, hành bình đẳng pháp. Thế nào, Đạivương? Nếu Đại vương từ xa thấy người ấy đi đến,có khởi lên ý nghĩ rằng; Người ấy là khách dân của Ta,ăn thóc lúa mà Ta ban cho hay không?”

Vuanói: “Không. Nếu tôi thấy người ấy từ xa đến, tôi sẽđứng dậy nghinh đón, chào hỏi, mời ngồi”.

“Thếnào, Đại vương, đó không phải là Sa-môn hiện tại đượcquả báo chăng?”

Vuanói: “Đúng như vậy, hiện tại được quả báo của Sa-mônvậy”.

“Lạinữa, Đại vương, Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác xuấthiện ở đời, vào trong pháp Ta, cho đến tam minh, diệt trừcác tối tăm, phát sanh ánh sáng đại trí, gọi là lậu tậntrí chứng. Vì sao? Ấy là do tinh cần, chuyên niệm không quên,ưa sống một mình nơi thanh vắng, không buông lung vậy. Thếnào, Đại vương, đó không phải là quả báo hiện tại củaSa-môn sao?”

Vuađáp: “Thật vậy, Thế Tôn, đó thật là quả báo hiện tạicủa Sa-môn”.

Bấygiờ, vua A-xà-thế rời chỗ ngồi đứng dậy, đầu mặt lễchân Phật, bạch Phật rằng:

“Cúimong Thế Tôn nhận sự hối hận của con. Con vì cuồng, ngusi, tối tăm, không nhận thức. Cha con là Bình-sa vương, vuanước Ma-kiệt-đà, cai trị bằng chánh pháp, không có thiênvạy. Nhưng con bị ngũ dục mê hoặc, thật sự đã hại phụvương. Cúi mong Thế Tôn rũ lòng thương xót, nhận sự sámhối của con.”

Phậtbảo vua:

“Ngươingu si, không nhận thức. Nhưng đã tự mình hối cải. Ngươivì mê say ngũ dục mà hại phụ vương. Nay trong pháp Hiềnthánh mà biết hối cải, tức là tự làm ích lợi cho mình.Ta vì thương tưởng ngươi, nhận sự sám hối của ngươi.”

Bấygiờ, vua A-xà-thế sau khi lễ Phật, được Phật giảng phápcho nghe, được chỉ bày, khuyến khích, làm cho ích lợi, hoanhỷ. Sau khi nghe những điều Phật dạy, vua liền bạch Phật:

“Connay quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Xin chấp nhận con là Ưu-bà-tắctrong Chánh pháp. Từ nay về sau, suốt đời không giết, khôngtrộm, không dâm, không dối, không uống rượu. Cúi mong ThếTôn cùng đại chúng sáng ngày mai nhận lời thỉnh của con.”

Bấygiờ, Thế Tôn im lặng nhận lời. Rồi thì, vua thấy Phậtim lặng nhận lời, liền đứng dậy lễ Phật, đi quanh bavòng sau đó cáo lui.

Vuađi chưa bao lâu, Phật nói với các Tỳ-kheo rằng:

“VuaA-xà-thế này, tội lỗi đã vơi bớt, đã nhổ trọng tội.Nếu A-xà-thế không giết cha, thì ngay tại chỗ này đã đượccon mắt thanh tịnh thấy pháp. Nhưng vua A-xà-thế nay đã hốilỗi, tội lỗi đã vơi bớt, đã nhổ trọng tội.”

Bấygiờ, A-xà-thế, đang trên đường đi, gọi Thọ Mạng đồngtử bảo rằng:

“Lànhthay, lành thay! Ngươi nay làm được nhiều điều lợi íchcho ta. Ngươi trước đã tán thán Như Lai, chỉ dẫn, khơi mở,sau đó đưa ta đến gặp Thế Tôn, nhờ thế ta được khaingộ. Ta rất cám ơn ngươi, trọn không bao giờ quên.”

Rồithì, vua trở về cung sửa soạn các món hào soạn, các loạithức ăn. Sáng hôm sau, khi đã đến giờ, báo Đức Thánh biếtđã đến giờ.

Bấygiờ, Thế Tôn khoác y cầm bát, cùng với chúng đệ tử mộtngàn hai trăm năm mươi người, đi đến vương cung, ngồi trênchỗ ngồi dọn sẵn. Rồi, vua tự tay châm chước, cúng Phậtvà Tăng. Ắn xong, cất bát, dùng nước rửa xong, vua đảnhlễ Phật, bạch rằng:

“Connay ba lần xin sám hối. Con vì cuồng dại, ngu si, tối tăm,không nhận thức. Cha con là Bình-sa vương, vua nước Ma-kiệt-đà,cai trị bằng chánh pháp, không có thiên vạy. Nhưng con vìmê say ngũ dục, thật sự đã hại phụ vương. Cúi mong ThếTôn rủ lòng thương xót, nhận sự sám hối của con.”

Phậtbảo vua:

“Ngươingu si, không nhận thức. Ngươi vì mê say ngũ dục mà hạiphụ vương. Nay trong pháp Hiền thánh mà biết hối cải, tứclà tự làm ích lợi cho mình. Ta vì thương tưởng ngươi, nhậnsự sám hối của ngươi.”

Rồithì, sau khi đảnh lễ Phật, vua lấy một ghế nhỏ ngồi trướcPhật. Phật giảng pháp cho vua nghe, chỉ bày, khuyến khích,khiến cho được ích lợi, hoan hỷ. Sau khi nghe Phật dạy,vua lại bạch Phật:

“Connay ba lần xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Cúi mong nhậncon làm Ưu-bà-tắc trong Chánh pháp. Từ nay cho đến trọn đời,không giết, không trộm, không tà dâm, không dối, không uốngrượu.”

Bấygiờ, Thế Tôn sau khi giảng pháp cho vua nghe, chỉ bày, khuyếnkhích, khiến cho được ích lợi, hoan hỷ, bèn rời chỗ ngồira về.

VuaA-xà-thế và Thọ Mạng đồng tử sau khi nghe những điềuPhật dạy, hoan hỷ phụng hành.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567