Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phẩm Thứ Năm: Toạ Thiền

25/10/201014:52(Xem: 7826)
Phẩm Thứ Năm: Toạ Thiền

KINH PHÁP BẢOĐÀN GIẢNG GIẢI
Hoà Thượng Thích Thanh Từ
Thiền Viện Thường Chiếu 1999 PL. 2543

PhẩmThư Năm: Toạ Thiền

DỊCH

Tổ dạy chúng:

Pháp môn Tọa thiền này vốn không chấp nơi tâm, cũng không chấp nơi tịnh,cũng chẳng phải chẳng động. Nếu nói chấp tâm, tâm vốn là vọng, biết tâm nhưhuyễn nên không có chỗ chấp vậy. Nếu nói chấp tịnh, tánh người vốn là tịnh, bởivì vọng niệm che đậy Chân như, chỉ không có vọng tưởng thì tánh tự thanh tịnh.Khởi tâm chấp tịnh trở lại sanh ra cái tịnh vọng. Vọng không có chỗ nơi, chấpấy là vọng; tịnh không hình tướng trở lại lập tướng tịnh, nói là công phu,người khởi kiến giải này là chướng tự Bản tánh trở lại bị tịnh trói.

Này Thiện tri thức, nếu người tu hạnh bất động, chỉ khi thấy tất cảngười, không thấy việc phải quấy, tốt xấu, lỗi lầm của người tức là Tự tánh bấtđộng.

Này Thiện tri thức, người mê thân tuy bất động, mở miệng liền nói việc phảiquấy, hay dở, tốt xấu của người là cùng đạo đã trái nhau, chấp tâm, chấp tịnhtức là chướng đạo.

Tổ dạy chúng:

Này Thiện tri thức, sao gọi là Tọa thiền? Trong pháp môn này khôngchướng không ngại, ngoài đối với tất cả cảnh giới thiện ác, tâm niệm chẳng khởigọi là tọa, trong thấy Tự tánh chẳng động gọi là thiền.

Này Thiện tri thức, sao gọi là Thiền định? Ngoài lìa tướng là thiền,trong chẳng loạn là định. Ngoài nếu chấp tướng, trong tâm tức loạn; ngoài nếulìa tướng tâm tức chẳng loạn, Bản tánh tự tịnh tự định, chỉ vì thấy cảnh, suynghĩ cảnh tức là loạn; nếu thấy các cảnh mà tâm chẳng loạn ấy là chân định vậy.

Này Thiện tri thức, ngoài lìa tướng tức là thiền, trong chẳng loạn tứclà định, ngoài thiền trong định, ấy gọi là Thiền định. Kinh Bồ-tát Giới nói:Bản tánh của ta vốn tự thanh tịnh.

Này Thiện tri thức, trong mỗi niệm tự thấy được Bản tánh thanh tịnh, tựtu, tự hành, tự thành Phật đạo.

GIẢNG

Tổ dạy chúng:

Pháp môn Tọa thiền này vốn không chấp nơi tâm, cũng không chấp nơi tịnh,cũng chẳng phải chẳng động. Nếu nói chấp tâm, tâm vốn là vọng, biết tâm nhưhuyễn nên không có chỗ chấp vậy. Nếu nói chấp tịnh, tánh người vốn là tịnh, bởivì vọng niệm che đậy Chân như, chỉ không có vọng tưởng thì tánh tự thanh tịnh.Khởi tâm chấp tịnh trở lại sanh ra cái tịnh vọng. Vọng không có chỗ nơi, chấpấy là vọng; tịnh không hình tướng trở lại lập tướng tịnh, nói là công phu,người khởi kiến giải này là chướng tự Bản tánh trở lại bị tịnh trói.

Phẩm này cho chúng ta biết rõ chủ trương của Lục Tổ dạy tọa thiền. Ngài nêulên ba điểm trong pháp môn tọa thiền của Ngài: điểm thứ nhất là “không chấptâm”, điểm thứ hai là “không chấp tịnh”, điểm thứ ba là “cũng chẳng phải chẳngđộng”, tức là có động, nếu động làm sao tọa thiền? Đoạn sau Tổ giảng rõ. Tạisao không chấp tâm? Tâm mà chúng ta cho là tâm mình, Ngài nói tâm đó nguyên làvọng. Dấy khởi phân biệt, nghĩ việc này việc kia v.v... cho đó là tâm thì tâmđó làm sao thật được. Thế nên nếu chấp tâm tức là chấp vọng, nếu chấp vọng làmình, thì đúng hay sai? Nên nói tâm vốn là vọng, chỉ cần biết nó như huyễn,nghĩa là biết nó hư giả là được. Người tu phải thấy rõ lẽ thật, không nên chấp,nghe nói tâm mình mà không biết tâm như thế nào. Những vọng tâm dấy động, naybiết rõ nó là vọng, tự nhiên nó hết, chấp làm gì.

Lại có nhiều người ngồi nhìn, khi được yên lặng, chấp cái thanh tịnh là mình,đó là chấp tịnh. Ngài dạy rằng: Tánh người vốn là tịnh, Bản tánh mình như tánhnghe tánh thấy của chúng ta, tịnh hay động? Vì nó vô tướng, vì nó hằng bất độngnên nó thanh tịnh. Tỉ dụ như cái nghe của mình, nếu tìm lại tướng của nó thìkhông có nhưng hằng nghe; cái thấy của mình tìm tướng không có nhưng hằng thấy,chính cái không tướng đó là thanh tịnh. Như vậy tự nó đã thanh tịnh, tìm tịnhlàm chi. Tìm tịnh thành ra tìm thêm một cái thứ hai nữa, như vậy tự nhiên chúngta mất Tự tánh của mình mà không hay. Cái nghe, cái thấy cho đến tâm niệm thanhtịnh của mình, tất cả là một Thể thanh tịnh sẵn có của tất cả chúng ta, do vọngniệm dấy lên che đậy Chân như. Chân như chỉ tánh tịnh sẵn có của chúng ta. Vìvọng niệm dấy lên nên cái tịnh bị khuất, nay chỉ không có vọng tưởng thì tánhtự thanh tịnh, vì thế chỉ cần không vọng tưởng là đủ, chớ đừng tìm cái thanhtịnh. Nhiều người không hiểu cứ ngồi tìm cho tướng thanh tịnh hiện ra, đến khi nàocó? Nếu ngồi yên tịnh, vọng tưởng dấy lên biết là vọng, không theo nó thì vọnglặng xuống, Chân như hay Bản tánh thanh tịnh hiện tiền không cần phải tìm, phảichấp, chấp tịnh là bệnh. Thế nên nói nếu khởi tâm chấp tịnh trở lại sanh tịnhvọng. Tịnh là không vọng, tự nó là tịnh, tịnh đó mới thật, còn khởi niệm tìmtịnh thì tịnh đó là tịnh vọng. Vì thế khi tu phải thận trọng, có người nghe nóitâm mình thênh thang như hư không, lại tưởng tâm mình rộng như hư không, họ tưởngnhư thế và nói như vậy là đúng. Thênh thang là tự nó thênh thang, chớ tưởng nóthênh thang thì cái tưởng đó là bệnh, đây là chỗ lầm lẫn của nhiều người tu.Vọng không có chỗ nơi, do chấp mà thành vọng. Nếu hiểu thật kỹ thì trong cuộcsống của chúng ta, việc tu thật là dễ, còn không hiểu thì việc tu thật là khó.Ai tu cũng sợ vọng. Vọng liên miên không dừng, nhưng thử hỏi tại sao có vọng? -Tại chấp mà có! Thí dụ như tôi đang đi, chợt nghe một đứa bé gọi tên tôi. Nếutôi cười và đi thẳng thì tôi có vọng không? Nếu nghe gọi tên, tôi nghĩ thằng béhỗn, dám gọi tên người lớn, vừa nghĩ như thế là bao nhiêu vọng tưởng sanh. Nhưvậy vừa dấy một niệm chấp là bao nhiêu vọng tưởng sanh. Trái lại nếu bỏ quakhông chấp thì không có vọng tưởng. Thế nên vọng không có chỗ nơi, nó khôngthật, do chấp mà thành vọng. Giả sử quí vị đang ngồi nói chuyện với nhau, có ailỡ nói một câu quá đáng, nếu thông qua thì không loạn, nếu chấp vào câu đó cholà họ khi mình hay mỉa mai mình, vừa có niệm nghĩ như thế là bất an ngay, vậybất an gốc từ đâu? Từ chấp mà ra, nên niệm chấp biến thành vọng. Nếu chúng takhông có niệm chấp thì vọng không có. Người không chấp thì an ổn. Nếu chúng tagan dạ, nghe thấy mọi việc đều không chấp thì chúng ta tu rất dễ. Hiện nay, sởdĩ ai cũng than thở tu khó là tại chấp; do đây chúng ta mới hiểu rõ ý lời nói“Thiền tông phá chấp” là thế. Nếu hết chấp thì đâu có vọng. Nay muốn dẹp vọngmà không phá chấp thì làm sao vọng hết? Ngồi thiền muốn vọng không khởi, nhưngai nói câu gì cũng chấp, cũng phân biệt phải quấy khen chê, như vậy có hết vọngđược không? Hẳn là không. Tột cùng chỗ không yên của chúng ta gốc từ chấp, nếubuông được chấp thì mọi việc đều yên. Vì thế người tu càng chấp nhiều thì càngkhó tu. Người nào mở miệng nói phải, nói quấy, nói hơn, nói thua, người đó khótu nhất, còn người nào gặp việc gì cũng xí xóa bỏ qua thì người đó dễ tu. Thếnên tất cả chấp là gốc của phiền não, của vọng tưởng, vì thế Tổ bảo: “vọngkhông có xứ sở, do chấp thành vọng”, nhớ điểm đó mới hiểu ý nghĩa “phá chấp”trong Thiền tông.

Tuy nhiên hiện nay có nhiều người hiểu lầm, nghe nói tu thiền phá chấpmới bày đặt những hình thức lạ đời nói là để phá chấp. Ví dụ như người tu mà ănmặc xốc xếch, áo không gài hoặc vô quán ngồi ăn mặn rồi nói tôi phá chấp. Nhưvậy phải phá chấp không? Hay chỉ làm chướng mắt thiên hạ, lại thêm bệnh? Tất cảnhững việc phá chấp như vậy là sự lầm lẫn của những người nông nổi, không hiểuđược ý Tổ, ý Phật, lại đem những lời Phật, Tổ ra để ngụy biện cho những hànhđộng lầm lẫn tội lỗi của họ, đó không phải là người hiểu đạo. Phá chấp là khiviệc xảy đến hoặc khen chê, hoặc hơn thua, phải quấy, chúng ta không chấp, đómới là phá chấp. Vì thế Phật tử hay Tăng Ni phải hiểu thấu đáo lời Phật, Tổdạy. Chúng ta biết vọng gốc từ chấp, nếu không chấp là vọng hết, vậy muốn hếtvọng trước tiên phải hết chấp, chớ nếu vẫn cứ chấp thì không bao giờ dẹp hếtvọng được. Cũng như sóng dấy động là bởi gió, muốn sóng lặng trước hết gió phảilặng. Biết cái nào trước, cái nào sau thì sự tu hành của chúng ta mới không tốncông vô ích. Nếu chúng ta ngồi cứ đè vọng cho nó lặng xuống, nhưng ai nói chimình chấp nấy thì chừng nào mới hết vọng? Kềm mãi rồi đau đầu, rồi phiền não, cholà tu không hiệu quả gì cả. Không hiệu quả, gốc tại cái chấp của mình. Nói thếđể rõ trong việc tu, việc nào là gốc, việc nào là ngọn, nếu không hiểu thì tukhông kết quả, lại sanh nhọc nhằn.

Vọng tưởng gốc từ chấp mà ra, ai buông được các chấp thì hết vọng tưởng.Nhưng chấp những gì? Đó là câu hỏi thiết yếu. Trong phần trên, tôi đã nói lượcqua, chấp là chấp phải quấy, tốt xấu v.v... Ví như tôi nói bình bông này đẹp,nhưng người có con mắt mỹ thuật khác tôi, nói bình bông không đẹp. Nếu tôi chấplời nói của tôi là chân lý thì, tôi nổi giận ngay, trái lại nếu tôi không chấp,tôi chỉ cười, việc sẽ êm. Mình có cái nhìn khác, người có cái nhìn khác, tạisao bắt người phải nhìn giống mình? Cả đến con người mình, sự ăn mặc của mìnhcũng vậy. Thí dụ chúng ta cao, người ta nói mình cao như cây tre nêu, mìnhgiận; nếu mình lùn, họ nói mình lùn tịt mình cũng giận. Tại sao chúng ta giận?Chỉ vì chấp mình là đẹp nên ai nói xấu thì mình giận. Giả sử chúng ta đang ăncơm, có người đến chê thức ăn của ta thế này thế kia, nếu chúng ta giận là tacũng chấp rồi. Hoặc chúng ta mặc chiếc áo, có người chê màu áo là xấu, họ chêmặc họ, mình thích thì cứ mặc, không phải vì lẽ họ nói sắc áo xấu rồi chiếc áobiến thành xấu nên chúng ta giận họ. Tóm lại từ ngôn ngữ đến việc ăn mặc, nhàcửa, con cái, tất cả chúng ta đều chấp là chân lý, là hơn hết nên ai vừa chạm đếnlà chúng ta nổi sân liền. Nếu cứ chấp như vậy, chúng ta sẽ phiền não nhiều, vìcó người trực tính thấy xấu thì nói xấu, thấy tốt thì nói tốt, nhưng chúng tachỉ thích nghe nói tốt, nên nghe nói xấu là phiền não. Lại có nhiều người xấutính, thích mỉa mai chơi, thấy chúng ta thích được khen, sợ bị chê, họ mỉa maichơi vài lời chúng ta cũng phiền não... Trong cuộc sống hiện tại, chúng ta sốngđúng với sở nguyện, còn người chung quanh cũng có quyền nhìn những gì tốt xấutheo nhãn quan của mỗi người, vậy chúng ta không nên cố chấp; không cố chấp tứcnhiên không có vọng tưởng, giả sử có thì cũng nhẹ thôi, buông xả sẽ dễ dàng.Nếu buông xả được chấp thì việc tu sẽ dễ được năm mươi phần trăm rồi, trái lạinếu chấp quá nặng thì việc tu sẽ thật khó. Nếu cứ cố chấp, dầu phương pháp haydo Phật đem tới cũng không giúp hết vọng được, vì chấp không bỏ thì vọng không baogiờ dừng, đó là một lẽ thật. Thế nên khi học đạo một câu nói của Phật, của Tổ đủcho chúng ta sống, nhưng tiếc là chúng ta hơi xem thường nên tu không tiến được.

Tóm lại, điểm đầu tiên là vọng gốc từ chấp mà ra, nên chấp tâm cũng là bệnh.Điểm thứ hai là nhiều người tu cứ khán tịnh, tức là trông thấy cái tịnh, nhưngtịnh cần gì trông thấy, chỉ không vọng là tịnh, vậy chấp tịnh cũng là tịnh củavọng chớ không phải là tịnh chân thật.

Này Thiện tri thức, nếu người tu hạnh bất động, chỉ khi thấy tất cảngười, không thấy việc phải quấy, tốt xấu, lỗi lầm của người tức là Tự tánh bấtđộng.

Thấy tất cả người, nhưng không thấy việc phải quấy tốt xấu của họ thì chúngta đâu có phê bình, không phê bình thì đâu có loạn tưởng. Trái lại thấy aichúng ta cũng thấy phải quấy tốt xấu, tự nhiên chúng ta sẽ phê bình, có phêbình tức nhiên có vọng tưởng, thấy mười người thì mười lần vọng tưởng, vọngtưởng tức là động. Theo Tổ, không phải người tu ngồi nhắm mắt là hết động. Tổcho chúng ta thấy tất cả người, nhưng khi thấy tất cả người, đừng thấy việcphải quấy, tốt xấu của họ, đó là bất động. Như vậy thấy tất cả người, lúc đó làđộng nhưng trong động mà không động, vì nhìn tất cả người nhưng chúng ta khôngkẹt vào việc phải quấy tốt xấu của người thì đâu có động. Như vậy phương phápTổ dạy rất là dễ, nhưng cũng rất là khó, là vì không bắt chúng ta ngồi thiền,mắt nhìn xuống một chỗ, Ngài cho chúng ta tiếp xúc với tất cả, chỉ đừng thấyđiều phải quấy, hay dở của người thì sự tiếp xúc không có lỗi gì cả, tức làđộng mà bất động. Còn chúng ta ngồi nhắm mắt nhưng cứ nhớ người này phải, ngườikia quấy thì nhắm mắt ngồi yên vẫn là động. Tóm lại Ngài dạy tu hạnh bất độnglà khi thấy tất cả người không thấy việc phải quấy, tốt xấu, lỗi lầm của người,“tức là Tự tánh bất động”. Cái bất động đó là cái bất động của Tự tánh, cái bấtđộng chân thật, không do đè hay kềm gì cả.

Này Thiện tri thức, người mê thân tuy bất động, mở miệng liền nói việcphải quấy, hay dở, tốt xấu của người là cùng đạo đã trái nhau, chấp tâm, chấptịnh tức là chướng đạo.

Đến đây Tổ mới quở. Người mê ngồi yên, nghiêm chỉnh lắm, thân không độngnhưng mở miệng thì nói việc phải quấy, hay dở, tốt xấu của người, như vậy làtrái với đạo. Tại sao? Vì khi nói như thế là tâm đã động, tâm động tức trái vớiđạo! Thấy như thanh tịnh nhưng thật không tịnh. Trái lại nếu thấy tất cả ngườimà không thấy việc phải quấy của người thì thân xem như động (vì tới lui, qualại) nhưng tâm vẫn không động, đó mới là Tự tánh định, tức định của Tự tánh.Vậy nên ngồi thiền hay không ngồi thiền? Nếu không ngồi thiền thì phải thấy nhưlời Tổ dạy mới được, chớ không ngồi thiền lại đến người này người kia rồi vềphê bình người này thế này, người kia thế nọ... thì việc không ngồi thiền đó làbệnh, bệnh nặng! Tổ dạy thật là đơn giản, Ngài chỉ cho chúng ta thấy chủ yếucủa sự tu hành. Thế nên người tu nếu phải quấy, hay dở, tốt xấu đều không chấpđó là hợp với đạo; nếu còn chấp là trái với đạo, dầu ngồi yên cũng chưa phải làyên. Sau cùng Ngài kết thúc: Chấp tâm, chấp tịnh tức là chướng đạo.

Tổ dạy chúng:

Này Thiện tri thức, sao gọi là Tọa thiền? Trong pháp môn này khôngchướng không ngại, ngoài đối với tất cả cảnh giới thiện ác, tâm niệm chẳng khởigọi là tọa, trong thấy Tự tánh chẳng động gọi là thiền.

Đối với tất cả cảnh giới thiện ác tâm niệm không khởi, đó là tọa; thànhra tọa này là tâm lặng xuống gọi là tọa chớ không phải ngồi là tọa. Trong thấyTự tánh chẳng động gọi là thiền. Nhận ra Tự tánh bất động của mình là thiền.Giả sử đang đi ngoài đường mà chúng ta sống được với Tự tánh mình, tâm khôngkhởi, đó là tọa thiền, còn ngồi một chỗ nghiêm chỉnh nhưng không thấy Tự tánh,tâm cứ khởi thì chưa phải là tọa thiền. Lục Tổ dạy tọa thiền thật đặc biệt,Ngài không cố chấp hình thức, Ngài không dạy ngồi kiết-già hay bán già chi cả,nên nhiều người đọc kinh tìm phương pháp Lục Tổ dạy tọa thiền nhưng không thấy;vì theo Ngài, tâm không chạy theo cảnh tức là yên, yên là tọa, nhận được Tựtánh của mình, sống được với Tự tánh là thiền, tọa thiền là như thế. Người đượcnhư vậy là tọa thiền.

Này Thiện tri thức, sao gọi là Thiền định? Ngoài lìa tướng là thiền,trong chẳng loạn là định.

Tiếp đến Ngài định nghĩa Thiền định: Ngoài đối tướng không kẹt tướng là thiền,trong không loạn là định, tu thiền định là tu như vậy. Nhiều khi có người hỏi:Thưa Thầy, Thầy tu thiền định như thế nào? Chúng ta thường đáp: Tu thiền địnhlà phải ngồi kiết-già v.v... Đối với Lục Tổ không phải như thế. Thiền định củaNgài dạy là: ngoài lìa tướng là thiền, trong tâm không loạn là định; như vậychúng ta đi ngoài đường hay cuốc cỏ nhưng ngoài lìa tướng và trong tâm khôngloạn là chúng ta đang thiền định. Có khi chúng ta ngồi nơi chợ mà được ngoàilìa tướng, trong tâm không loạn cũng là chúng ta đang thiền định; trái lại ngồitrên chùa nhưng cứ nhớ tướng mãi là không phải thiền định. Tổ dạy thật là rõ,chính điểm này mới thấy được giá trị chân thật của sự tu hành.

Ngoài nếu chấp tướng, trong tâm tức loạn.

Sở dĩ tâm chúng ta loạn là vì chúng ta chấp tướng, nếu không chấp tướnglà tâm mình không loạn. Rốt cuộc loạn cũng từ chấp mà ra. Chấp tướng tức là chấptướng đẹp, tướng xấu, tướng hay, tướng dở... Những tướng đó vừa chấp là tâmloạn, vì thế nói ngoài lìa tướng tức là đối với tất cả tướng mình không chấp đólà thiền, trong tâm không loạn đó là định.

Ngoài nếu lìa tướng tâm tức chẳng loạn, Bản tánh tự tịnh, tự định.

Nếu ngoài lìa tướng thì trong tâm không động, tâm không động đó là Bản tánhmình tự tịnh tự định. Có nhiều người ngồi thiền trông cho được định. Không cầnphải trông, ngồi mà mắt thấy tai nghe nhưng không chạy theo cảnh, đó là lìatướng, là thiền; tâm lặng lẽ, không dấy khởi, đó là định, khi ấy gọi là thiềnđịnh. Thiền định như thế mới gọi là Tự tánh thanh tịnh thiền, thiền thanh tịnhcủa Tự tánh, chớ không phải định là quên hết tất cả, không nghe tiếng, khôngthấy người, không phải thiền do đè mà tâm yên hay là say trong chấp cảnh. Cónhiều lối dạy tu thiền như dùng một đề mục, như quán bất tịnh chẳng hạn, ngườitu theo dõi cảnh bất tịnh đó, tâm say trong đó rồi quên thân, nghĩa là mượncảnh mà quên, đó là thiền Tiểu thừa. Hoặc là tưởng không, tưởng lửa hay tưởngnước..., do tâm tưởng rồi say trong tưởng, quên thân gọi là định, nhưng đó làđịnh trong tưởng. Định do Tổ dạy là định của Tự tánh nên nó thâm trầm, rất nhẹ,khác hơn tất cả. Định này không phải kềm mà được, mà do trí phá được chấp, đốicảnh không chấp nên không kẹt nơi tướng, tâm không động tức đó là tịnh, là định.

Ngài nói đến bệnh của chúng ta:

Chỉ vì thấy cảnh, suy nghĩ cảnh tức là loạn. Nếu thấy các cảnh mà tâmchẳng loạn, ấy là chân định vậy.

Thấy cảnh liền suy nghĩ cảnh nên loạn, nếu thấy tất cả cảnh, tâm không loạn,đó là định chân thật. Như vậy trong mọi hành động đi đứng nằm ngồi, và cả trongviệc tiếp xúc với mọi người, làm thế nào cảnh qua rồi tâm không dính mắc thìkhông có bệnh và định như thế mới là chân định. Nếu định do chúng ta cố kềm tâmmột chỗ hay mượn một cảnh để trụ tâm thì định đó có xuất có nhập, không phải làđịnh chân thật. Tâm hằng an tịnh, không dính với cảnh, đó mới là định chânthật, không xuất không nhập gọi là đại định. Đại định là như thế, chớ khôngphải nhập được định rồi quên thân thì gọi là đại định. Tôi nhắc lại: Đi đứngnằm ngồi không bị cảnh chi phối, tâm hằng lặng lẽ thanh tịnh, đó là đại định,không có xuất, nhập.

Ngài lặp lại một lần nữa:

Này Thiện tri thức, ngoài lìa tướng tức là thiền, trong chẳng loạn tứclà định, ngoài thiền trong định, ấy gọi là Thiền định.

Như vậy bất cứ chỗ nào cũng tu thiền định được cả. Thiền định này không cầnngồi một chỗ, mắt nhìn xuống. Thiền định này là trong mọi hoạt động, trong mọicông tác, làm mà không kẹt nơi tướng, không chạy theo cảnh, tâm hằng lặng lẽ.Cuốc đất cũng thiền định, bửa củi cũng thiền định, nấu cơm cũng thiền định, nhưthế mới đúng là thiền định của Lục Tổ dạy. Vì thế mới hiểu tại sao thuở xưa cómột lần Lục Tổ gặp một vị Tăng đang ngồi thiền, Ngài cầm gậy đập cho một gậy,ông Tăng hoảng chạy. Tại sao Tổ đánh? Vì chủ yếu của Ngài là thiền định trongmọi hành động, chớ không đợi ngồi mới gọi là thiền định. Nhưng hiện nay ngườinào ngồi lim dim mới nói là thiền định, có nhiều người ngồi tưởng đủ chuyệncũng nói là thiền định! Tôi nhắc lại: Thiền định của Tổ dạy là ngoài lìa tướng,trong tâm không loạn. Ngoài làm thế nào lìa tướng? Trước tiên nhờ trí tuệ biếttất cả tướng là hư giả, không quan trọng nên tâm không dính mắc nơi tướng, đólà lìa tướng, tự nhiên trong tâm không loạn; như vậy lúc nào cũng thiền định,đi đâu cũng thiền định, ngồi chơi cũng thiền định, cả đến làm công tác cũng thiềnđịnh. Thiền định của Lục Tổ không chướng ngại sự sanh hoạt, nên Tổ Bá Trượngnói: “Một ngày không làm, một ngày không ăn.” Nếu thiền định phải ngồi lim dimhoài thì ngài Bá Trượng đâu dám nói câu đó.

Tóm lại chúng ta cố làm thế nào để thiền định được trong mọi hoàn cảnh, nghĩalà trong cảnh nào chúng ta vẫn làm việc và vẫn thiền định. Thiền định này nếuứng dụng đến mức thì rất hay, vừa lợi cho mình, vừa lợi cho xã hội. Một Phật tửở thành phố Hồ Chí Minh có ruộng gần cầu Bình Lợi, mỗi sáng ông đi xe đạp đếnđó, ông cứ nhìn tới trước và đạp xe thôi, chớ không nhìn gì khác nên đến nơi màkhông hay và cũng không thấy mệt. Giả sử khi nào đang đạp mà ông nghĩ một việcgì khác thì xe đảo qua, đảo lại, còn nếu cứ nhìn tới, chăm chăm đạp, không nghĩgì thì xe chạy đều, không bị đảo. Ứng dụng vào nghề may, nếu người nào may, cứchăm chăm trong đường may, không nhìn gì khác cũng không lo ra, đường chỉ sẽthẳng và đều... Như vậy càng tu thiền việc làm càng khéo, càng tinh nhuệ. Nếucuốc rẫy mà biết tu thiền thì thế nào? Khi cuốc chúng ta cứ cuốc đừng nghĩ gìcả, đừng nhìn đồng hồ, đừng nhìn mặt trời... Phần nhiều chúng ta cuốc một lát thấyhơi mệt liền nhìn mặt trời, nhìn đồng hồ, rồi ngán, ngồi lại hút thuốc, nói khào...mất bao nhiêu là thì giờ. Trái lại nếu chúng ta chăm chỉ cuốc, không nghĩ gìcả, đến trưa mà không hay, như vậy vừa có lợi vừa không ngán. Vậy nếu ai biếtứng dụng đúng thì trong mọi hành động đều tu được. Nếu ngồi thiền mới là tu thìđó là tiêu cực, vì người ham tu cứ ngồi hoài, không làm gì được cả. Phải vừa tuvừa làm việc được mới đúng chỗ thiết yếu Lục Tổ dạy, chớ không phải ngồi yênmột chỗ mới gọi là Thiền định.

Ngài định nghĩa rất rõ: Ngoài lìa tướng là thiền, trong tâm không loạnlà định. Chúng ta làm tất cả mà không chạy theo cảnh là lìa tướng, tâm không theocảnh thì tâm yên không loạn, như vậy hành động nào cũng là thiền định. Có thếmới hiểu được câu ông Duy-ma-cật trả lời Đồng tử Quang Nghiêm. Đồng tử từ thànhTỳ-da đi ra, vừa đến cửa thì gặp ông Duy-ma-cật từ ngoài thành đi vào. Đồng tửhỏi: “Trưởng giả từ đâu lại?” Ông Duy-ma-cật trả lời: “Tôi từ đạo tràng lại.”Thường đạo tràng là chỗ nào? Là chùa, là nơi ngồi tu, là nơi giảng kinh... Rõràng ông từ ngoài thành vào, tại sao lại nói từ đạo tràng lại? Người mới đọcchắc nghĩ: Ông nói không đúng sự thật. Nếu hiểu được lời trên “ngoài lìa tướnglà thiền, trong tâm không loạn là định”, mới hiểu được câu trả lời của ông Duy-ma-cật.Chỗ nào mà chúng ta thiền định thì chỗ đó là đạo tràng, dù giữa chợ mà lìatướng, tâm không loạn thì giữa chợ cũng là đạo tràng, không đợi lên đến Tu việnChân Không mới là đạo tràng. Làm thế nào ngồi ngoài chợ mà vẫn là ngồi nơi đạotràng đó mới là hay! Hiểu như thế mới thấy tinh thần Thiền là dạy chúng ta tâmkhông dính với cảnh, tức nhiên tâm không loạn, như vậy lúc nào cũng thiền định.

Ngài dẫn:

Kinh Bồ-tát Giới nói: Bản tánh của ta vốn tự thanh tịnh.

Bản tánh chúng ta vốn tự thanh tịnh nên không dính cảnh, không loạn là sốngvới Bản tánh, sống với Bản tánh tức là Tự tánh thanh tịnh thiền.

Này Thiện tri thức, trong mỗi niệm tự thấy được Bản tánh thanh tịnh, tựtu, tự hành, tự thành Phật đạo.

Sau cùng Ngài nhắc nhở: Nếu người nào trong mỗi niệm, tức là hằng phút hằnggiây, tự thấy Bản tánh thanh tịnh của mình, không nhớ chuyện phải quấy, hay dởcủa người, đó là mình tự tu, tự hành và tự thành Phật đạo.

Trong phẩm này trước nói Tọa thiền sau nói Thiền định, tuy chia hainhưng không phải là hai. Về Tọa thiền Ngài dạy ngoài không chấp cảnh là tọa, trongnhận ra được Bản tánh là thiền. Ngài lại dạy ngoài lìa tướng là thiền, trongkhông loạn là định. Như vậy Tọa thiền hay Thiền định tuy nói hai nhưng chủ yếuthật không hai, cũng là cốt không chấp cảnh, không chấp cảnh đó là thiền, tâman định, không loạn đó là định. Hiểu như thế tức nhiên hiểu được đường lối tuthiền của Lục Tổ, đó cũng chính là đường lối của Thiền tông. Không phải chỉriêng Thiền tông, chính trong kinh Phật, kinh Duy-ma-cật cũng nói rõ như vậykhông khác. Tất cả kinh Đại thừa, đối với chỗ này đều khế hợp, nên Tổ nói rằngTổ là người được truyền tâm ấn của Phật. Ngài đâu có nói khác với Phật, chỉ vìNgài không giải thích như trong kinh, Ngài cũng không dùng phương tiện từ thấpđến cao mà Ngài chỉ thẳng chỗ cứu kính, nên mới nghe chúng ta không hiểu, thấydường như khác kinh, chớ sự thật không có khác.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567