Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phẩm Thứ Ba: Nghi Vấn

25/10/201014:50(Xem: 7949)
Phẩm Thứ Ba: Nghi Vấn

KINH PHÁP BẢOĐÀN GIẢNG GIẢI
Hoà Thượng Thích Thanh Từ
Thiền Viện Thường Chiếu 1999 PL. 2543

PhẩmThứ Ba Nghi Vấn

DỊCH

Một hôm Vi thứ sửvì Tổ thiết đại hội trai, trai xong, Thứ sử thỉnh Tổ đăng tòa, quan liêu sĩ thứđều thành kính lễ bái, hỏi rằng:

Đệ tử nghe Hòathượng thuyết pháp, thật không thể nghĩ bàn, nay có một ít nghi, cúi mong Ngàiđại từ đại bi đặc biệt vì giải nói.

Tổ bảo:

Có nghi liền hỏi,tôi sẽ vì các ông mà nói.

Thứ sử thưa:

Hòa thượng nóipháp, đâu không phải là tông chỉ của Tổ Đạt-ma ư?

Tổ bảo:

Đúng vậy!

Thứ sử thưa:

Đệ tử nghe TổĐạt-ma khi mới đến vua Lương Võ Đế, Võ Đế hỏi: “Trẫm một đời cất chùa độ Tăng,bố thí thiết trai có những công đức gì?” Tổ Đạt-ma bảo: “Thật không có côngđức.” Đệ tử chưa thấu được lẽ này, cúi mong Hòa thượng vì nói.

Tổ bảo:

Thật không cócông đức, chớ nghi lời của bậc tiên Thánh. Võ Đế tâm tà, không biết chánh pháp,cất chùa độ Tăng, bố thí, thiết trai đó gọi là cầu phước, chớ không thể đemphước đổi làm công đức. Công đức là ở trong Pháp thân, không phải do tu phướcmà được.

Tổ lại nói:

Thấy tánh làcông, bình đẳng là đức, mỗi niệm không ngưng trệ, thường thấy Bản tánh, diệudụng chân thật gọi là công đức. Trong tâm khiêm hạ là công, bên ngoài hành lễphép là đức; Tự tánh dựng lập muôn pháp là công, Tâm thể lìa niệm là đức; khônglìa Tự tánh là công, ứng dụng không nhiễm là đức. Nếu tìm công đức Pháp thân,chỉ y nơi đây mà tạo là chân công đức. Nếu người tu công đức, tâm tức không có khinh,thường hành khắp kỉnh. Tâm thường khinh người, ngô ngã không dứt tức là khôngcông, Tự tánh hư vọng không thật tức tự không đức, vì ngô ngã tự đại thườngkhinh tất cả. Này Thiện tri thức, mỗi niệm không có gián đoạn là công, tâm hànhngay thẳng là đức, tự tu tánh là công, tự tu thân là đức. Này Thiện tri thức,công đức phải là nơi Tự tánh mà thấy, không phải do bố thí cúng dường mà cầuđược. Ấy là phước đức cùng với công đức khác nhau. Võ Đế không biết chân lý,không phải Tổ sư ta có lỗi.

Thứ sử lại hỏi:

Đệ tử thường thấyTăng tục niệm Phật A-di-đà, nguyện sanh Tây phương, thỉnh Hòa thượng nói, đượcsanh nơi cõi kia chăng? Nguyện vì phá cái nghi này.

Tổ bảo:

Sử quân khéo lắngnghe, Huệ Năng sẽ vì nói. Thế Tôn ở trong thành Xá-vệ nói Tây phương dẫn hóa,văn kinh rõ ràng cách đây không xa. Nếu luận về tướng mà nói, số dặm cómười muôn tám ngàn, tức là trong thân có mười ác và tám tà, liền là nói xa, nóixa là vì kẻ hạ căn, nói gần là vì những người thượng trí. Người có hai hạng nhưngpháp không có hai thứ, mê ngộ có khác, thấy có mau chậm. Người mê niệm Phật cầusanh về cõi kia, người ngộ tự tịnh tâm mình, sở dĩ Phật nói: Tùy tâm tịnh liềnđược cõi Phật tịnh.

Sử quân, ngườiphương Đông chỉ tâm mình tịnh liền không có tội, tuy người phương Tây tâm khôngtịnh cũng có lỗi. Người phương Đông tạo tội niệm Phật cầu sanh về phương Tây,còn người phương Tây tạo tội, niệm Phật cầu sanh cõi nào? Phàm ngu không rõ Tựtánh, không biết trong thân Tịnh độ, nguyện đông, nguyện tây, người ngộ ở chỗ nàocũng vậy, cho nên Phật nói: Tùy chỗ mình ở hằng được an lạc.

Sử quân, Tâm địachỉ không có bất thiện thì Tây phương cách đây không xa. Nếu ôm lòng chẳngthiện, niệm Phật vãng sanh khó đến. Nay khuyên Thiện tri thức trước nên dẹp trừthập ác tức là đi được mười muôn, sau trừ tám cái tà bèn qua được tám ngàn, mỗiniệm thấy tánh thường hành bình trực, đến như trong khảy móng tay, liền thấy đứcPhật A-di-đà.

Sử quân, chỉ hànhmười điều thiện đâu cần lại nguyện vãng sanh, không đoạn tâm thập ác thì Phậtnào đón tiếp. Nếu ngộ được đốn pháp vô sanh, thấy Tây phương chỉ trong khoảngsát-na. Còn chẳng ngộ, niệm Phật cầu sanh thì con đường xa làm sao đến được! HuệNăng vì mọi người dời cõi Tây phương trong khoảng sát-na ở trước mắt khiến cho quívị được thấy, quí vị có muốn thấy hay chăng?

Chúng đều đảnh lễthưa rằng:

Nếu ở cõi này màthấy được thì đâu cần phải nguyện vãng sanh, nguyện Hòa thượng từ bi liền hiệnTây phương khiến cho tất cả được thấy.

Tổ bảo:

Này Đại chúng!Người đời tự sắc thân là thành, mắt tai mũi lưỡi là cửa, ngoài có năm cửa,trong có cửa ý. Tâm là đất, tánh là vua, vua ở trên đất tâm, tánh còn thì vuacòn, tánh đi mất thì vua mất; tánh ở thì thân tâm còn, tánh đi thì thân tâmhoại. Phật nhằm trong tánh mà tạo, chớ hướng ra ngoài mà cầu. Tự tánh mê tức làchúng sanh, Tự tánh giác tức là Phật, từ bi tức là Quán Thế Âm, hỉ xả gọi làĐại Thế Chí, hay tịnh tức là đức Thích-ca, bình trực tức là Phật Di-đà. Nhân ngãấy là Tu-di, tà tâm là biển độc, phiền não là sóng mòi, độc hại là rồng dữ, hưvọng là quỉ thần, trần lao là rùa trạnh, tham sân là địa ngục, ngu si là súcsanh.

Này Thiện trithức, thường làm mười điều lành thì thiên đường liền đến, trừ nhân ngã thì núiTu-di ngã, dẹp được tham dục thì biển nước độc khô, phiền não không thì sóngmòi mất, độc hại trừ thì rồng cá đều dứt. Ở trên Tâm địa mình là giác tánh NhưLai phóng đại quang minh, ngoài chiếu sáu cửa thanh tịnh hay phá sáu cõi trờidục, Tự tánh trong chiếu ba độc tức liền trừ địa ngục v.v... các tội một lúc đềutiêu diệt, trong ngoài sáng tột, chẳng khác với cõi Tây phương, không chịu tunhư thế này làm sao đến được cõi kia?

Đại chúng nghenói rồi đều rõ ràng thấy được Tự tánh, thảy đều lễ bái, đều tán thán: “Lànhthay!” Thưa rằng: “Khắp nguyện pháp giới chúng sanh nghe một thời liền ngộhiểu.”

Tổ bảo:

Này Thiện trithức, nếu muốn tu hành, tại gia cũng được, không cần ở chùa, người tại gia màhay hành như người ở phương Đông mà tâm được thiện, còn người ở chùa mà khôngtu cũng như người ở phương Tây mà tâm ác. Chỉ tâm thanh tịnh tức là Tự tánh Tâyphương.

Thứ sử Vi Cừ lạihỏi:

Người tại gia làmsao tu hành? Cúi xin Ngài vì chỉ dạy.

Tổ bảo:

Tôi vì Đại chúnglàm một bài tụng Vô tướng, chỉ y đây mà tu, thường cùng tôi đồng ở không khác,nếu không tu như thế này dù có cạo tóc xuất gia đối với đạo cũng không có ích gì.Tụng rằng:

Tâm bình không nhọc giữ giới,
Hạnh thẳng không cần tu thiền,
Ân thì nuôi dưỡng cha mẹ,
Nghĩa thì trên dưới thương nhau.
Nhường thì trên dưới hòa mục,
Nhẫn thì các ác không ồn,
Nếu hay dùi cây ra lửa,
Trong bùn quyết mọc sen hồng.
Đắng miệng tức là thuốc hay,
Nghịch tai là lời ngay thẳng,
Sửa lỗi ắt sanh trí tuệ,
Giữ quấy trong tâm không hiền.
Mỗi ngày thường làm lợi ích,
Thành đạo không do thí tiền,
Bồ-đề chỉ hướng tâm tìm,
Đâu nhọc hướng ngoại cầu huyền.
Nghe nói y đây tu hành,
Cực Lạc chỉ ngay trước mắt.

(Tâm bình hà lao trì giới,
Hạnh trực hà dụng tu thiền,
Ân tắc thân dưỡng phụ mẫu,
Nghĩa tắc thượng hạ tương lân.
Nhượng tắc tôn ti hòa mục,
Nhẫn tắc chúng ác vô huyên,
Nhược năng toản mộc xuất hỏa,
Ứ nê định sanh hồng liên.
Khổ khẩu đích thị lương dược,
Nghịch nhĩ tức thị trung ngôn,
Cải quá tức sanh trí tuệ,
Hộ đoản tâm nội phi hiền.
Nhật dụng thường hành nhiêu ích,
Thành đạo phi do thí tiền,
Bồ-đề chỉ hướng tâm mích,
Hà lao hướng ngoại cầu huyền.
Thính thuyết y thử tu hành,
Tây phương chỉ tại mục tiền.)

Tổ lại bảo:

Này Thiện trithức, thảy phải y kệ đây mà tu hành, nhận lấy Tự tánh, thẳng đó thành đạo. Phápkhông đợi nhau, mọi người hãy giải tán, tôi trở về Tào Khê, chúng nếu có nghi,lại đến hỏi nhau.

Khi ấy Thứ sửquan liêu ở trong hội, kẻ thiện nam tín nữ mỗi người đều được khai ngộ, tin thọvâng làm.

GIẢNG 1

Một hôm Vi thứ sử vì Tổ thiết đại hội trai, traixong, Thứ sử thỉnh Tổ đăng tòa, quan liêu sĩ thứ đều thành kính lễ bái, hỏirằng:

Đệ tử nghe Hòa thượng thuyết pháp, thật không thể nghĩ bàn, nay có mộtít nghi, cúi mong Ngài đại từ đại bi đặc biệt vì giải nói.

Tổ bảo:

Có nghi liền hỏi, tôi sẽ vì các ông mà nói.

Thứ sử thưa:

Hòa thượng nói pháp, đâu không phải là tông chỉ của Tổ Đạt-ma ư?

Tổ bảo:

Đúng vậy!

Thứ sử thưa:

Đệ tử nghe Tổ Đạt-ma khi mới đến vua Lương Võ Đế, Võ Đế hỏi: “Trẫm mộtđời cất chùa độ Tăng, bố thí thiết trai có những công đức gì?” Tổ Đạt-ma bảo: “Thậtkhông có công đức.” Đệ tử chưa thấu được lẽ này, cúi mong Hòa thượng vì nói.

Tổ bảo:

Thật không có công đức, chớ nghi lời của bậc tiên Thánh. Võ Đế tâm tà,không biết chánh pháp, cất chùa độ Tăng, bố thí, thiết trai đó gọi là cầu phước,chớ không thể đem phước đổi làm công đức. Công đức là ở trong Pháp thân, không phảido tu phước mà được.

Phẩm thứ ba là phẩm Nghi Vấn tức là nếu có những điều nghi ngờ, đem rahỏi Lục Tổ.

Điều nghi đầu tiên là khi Tổ Bồ-đề-đạt-ma sang Trung Hoa, đến yết kiếnvua Lương Võ Đế, Vua liền hỏi: Trẫm một đời cất chùa độ Tăng, bố thí thiết traicó những công đức gì? Tổ Đạt-ma bảo: Thật không có công đức.Chính câunói này khiến nhiều người nghi, không biết tại sao làm những điều đó mà khôngcông đức. Theo sử ghi: Vua Võ Đế thời đó cất mấy trăm ngôi chùa, độ Tăng tuhành rất đông, thiết trai bố thí và chính nhà Vua giảng được kinh. Như vậy VõĐế cho rằng những việc làm ấy là đầy đủ công đức, nhưng không ngờ khi hỏi Tổ,Tổ bảo: Không công đức. Đó là tạt một gáo nước lạnh vào mặt Võ Đế, nhà Vua nảnquá không thiết nói chuyện nữa. Vì thế đang đêm Tổ phải lén bỏ đi qua nướcNgụy, đến chùa Thiếu Lâm, ngồi trong động đến chín năm...

Nhắc lại câu Tổ Đạt-ma trả lời vua Lương Võ Đế, người học Phật chúng takhông ai không nghi ngờ, cất chùa, độ chư Tăng tu hành, làm nhiều việc phước màTổ bảo không công đức. Thật là vô lý! Khi làm các việc như vậy, các chùa thườngbảo là công đức vô lượng vô biên, vì sao Tổ Đạt-ma lại nói không công đức? Trongphần này Lục Tổ giản trạch: Công đức thuộc về nội tâm, không phải ở bên ngoài.Công đức là do ngộ đạo đạt được Tự tánh, rồi từ tánh khởi dụng, những dụng ấygọi là công đức. Còn phước đức là do việc làm bên ngoài mà được, như cúngdường, bố thí v.v... Vua Võ Đế lầm nghĩa phước đức và công đức là một nên Tổ nóikhông công đức.

Tổ lại nói:

Thấy tánh là công, bình đẳng là đức, mỗi niệm không ngưng trệ, thườngthấy Bản tánh, diệu dụng chân thật gọi là công đức. Trong tâm khiêm hạ là công,bên ngoài hành lễ phép là đức; Tự tánh dựng lập muôn pháp là công, Tâm thể lìaniệm là đức; không lìa Tự tánh là công, ứng dụng không nhiễm là đức. Nếu tìm côngđức Pháp thân, chỉ y nơi đây mà tạo là chân công đức. Nếu người tu công đức,tâm tức không có khinh, thường hành khắp kỉnh. Tâm thường khinh người, ngô ngãkhông dứt tức là không công, Tự tánh hư vọng không thật tức tự không đức, vìngô ngã tự đại thường khinh tất cả. Này Thiện tri thức, mỗi niệm không có giánđoạn là công, tâm hành ngay thẳng là đức, tự tu tánh là công, tự tu thân làđức. Này Thiện tri thức, công đức phải là nơi Tự tánh mà thấy, không phải do bốthí cúng dường mà cầu được. Ấy là phước đức cùng với công đức khác nhau. Võ Đếkhông biết chân lý, không phải Tổ sư ta có lỗi.

Thấy tánh tức là đạt được Bản tánh mình là công, hành hạnh bình đẳng làđức. Trong tâm không ngô ngã rồi hành những hạnh cung kính mọi người đó là côngđức v.v.... Như vậy công đức là nhằm thẳng Bản tâm mình, ngộ được Tự tánh mình rồitừ đó khởi dụng làm những hành động hợp đạo lý, thuyết pháp độ sanh hay tu cáccông hạnh, đó gọi là công đức.

Chúng ta ngày nay hay lầm lẫn cho rằng cất chùa, giúp chư Tăng, bố thícúng dường là lập nhiều công đức và tự hào rằng mình làm công đức vô lượng vôbiên cần phải được tán thán, không ngờ làm những việc ấy chỉ là tạo phước đứcmà thôi. Lục Tổ giảng cho Thứ sử Vi Cừ và cả hội chúng hiểu rõ, đừng lầm phướcđức với công đức.

Thứ sử lại hỏi:

Đệ tử thường thấy Tăng tục niệm Phật A-di-đà, nguyện sanh Tây phương, thỉnhHòa thượng nói, được sanh nơi cõi kia chăng? Nguyện vì phá cái nghi này.

Điều nghi thứ hai là người tu hành niệm Phật A-di-đà cầu vãng sanh vềTây phương Cực Lạc, việc ấy như thế nào?

Tổ bảo:

Sử quân khéo lắng nghe, Huệ Năng sẽ vì nói. Thế Tôn ở trong thành Xá-vệnói Tây phương dẫn hóa, văn kinh rõ ràng "cách đây không xa”. Nếuluận về tướng mà nói, số dặm có mười muôn tám ngàn, tức là trong thân có muờiác và tám tà, liền là nói xa, nói xa là vì kẻ hạ căn, nói gần là vì những ngườithượng trí. Người có hai hạng nhưng pháp không có hai thứ, mê ngộ có khác, thấycó mau chậm. Người mê niệm Phật cầu sanh về cõi kia, người ngộ tự tịnh tâmmình, sở dĩ Phật nói: Tùy tâm tịnh liền được cõi Phật tịnh.

Sử quân, người phương Đông chỉ tâm mình tịnh liền không có tội, tuyngười phương Tây tâm không tịnh cũng có lỗi. Người phương Đông tạo tội niệm Phậtcầu sanh về phương Tây, còn người phương Tây tạo tội, niệm Phật cầu sanh cõinào?

Tổ giải thích: Niệm Phật cầu sanh về Tây phương là vì người hạ căn; Tâyphương cách chúng ta mười muôn ức cõi, nói xa như vậy là vì kẻ hạ căn. Nếu nói gầnlà vì người thượng trí, nói gần là: Tâm mình tịnh là cõi Phật tịnh, nếu tâmmình thanh tịnh thì ngay đây là Tịnh độ. Như vậy nói xa hay gần là tùy căn cơ,người mê hay người hạ căn niệm Phật cầu sanh về Tây phương tức về một cõi xatít mù; người ngộ hay người thượng trí niệm Phật để tâm thanh tịnh, tâm thanhtịnh tức cõi Phật thanh tịnh, vậy cõi Phật thanh tịnh ở ngay tâm thanh tịnh củamình.

Tổ lại bảo: Từ đây đến cõi Cực Lạc cách xa mười muôn tám ngàn, là chỉcho mười ác và tám tà. Nếu chúng ta hành Thập thiện và tu tám điều chánh (Bát chánhđạo) là chúng ta qua được mười muôn tám ngàn, đến được cõi Cực Lạc. Cõi Cực Lạclà do chúng ta hành thiện và thấy đúng, chớ không phải do chúng ta bay qua khônggian đến cõi ấy. Tổ lại nêu vấn đề như chúng ta hiện nay ở cõi Ta-bà mê lầm tạotội, nên cố gắng niệm Phật để sanh về Tây phương cho hết tội lỗi; Tổ bảo ngườimê tạo tội ở phương Đông, niệm Phật cầu sanh về phương Tây, nếu người phươngTây lỡ tạo tội, niệm Phật cầu sanh về đâu? Chẳng lẽ cầu sanh trở lại phươngĐông? Như vậy điều cần yếu là hết tội chớ không phải cầu sanh về nơi nào. Nếuchúng ta ở phương Đông mà hết tội thì phương Đông là Cực Lạc; nếu ở phương Đôngtạo tội, cầu về phương Tây, chúng ta mang tâm tham sân si về cõi Cực Lạc thìcõi Cực Lạc cũng trở thành ô uế. Thí dụ quí Phật tử ở thành phố ồn náo, lâu lâulên núi thấy cảnh núi thanh tịnh, mong được lên núi cho thanh tịnh. Nếu khoảngmột trăm vị lên núi, các vị này hay rầy rà gây gổ thì cảnh núi sẽ biến thành ồnnáo như dưới chợ. Như vậy cảnh thanh tịnh là do tâm người thanh tịnh, sự thanh tịnhcốt ở tâm mình chớ không phải ở cảnh. Chúng ta ngày nay vì yếu đuối nên ỷ lại, niệmPhật cầu về Cực Lạc; tội lỗi không trừ dẹp, hung dữ vẫn còn, dù niệm Phật đượcnhiều chuỗi, thử hỏi có sanh được về cõi kia không? Trong kinh A-di-đà có câu:“bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhân duyên đắc sanh bỉ quốc”, nghĩa làkhông thể lấy một chút ít phước đức nhân duyên mà được sanh về cõi kia. Như vậymuốn được sanh về cõi kia, phải đầy đủ phước đức nhân duyên, tức là ngay đâyphải hiền lành, phải thuần thiện mới được. Tổ chỉ thẳng cho chúng ta phải tịnhtâm mình thì cõi này là Tịnh độ. Nếu không tịnh tâm mà cầu sanh về cõi kia,điều đó khó thực hiện.

Phàm ngu không rõ Tự tánh, không biết trong thân Tịnh độ, nguyện đông, nguyệntây, người ngộ ở chỗ nào cũng vậy, cho nên Phật nói: Tùy chỗ mình ở hằng được anlạc.

Sử quân, Tâm địa chỉ không có bất thiện thì Tây phương cách đây khôngxa. Nếu ôm lòng chẳng thiện, niệm Phật vãng sanh khó đến. Nay khuyên Thiện trithức trước nên dẹp trừ thập ác tức là đi được mười muôn, sau trừ tám cái tà bènqua được tám ngàn, mỗi niệm thấy tánh thường hành bình trực, đến như trong khảymóng tay, liền thấy đức Phật A-di-đà.

Sử quân, chỉ hành mười điều thiện đâu cần lại nguyện vãng sanh, khôngđoạn tâm thập ác thì Phật nào đón tiếp. Nếu ngộ được đốn pháp vô sanh, thấy Tâyphương chỉ trong khoảng sát-na. Còn chẳng ngộ, niệm Phật cầu sanh thì con đườngxa làm sao đến được!

Người phàm phu ngu muội không nhận được Tự tánh của mình, ngay trongthân mình đã có sẵn Tịnh độ mà không biết, cứ cầu Tịnh độ ở ngoài. Còn ngườitrí ngộ được Tự tánh của mình, liền thấy Tự tánh là Tịnh độ. Nếu chúng ta được chừngnăm phút trong tâm không có niệm thương ghét buồn giận, thì ngay lúc ấy thấyđây là cõi tịnh. Trái lại nếu trong tâm còn buồn giận thương ghét thì đến chỗnào cũng thấy toàn là phiền não. Vì thế chủ yếu của việc tu hành là tịnh ngaytâm mình, nhận được Tự tánh thanh tịnh của mình và sống với nó, đó là Tịnh độ.Người không biết tu, cứ chạy tìm cầu bên ngoài, rốt cuộc không đi đến đâu, vìlàm sao tìm được lẽ thật ở bên ngoài!

Ví dụ như người học trò khôn ráng học bài thuộc, đi thi đậu; người họctrò biếng nhác không chịu học bài, khi gần thi lo chạy tìm các thầy giáo năn nỉxin giúp đỡ, như vậy làm sao bảo đảm được thi đậu? Nếu người có thiện chí giúp,ít nhất chúng ta phải có khả năng tương đương, còn dốt mà muốn thi đậu, việc ấyrất khó. Sự tu hành cũng như thế, nếu chúng ta không siêng năng hành thiện, dẹptrừ tội lỗi mà cứ cầu sanh về Cực Lạc, chờ Phật rước, làm sao Phật rước chúngta về cõi Phật được, không sợ chúng ta làm nhơ cõi ấy hay sao? Như hiện nay cóngười hung dữ vào chùa xin tu, tuy chúng tôi phải độ người tu hành, nhưng chúngtôi phải dè dặt vì người hung dữ quá vào chùa làm ồn, chúng tu không được;huống là cõi Phật thanh tịnh mà đem những người ô uế về làm rối loạn nơi thanhtịnh sao? Thế nên phải biết rõ, điều cốt yếu là phải tịnh ngay tâm mình, đó làTịnh độ.

Huệ Năng vì mọi người dời cõi Tây phương trong khoảng sát-na ở trước mắtkhiến cho quí vị được thấy, quí vị có muốn thấy hay chăng?

Chúng đều đảnh lễ thưa rằng:

Nếu ở cõi này mà thấy được thì đâu cần phải nguyện vãng sanh, nguyện Hòathượng từ bi liền hiện Tây phương khiến cho tất cả được thấy.

Tổ bảo:

Này đại chúng! Người đời tự sắc thân là thành, mắt tai mũi lưỡi là cửa,ngoài có năm cửa, trong có cửa ý. Tâm là đất, tánh là vua, vua ở trên đất tâm,tánh còn thì vua còn, tánh đi mất thì vua mất; tánh ở thì thân tâm còn, tánh đithì thân tâm hoại. Phật nhằm trong tánh mà tạo, chớ hướng ra ngoài mà cầu. Tựtánh mê tức là chúng sanh, Tự tánh giác tức là Phật, từ bi tức là Quán Thế Âm,hỉ xả gọi là Đại Thế Chí, hay tịnh tức là đức Thích-ca, bình trực tức là PhậtDi-đà. Nhân ngã ấy là Tu-di, tà tâm là biển độc, phiền não là sóng mòi, độc hạilà rồng dữ, hư vọng là quỉ thần, trần lao là rùa trạnh, tham sân là địa ngục,ngu si là súc sanh.

Này Thiện tri thức, thường làm mười điều lành thì thiên đường liền đến,trừ nhân ngã thì núi Tu-di ngã, dẹp được tham dục thì biển nước độc khô, phiềnnão không thì sóng mòi mất, độc hại trừ thì rồng cá đều dứt. Ở trên Tâm địa mìnhlà giác tánh Như Lai phóng đại quang minh, ngoài chiếu sáu cửa thanh tịnh hayphá sáu cõi trời dục, Tự tánh trong chiếu ba độc tức liền trừ địa ngục v.v...các tội một lúc đều tiêu diệt, trong ngoài sáng tột, chẳng khác với cõi Tâyphương, không chịu tu như thế này làm sao đến được cõi kia?

Đại chúng nghe nói rồi đều rõ ràng thấy được Tự tánh, thảy đều lễ bái,đều tán thán: “Lành thay!” Thưa rằng: “Khắp nguyện pháp giới chúng sanh nghemột thời liền ngộ hiểu.”

Đến đây Tổ hỏi đại chúng: Các người muốn thấy cõi Cực Lạc không? Cảchúng đều hoan nghinh, xin được thấy, nghĩ rằng Tổ có thần thông hiện cõi CựcLạc ngay trước mắt. Tổ mới dạy: Muốn thấy cõi Cực Lạc phải ngay nơi tâm mìnhthanh tịnh, trừ dẹp những tâm xấu xa ác độc thì cõi Cực Lạc hiện tiền, không phảicầu sanh về nơi nào khác. Ngài bảo dẹp tham sân thì địa ngục mất, hết ngu sithì súc sanh không còn, dẹp phiền não thì sóng mòi lặng, dẹp tâm ác thì biểnđộc khô, dứt ngô ngã thì núi Tu-di ngã. Nếu dẹp sạch được các điều xấu xa nhơnhớp thì cõi Cực Lạc hiện tiền, không cần chạy đi đâu để tìm Cực Lạc. Thế màngười thế gian không chịu dẹp cái xấu, cứ một bề đòi về Cực Lạc thì làm sao đếnđược cõi ấy! Có nhiều vị tu hành cũng lâu, cũng khá rồi nhưng tâm sân chưa dẹpsạch. Mỗi khi nghe lời trái tai liền nổi giận rồi bảo: Tánh tôi như vậy! Nếuthật tánh mình là sân, như thế là chấp nhận mình ở địa ngục mãi sao? Đâu biếtcái giận chỉ là một thói quen lâu ngày, biết nó là xấu phải mạnh dạn chừa bỏ, khôngnên chấp nhận và bảo đó là tánh của tôi. Điều cốt yếu của sự tu là tịnh tâmmình, tâm mình thanh tịnh rồi, dù ở đâu cũng là cõi thanh tịnh.

Ví dụ nơi trường học có cậu học trò nhỏ vừa bắt đầu học lớp một, rồimuốn vào đại học ngay, việc đó được không? Dù người cai quản đại học có cảm tìnhvới nó, cũng không thể nào đưa đứa học trò ấy vào đại học được. Đứa học trò phảihọc từ từ, xong phần trung học rồi có đủ khả năng mới vào đại học. Việc tu hànhcũng như thế, dù Phật có lòng từ vô lượng, muốn độ chúng ta về cõi Phật, nhưngnếu chúng ta xấu xa ô nhiễm, thử hỏi Phật có độ về cõi kia được chăng? Muốn vềcõi Phật, chúng ta phải có đủ khả năng, tức là tâm phải thanh tịnh, thì Phật sẽđưa về cõi tịnh, việc ấy là chắc chắn. Tổ lại nói rộng quan niệm của Ngài vềviệc tu.

Tổ bảo:

Này Thiện tri thức, nếu muốn tu hành, tại gia cũng được, không cần ởchùa, người tại gia mà hay hành như người ở phương Đông mà tâm được thiện, còn ngườiở chùa mà không tu cũng như người ở phương Tây mà tâm ác. Chỉ tâm thanh tịnh tứclà Tự tánh Tây phương.

Như vậy người tại gia mong vào chùa để được yên ổn tu hành, dứt bỏ nhữngđiều xấu dở, nhưng khi vào chùa lại không bỏ những điều xấu dở ấy, vẫn còn phiềnnão thì khi ấy sẽ chạy về đâu? Vì lẽ đó Tổ mới sách tấn chúng ta: Ở đâu cũng tuđược, miễn là biết làm lành, miễn là biết trừ những tâm xấu. Chính việc đó Tổđã làm, mười mấy năm Ngài sống chung với nhóm thợ săn dưới hình thức cư sĩ, tâmNgài vẫn thanh tịnh. Thế nên Ngài dạy chúng ta ở chùa hay ở nhà mà biết tu cũngđều tốt, cũng đều quí. Tuy nhiên quí vị không nên hiểu lầm rồi sanh tự cao ngãmạn nói rằng: “Tôi ở nhà mà làm lành còn hơn các vị ở chùa mà làm ác.” Nếu cácvị ở chùa mà làm lành nữa vẫn còn hơn các vị ở tại gia làm lành một bậc.

GIẢNG 2

Thứ sử Vi Cừ lại hỏi:

Người tại gia làm sao tu hành? Cúi xin Ngài vì chỉ dạy.

Tổ bảo:

Tôi vì đại chúng làm một bài tụng Vô tướng, chỉ y đây mà tu, thường cùngtôi đồng ở không khác, nếu không tu như thế này dù có cạo tóc xuất gia đối vớiđạo cũng không có ích gì. Tụng rằng:

Tâm bình hà lao trìgiới,
Hạnh trực hà dụng tu thiền,
Ân tắc thân dưỡng phụ mẫu,
Nghĩa tắc thượng hạ tương lân.

Người nào tâm bình rồi không nhọc phải giữ giới, hạnh được thẳng rồikhông cần phải tu thiền. Tại sao? Tâm bình nghĩa là tâm không động, tâm không độngđâu còn tạo nghiệp nữa mà phải trì giới. Tâm bình ví như mặt nước lặng, bằngphẳng, đâu có sóng gió. Tâm bình đâu có dấy niệm tham sân si. Sở dĩ chúng tagiữ giới là để ngừa tham sân si, nếu tâm đã bình, đâu còn tham sân si để ngừa!Thế nên nói: Tâm bình không cần trì giới, hạnh trực không cần phải tu thiền. Hạnhđây cũng là tâm, tức là tâm hạnh nếu ngay thẳng thì không cần phải tu thiền. Ngaythẳng là thế nào? Là không vướng bên này, không kẹt bên kia. Thường chúng tahay dấy niệm chạy theo phải quấy tốt xấu, đó là hai bên. Nếu tâm mình ngaythẳng không kẹt hai bên, còn gì nữa mà tu thiền? Tu thiền là dứt tâm lăng xăng,nếu tâm lăng xăng không còn nữa, tu thiền là dư, nên nói hạnh trực không cần tuthiền.

Tuy nhiên nếu tâm chúng ta còn lăng xăng, nghĩ đây nghĩ kia thì cần tuthiền không? Dĩ nhiên là cần. Nếu tâm chúng ta chưa bình, gặp việc thì sân sinổi dậy, có cần giữ giới không? Tất nhiên là phải giữ giới, nếu không giữ giới,chắc tạo tội không sao kể xiết. Vì thế tâm chưa bình thì giới là quan trọng,hạnh chưa trực thì thiền rất thiết yếu. Khi nào tâm bình hạnh trực mới khôngcần giữ giới và tu thiền, nếu chưa được như thế mà đem hai câu này ra nói, là mộtđiều lầm lỗi lớn. Tỉ dụ khi nghe ai khuyên trì giới thì nói: “Tâm bình cần gì trìgiới, Tổ đã nói rõ ràng, các người còn hình thức quá!” Nghe ai dạy tu thiền thìbảo: “Hạnh trực đâu cần tu thiền, Tổ đã dạy rồi mà!” Nhưng thử hỏi tâm chúng tađã bình chưa? Hạnh chúng ta đã trực chưa? Nếu tự biết tâm mình chưa bình, hạnhchưa trực thì trì giới và tu thiền rất cần thiết. Người học pháp thông thì ít,chấp thì nhiều, chấp chữ chấp nghĩa, đem kinh ra nói khoác mà không tu, trởthành công kích người khác, tạo tội ác khẩu, vậy chúng ta phải cẩn thận. Tómlại muốn tu thiền, muốn giữ giới không gì hơn là tâm bình, hạnh trực. Tâm bình,hạnh trực là đủ cả giới, thiền trong đó.

Về cách xử sự tại gia, Tổ dạy: “Ân thì nuôi dưỡng cha mẹ, nghĩa thì trêndưới thương nhau.” Nói về ân, không ân nào cao bằng ân cha mẹ. Khi đọc đến đâychúng tôi thấy rõ tâm niệm Phật Tổ không hai. Chính trong kinh Tăng Nhất A-hàmcó một bài kinh nói về báo ân, đức Phật bảo: “Người nào biết đền ân, giả sử ởxa ta ngàn dặm, cũng như ở bên cạnh ta, người không biết đền ân, dầu đứng hầubên cạnh ta, cũng như cách xa ta ngàn dặm.” Phật giải thích: Không ân nào hơn âncha mẹ, thân này có từ nơi cha mẹ, nên đem cả sanh mạng bù đắp cho cha mẹ cũngkhông phải là quá! Thế nên người biết đền ân, trước phải nhớ ân cha mẹ, kế đóbiết đền ân những người mình đã chịu ân, những người ấy, Phật bảo là gần vớiPhật. Trong đoạn này, Tổ cũng dạy: Người biết ân là phải nuôi dưỡng cha mẹ.Người biết ân như vậy đối với Tổ đó là người tốt, đối với Phật đó là người gầnvới Phật.

Nói về nghĩa, tình thâm nghĩa nặng nhất là tình nghĩa ruột thịt, khônggì hơn tình nghĩa anh chị em, kẻ trên người dưới đều thương nhau. Tương lân làkẻ trên người dưới đều thương nhau. Như vậy đối với cha mẹ chúng ta hằng nhớ ânđể đền đáp, đối với anh chị em hằng có tâm niệm thương nhau, đó là nền tảng đạođức gia đình. Được như thế mới xứng đáng là người Phật tử biết đạo. Nếu chúngta đi chùa vái lạy liên miên, khi về nhà gặp cha mẹ thì ngó ngang không chào hỏi,gặp anh em rầy rà lớn tiếng, người lối xóm nhìn vào sẽ bảo đó là đạo đức giả.Đây là điều không tốt, chúng ta không thể chấp nhận những người như vậy. Muốnđi chùa, muốn lạy Phật, trước hết chúng ta phải biết cha biết mẹ rồi biết anhem. Từ cha mẹ đến anh em chúng ta cư xử tốt, khi vào đạo chúng ta mới là ngườitốt. Nếu chúng ta là người ngoan đạo mà ở gia đình là kẻ bất hiếu bất nghĩa, sựngoan đạo ấy chỉ làm trò cười cho thiên hạ. Nếu trăm người Phật tử đều như vậy,chắc không ai dám vào đạo Phật nữa, vì vào đạo mà bất hiếu bất nghĩa thì vàolàm gì? Chúng tôi nhắc lại, người Phật tử chân chánh phải có những bài thuyếtpháp sống ngay nơi mình, nghĩa là trong cuộc sống gia đình phải là người mẫumực biết làm lành, làm phải, biết ân cha mẹ, biết tình nghĩa anh em. Nếu chỉ cónếp sống đạo đức ở chùa mà không áp dụng nơi gia đình, đạo đức ấy không phảithật, vì người Phật tử không ở chùa thường, chỉ đến chùa một hay hai lần trongtháng, mà ở nhà thường trực hơn. Nếu sống thường trực nơi gia đình không ra gìthì sống một, hai ngày ở chùa có nghĩa lý gì đâu. Điều quan trọng là cách cư xửtại nhà: hiếu kính cha mẹ, thương mến anh em. Cha mẹ anh em là ân là nghĩa, làngười ruột thịt gần gũi, nếu chúng ta không kể đến thì những người ngoài khôngcó tình máu mủ, không ân nghĩa nặng nề, có làm điều trái ý, chúng ta có thể hạihọ được. Tình thương ruột thịt không có thì tình thương xã hội khó mà tìm được.Hiểu được như vậy mới thấy rõ Phật, Tổ đều dạy chúng ta điều căn bản là đối vớicha mẹ phải lấy ân để đền đáp, đối với anh em phải lấy nghĩa mà thương mến nhau.

Nhượng tắc tôn ti hòamục,
Nhẫn tắc chúng ác vô huyên,
Nhược năng toản mộc xuất hỏa,
Ứ nê định sanh hồng liên.

Nhượng tức là nhường. Nhường nhịn nhau trên dưới mới được hòa mục. Anhem thương nhau chưa đủ, còn phải nhường nhịn nhau mới ổn, kẻ trên người dướiđều hòa hợp nhau. Người ẩn nhẫn thì những việc ác không còn làm ồn náo họ nữa.Người không ẩn nhẫn được thường hay mích lòng, bực tức dễ nổi sân si... nênviệc ác làm ồn náo họ mãi. Nếu hay nhẫn được thì mọi sự ồn náo đều dứt sạch.Tóm lại Tổ dạy chúng ta ở tại gia phải làm sao cho tình anh em không mất, muốn đượcnhư vậy anh em phải nhường nhịn nhau, nhường nhịn nhau mới đem lại hòa mục, đemlại êm ấm cho gia đình.

Ngài dạy tiếp: Nếu chúng ta hay dùi cây cho ra lửa, trong bùn nhất định hoasen hồng mọc lên. Ngài muốn chỉ rằng người tại gia ở trong cảnh ồn náo khó tu,nhưng trong cảnh ấy mà vẫn cố gắng tiến tu như dùi cây cho ra lửa, như hoa senmọc trong bùn. Trong bùn mới có hoa sen còn trên tảng đá sạch sẽ này làm gì cóhoa sen mọc. Vì thế người tại gia gặp nhiều phiền não mà khéo tu cũng như trongbùn mọc lên hoa sen, cũng như dùi cây ra lửa vậy. Đây là Tổ muốn khuyến khíchngười cư sĩ tại gia phải nỗ lực tiến tu dù ở hoàn cảnh khó khăn nào, không vìcảnh khó mà sanh tâm thối chuyển, như vậy mới biến được dở thành hay.

Khổ khẩu đích thịlương dược,
Nghịch nhĩ tất thị trung ngôn,
Cải quá tất sanh trí tuệ,
Hộ đoản tâm nội phi hiền.

Khổ khẩu là đắng miệng. Theo quan niệm xưa, thuốc hay tất phải đắngmiệng, lời nói nghịch tai là lời ngay thẳng. Tại sao? Tỉ dụ chúng ta làm điềugì quấy, có người gan dạ chỉ lỗi giùm: huynh làm điều ấy sai, nếu chúng ta nghelời chỉ dạy, biết nhận lỗi, đó là thuốc hay; nếu chúng ta nghe trái tai mộtchút liền nổi sân lên, đó là không tốt. Nhưng đa số người thế gian, ai cũng nhưai đều thích được khen và không chịu bị chê. Giả sử chúng ta làm quấy một trăm phầntrăm nhưng được người khác khen, chúng ta cũng vui thích. Ví dụ có người ăntrộm, trong xóm trong làng ai cũng biết mặt. Nếu chú ấy ăn mặc chải chuốt, cóngười khen: “chà! chú mầy giống như một nhà văn, một tài tử v.v...” thử hỏi chúấy có vui lên không? có muốn gây với người khen chú không? Trái lại, nếu gặpchú ăn trộm ăn mặc chải chuốt, chúng ta liền nói: “kẻ ăn trộm mà cũng ăn diệnbảnh bao”, tức nhiên chú ấy sẽ gây với mình ngay. Như vậy người đời lúc nàocũng thích được khen dù lời khen không đúng sự thật, còn lời nói thẳng dù đúngsự thật một trăm phần, người đời cũng vẫn giận, đây là nói chung cho tất cả mọingười, kể cả chúng ta. Vì thế chúng ta nên tập làm sao trước những lời nói tráitai vẫn vui vẻ nghe để sửa mình. Ai chỉ điều quấy, chúng ta liền nhận lỗi đểsửa, như vậy mới là người biết tu. Những lời trái tai là lời trung thực, chúngta ráng nghe để sửa mình.

Tổ dạy tiếp: Cải quá ắt sanh trí tuệ, còn gìn giữ hay bảo hộ điều quấytrong tâm là không phải người hiền. Người có lỗi mà che giấu là không phảingười hiền, trái lại người làm quấy mà biết sửa là người trí tuệ. Đây là điềurất thiết yếu cho việc tu. Đa số chúng ta thường có quan niệm lầm lẫn, cứ nhìnvào người xuất gia, cho là những thần tượng, là những bậc Hiền Thánh, là nhữngvị đã vượt qua người thế gian. Nhưng nếu được ở gần các vị ấy một thời gian, mớithấy các vị ấy thỉnh thoảng cũng lộ ra đôi chút phiền não; lúc bấy giờ các thầntượng đều sụp đổ, các Phật tử mới than: “Tưởng các vị tu hành là Thánh hết, tạisao còn dở quá vậy?” Rồi chán nản không còn muốn tu theo. Như thế, quan niệm đóđúng hay sai? Đấy là điều tôi muốn nhắc quí vị. Người tại gia, kể cả người xuấtgia, quí vị phải quan niệm cho đúng. Chúng tôi chưa có ai được vào hàng Thánh,chúng tôi là phàm Tăng, phàm Ni; đã là phàm tức là đang tu, đang tu tức là chưasạch. Quí vị nên nhớ rõ, người nào đang tu tức người đó chưa sạch, như chiếc áocòn đang giặt chưa phải là áo sạch, nếu sạch rồi không ai giặt nữa. Như vậy còngiặt là còn nhơ, còn tu là còn khuyết điểm; còn khuyết điểm nên mới tu cho hếtđiều dở, xấu; hết khuyết điểm thì tu làm chi nữa, vì đã là Phật rồi. Vì thế đốivới người tu, không nên đòi hỏi các vị ấy phải là thần tượng, phải là hiện thâncủa chân lý. Tuy nhiên có thể đòi hỏi các người tu như thế này: Nếu người tạigia xấu một trăm phần thì ít ra người xuất gia cũng được năm chục phần tốt, chỉcòn năm chục phần xấu, điều đó khả dĩ được. Người còn tu chưa phải toàn vẹntrăm phần, toàn vẹn là khi nào thành Phật. Người đang tu hơn được quí vị chừnghai, ba mươi phần trăm, hay khá lắm là năm mươi phần trăm là được lắm rồi,không nên đòi hỏi quá đáng. Hiểu như vậy, quí vị mới có thể thông cảm được vớingười tu và ở gần không chán. Nhưng người tu có nhiều điểm khác người thế gian,như người thế gian nghe lời trái tai có thể giận mười năm không bỏ; với ngườitu thì khác, trong sách có câu “Tăng hận bất cách túc” nghĩa là Tăng giận khôngquá một đêm. Như vậy người tu hay người thế gian đều có giận nhưng người tu chỉgiận chốc lát rồi bỏ. Không nên đòi hỏi người tu không còn tâm giận, vì thamsân si là ba cái gốc của cõi luân hồi này, còn ở cõi này tức là còn tham sânsi. Khi nào dẹp sạch ba độc này là chứng quả A-la-hán; song hiện nay mấy ai chứngquả A-la-hán? Nhưng có điều hay là người tu khi làm điều dở bị phê bình liềnbiết hối cải. Tỉ dụ như người biết tu khi vừa nổi sân liền bị người chỉ lỗi “đólà hắc phong”, người biết tu liền hối hận bỏ ngay. Như vậy là tốt, là đángkhen, chớ đừng bảo người tu không có giận. Tất cả quí Phật tử cũng vậy, khi làmviệc gì dở, được sự chỉ dạy của người trên, hoặc sự nhắc nhở của đồng bạn haytự mình biết điều đó là dở liền bỏ, đó là người trí tuệ. Đừng bao giờ nghĩ rằngmình không có điều dở, chúng ta có dở, nhưng biết sửa đổi, đó là tốt, là trítuệ. Nếu dở mà cứ che giấu trong lòng hoài, đó là người không hiền. Không hiềnlà người gì? Là kẻ dữ. Người che giấu lỗi hoài là kẻ dữ, còn người hiền có lỗigì phơi bày ra rồi chừa bỏ, đó là người tốt, người khôn ngoan, người trí tuệ.

Tóm lại, lời dạy của Tổ thực tế vô cùng, Ngài chỉ cho chúng ta tu mộtcách thiết thực. Ngài bảo ở trong gia đình, trên kính thờ cha mẹ, dưới thươnganh em và nhường nhịn nhau cho trong nhà được an vui, đem lại sự hòa mục, nhẫnnhịn để lòng mình hết ồn náo. Được như vậy là mình khéo ở trong bùn mà mọc hoasen. Ngài lại dạy lời nói ngay nghe trái tai nhưng có lợi, vì đó là lời trungthực cũng như thuốc đắng đã tật vậy; có lỗi liền biết sửa, đó là trí tuệ, cólỗi mà che giấu thì không phải là người hiền, hay nói nặng hơn, đó là kẻ dữ.

Nhật dụng thường hànhnhiêu ích,
Thành đạo phi do thí tiền,
Bồ-đề chỉ hướng tâm mích,
Hà lao hướng ngoại cầu huyền.

Mỗi ngày thường làm những điều lợi ích cho mọi người, cho chúng sanh.Nhiêu ích là lợi ích cho nhiều người, cho chúng sanh. Người tu thành đạo khôngphải đem tiền thí mà thành đạo; thành đạo là do tu nơi tâm mình, thí tiền chỉlà phước ở bên ngoài. Thế nên người tu muốn giác ngộ là phải Tự tâm mình giácngộ, chớ không phải cúng thí nhiều mà giác ngộ. Cúng thí là tạo phước để mình đượcnhững quả tốt cho đời sau, chớ không phải là thành đạo. Bồ-đề chỉ cho Tánhgiác. Bồ-đề chỉ hướng trong tâm mà tìm, đâu có nhọc hướng ra ngoài cầu sự huyềndiệu. Muốn giác ngộ phải ngay nơi tâm mình giác, đừng mong tìm ở bên ngoài, bênngoài không có những huyền diệu đó.

Thính thuyết y thử tuhành,
Tây phương chỉ tại mục tiền.

Nghe nói y đây tu hành, Cực Lạc chỉ ngay trước mắt. Ngài bảo người nào ytheo bài kệ Ngài dạy mà tu hành thì cõi Cực Lạc ở ngay trước mắt, không có xaxôi, không có cách mười muôn ức cõi. Vậy muốn thấy Cực Lạc thì hằng ngày ứngdụng đúng như bài kệ này sẽ thấy Cực Lạc hiện tiền.

Tổ lại bảo:

Này Thiện tri thức, thảy phải y kệ đây mà tu hành, nhận lấy Tự tánh,thẳng đó thành đạo. Pháp không đợi nhau, mọi người hãy giải tán, tôi trở về TàoKhê, chúng nếu có nghi, lại đến hỏi nhau.

Khi ấy Thứ sử quan liêu ở trong hội, kẻ thiện nam tín nữ mỗi người đềuđược khai ngộ, tin thọ vâng làm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567