KINH LĂNG GIÀTÂM ẤN
Thiền Sư Hàm Thị Sớ Giải
Hoà Thượng Thích Thanh Từ Việt Dịch
Thiền Viện Thường Chiếu
DUYÊN KHỞI LĂNG-GIÀ TÂM ẤN
Người sớ kinh này làLôi Phong lão nhân, vốn là móng vuốt trong tông môn, vào được hang ổ của tánh tướng.Ngài thương sự hoang rậm của nghĩa học và xót chỗ hỗn độn của thiền môn, nên từnăm Quí Tỵ (1653) lui về ẩn nơi Khuông Phụ, treo bầu ở Kim Tỉnh, dựng gậy tạiNgọc Uyên. Hỏi về chỗ khế chứng thì Ngài tâm lặng biển trong, ngửa nhìn thóiđẹp thì thân như ngọn núi cao trơ trọi. Như Địa Tạng Sâm cày ruộng nuôi sống,như Thê Hiền Thực tụng tập tu hành. Lò tàn bếp lạnh, chỉ toàn nêu đại pháp.Cước tùng lẫn lộn tơ rối bòng bong, nương nơi trí bén mà cắt đứt trăm mối. Ngàiđối với cổ nhân thật không hổ thẹn.
Đến năm Mậu Tuất (1658), Ngàitrở về Lãnh Nam.Kim Vô tôi năm sau từ Ngọc Môn tìm đến, khoảng năm Nhâm Dần (1662) và Quí Mẹo(1663) cùng chư đệ Thạch Giám v.v… thưa hỏi về Duy thức. Ngài bảo: “KinhLăng-già chỉ minh sơ thần ngã chẳng cùng tánh châu mà lạm nhận, nương lông rùadầu cát mà chóng giác vọng tình tự mất.” Nhân Ngài nêu bày chỉ yếu, chúng tôi bènthỉnh sớ giải.
Ngài khéo hiệp với Tâm tông,lại toàn thông danh tướng. Chẳng những giũa mài cây trụ cuồng thiền cũng gồmkích dương nơi giảng tịch. Tượng tâm cao vót dầm nghĩa hải nơi nguồn sâu, thầncơ sâu lặng phá các nạn vấn trong nửa bài kệ. Nhọc nhằn mệt mỏi, nhóm họp sưutầm liền thấy đại nghĩa hiện bày sáng rỡ, mừng lời diệu mà không mắc kẹt. Giáođể giúp tông, chỉ truyền riêng bốn quyển. Thức tức là tàng, trợ đại tâm để lấnát Nhị thừa. Đây thật là vận dụng tâm tối thượng, trông xa thấy thời tệ mà làmấy vậy. Trong lời sớ có nhập lý thâm đàm mà vẫn khít khao với văn kinh. Chínhnơi văn nghĩa mà thấy tông thừa, hội tông thừa mà tiêu dung văn nghĩa. Dám thầmnêu lên để chỉ cho kẻ hậu học. Bốn sông đều chảy vào biển, một hòn bọt cũngchẳng còn. Ấy tại xem văn lóng trong mắt tuệ.
Thời vua Khang Hi năm GiápThìn (1664) ngày mùng 10 tháng 8, đệ tử nối pháp Kim Vô cúi đầu kính thuật.